Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Pháp Đăng
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 27/5/2020
136. Ðại Kinh Nghiệp Phân Biệt
(Mahàkammavibhaṅga)
Như vầy tôi nghe.
1136. Kẻ không được nghe hỏi ngưòi không được biết
Câu chuyện bắt đầu từ một
du sĩ ngoại đạo tên Potaliputta nêu lên một câu hỏi với tỳ kheo Samiddhi. Người
hỏi không nắm vững mình muốn hỏi gì lại mượn danh Phật. Người trả lời không có đủ
khả năng phân tích nghi vấn và đã lời không đúng. (Mặc dù trong bài kinh nầy tỳ
kheo Samiddhi bị Bậc Đạo Sư khiển trách là thiếu trí nhưng sau nầy do sự khai
thị của Đức Phật vị nầy chứng quả A la hán):
Một thời Thế Tôn ở Rājagaha (Vương Xá),
Veluvana (Trúc Lâm), tại chỗ nuôi dưỡng sóc. Lúc bấy giờ Tôn giả
Samiddhi trú tại một cái cốc trong rừng. Rồi du sĩ ngoại đạo
Potaliputta tiêu dao tản bộ, tuần tự du hành, đi đến Tôn giả Samiddhi;
sau khi đến, nói lên với Tôn giả Samiddhi những lời chào đón hỏi
thăm. Sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi
ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, du sĩ ngoại đạo Potaliputta thưa
với Tôn giả Samiddhi:
-- Này Hiền giả Samiddhi, trước mặt Thế Tôn,
tôi tự thân nghe, tự thân ghi nhận như sau: "Hư vọng là thân
nghiệp, hư vọng là khẩu nghiệp, chỉ có ý nghiệp là chân thật. Và
có một Thiền chứng (samāpatti), do thành tựu Thiền chứng này, sẽ
không có cảm giác gì".
-- Này Hiền giả Potaliputta, chớ có nói vậy.
Này Hiền giả Potaliputta, chớ có nói vậy. Chớ có phỉ báng Thế Tôn;
phỉ báng Thế Tôn là không tốt. Thế Tôn không có nói như vậy:
"Hư vọng là thân nghiệp, hư vọng là khẩu nghiệp, chỉ có ý
nghiệp là chân thật". Và Hiền giả, có một Thiền Chứng, do
thành tựu thiền chứng này, sẽ không có cảm giác gì.
-- Ngài xuất gia đã bao lâu, thưa Hiền giả
Samiddhi?
-- Không lâu, thưa Hiền giả. Có ba năm.
-- Nay ở đây chúng tôi còn hỏi các Tỷ-kheo
trưởng lão làm gì khi một tân Tỷ-kheo nghĩ rằng cần phải bảo vệ
vị Ðạo sư như vậy. Thưa Hiền giả Samiddhi, khi một người có dụng
ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp thời người ấy có cảm
giác gì?
-- Này Hiền giả Potaliputta, khi một người có
dụng ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp thời người ấy cảm
giác khổ đau.
Rồi du sĩ ngoại đạo Potaliputta, không tán thán
cũng không phản đối lời nói của Tôn giả Samiddhi. Không tán thán,
không phản đối, du sĩ ngoại đạo Potaliputta từ chỗ ngồi đứng dậy rồi
ra đi.
Rồi Tôn giả Samiddhi, sau khi du sĩ ngoại đạo
Potaliputta ra đi không bao lâu, liền đi đến Tôn giả Ānanda; sau khi
đến, nói lên với Tôn giả Ananda những lời chào đón hỏi thăm; sau
khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống
một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Samiddhi kể lại cho Tôn giả Ānanda
tất cả cuộc đàm thoại với du sĩ ngoại đạo Potaliputta. Sau khi nghe
nói vậy, Tôn giả Ānanda nói với Tôn giả Samiddhi:
-- Này Hiền giả Samiddhi, đây là đề tài một
câu chuyện cần phải yết kiến Thế Tôn. Này Hiền giả Samiddhi, chúng
ta hãy đi đến Thế Tôn, sau khi đến hãy trình bày lên Thế Tôn rõ ý
nghĩa này. Thế Tôn trả lời chúng ta như thế nào, chúng ta hãy như
vậy thọ trì.
-- Thưa vâng, Hiền giả.
Tôn giả Samiddhi vâng đáp Tôn giả Ānanda. Rồi
Tôn giả Ānanda và Tôn giả Samiddhi đi đến Thế Tôn; sau khi đến đảnh
lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ānanda,
trình lên Thế Tôn tất cả câu chuyện giữa Tôn giả Samiddhi với du
sĩ ngoại đạo Potaliputta.
Khi nghe nói vậy, Thế Tôn nói với Tôn giả Ānanda:
-- Này Ānanda, Ta chưa từng thấy du sĩ ngoại
đạo Potaliputta, thời câu chuyện này từ đâu xảy ra? Này Ānanda, câu
hỏi đáng lý phải trả lời phân tích rõ ràng cho du sĩ ngoại đạo
Potaliputta, lại được Samiddhi thiếu hiểu biết trả lời theo một chiều.
1137. Người mê lầm
biện hộ cho người lầm mê
Tỳ kheo Udàyi vốn là người hay nói, và thường nói
không vụng về, đã có phát biểu bênh vực cho tỳ kheo Samiddhi:
Khi nghe nói vậy, Tôn giả Udāyi bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, nếu đây là ý nghĩa của Tôn
giả Samiddhi nói lên, thời cảm giác gì người ấy cảm thọ là cảm
giác khổ đau.
Rồi Thế Tôn nói với Tôn giả Ānanda:
-- Này Ānanda, hãy xem con đường sai lạc của Udāyi
thiển cận này. Này Ānanda, Ta biết rằng, nếu nay Udāyi này mở miệng ra
(đề cập vấn đề gì), ông ấy sẽ mở miệng đề cập một cách không
như lý (ayoniso). Này Ānanda, thật sự chỗ khởi thủy của du sĩ ngoại
đạo Potaliputta hỏi là về ba cảm thọ. Này Ananda, nếu Samiddhi thiếu hiểu
biết này được du sĩ ngoại đạo Potaliputta hỏi như vậy và trả lời
như sau: "Này Hiền giả Potaliputta, nếu một ai có dụng ý làm
thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp, có khả năng đưa đến lạc thọ,
người ấy sẽ cảm giác lạc thọ. Này Hiền giả Potaliputta, nếu một ai
có dụng ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp có khả năng đưa
đến khổ thọ, người ấy sẽ cảm giác khổ thọ. Này Hiền giả Potaliputta,
nếu một ai có dụng ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp có
khả năng đưa đến bất khổ bất lạc thọ, người ấy sẽ cảm giác bất
khổ bất lạc thọ"; nếu trả lời như vậy, này Ānanda, Samiddhi đã trả lời một cách chơn
chánh cho du sĩ ngoại đạo Potaliputta. Và lại nữa, này Ānanda, những
kẻ du sĩ ngoại đạo thiếu hiểu biết, kém học, họ sẽ hiểu được đại
phân biệt về nghiệp của Như Lai. Này Ananda, hãy nghe Như Lai phân
tích đại phân biệt về nghiệp".
1138. Bốn hạng chúng sanh ở đời trong cái nhìn đại loại
Người làm ác không hẳn sanh vào cảnh khổ, hay ngược
lại, người làm thiện không chắc chắn sanh vào cõi an lạc sau khi chết. Mới nghe
rất nghịch lý nhưng phải hiểu vấn đề sâu xa hơn
-- Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời; bạch Thiện
Thệ nay đã đến thời, Thế Tôn hãy phân tích đại phân biệt về
nghiệp! Sau khi nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.
-- Vậy này Ānanda, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ
nói:
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Ānanda vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói
như sau:
-- Này Ānanda, có bốn loại người này có mặt
ở đời. Thế nào là bốn? Ở đây, này Ānanda, có người sát sanh, lấy
của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi,
nói lời ác khẩu, nói lời phù phiếm, có tham dục, có sân tâm, có
tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác
thú, đọa xứ, địa ngục.
Nhưng ở đây, này Ānanda, có người sát sanh,..
có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào thiện
thú, Thiên giới, cõi đời này.
Ở đây, này Ānanda, có người từ bỏ sát sanh,
từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói
láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói ác khẩu, từ bỏ nói lời phù
phiếm, từ bỏ tham dục, từ bỏ sân tâm, có chánh kiến; sau khi thân
hoại mạng chung, người ấy được sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi
đời này.
Nhưng ở đây, này Ānanda, có người từ bỏ sát
sanh,.. có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh
vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
1139. Bốn cái thấy nhưng “thấy không tới”
Ngay cả những sa môn chứng đắc thiền định có thiên nhãn
nhìn thấy cảnh giới sanh tử của chúng sanh cũng không hiểu tường tận vấn đề nhân
quả:
Ở đây, này Ānanda, có vị Sa-môn hay Bà-la-môn
nhờ nhiệt tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ
chánh tác ý, nên tâm nhập định. Khi tâm nhập định, nhờ thiên nhãn
thanh tịnh siêu nhân, vị ấy thấy có người ở đây sát sanh, lấy của
không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói
ác khẩu, nói lời phù phiếm, có tham dục, có sân tâm, có tà kiến;
sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa
xứ, địa ngục. Vị ấy nói như sau: "Thật sự có những ác nghiệp,
có quả báo ác hạnh. Và ta đã thấy có người ở đây sát sanh, lấy
của không cho... nói hai lưỡi... có tà kiến, sau khi thân hoại mạng
chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục".
Vị ấy nói như sau: "Chắc chắn tất cả mọi người sát sanh, lấy
của không cho... có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, họ đều
sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục". Những ai biết như
vậy, những vị ấy biết một cách chơn chánh. Những ai biết khác như
vậy, trí của họ thuộc tà trí. Như vậy, điều vị ấy tự mình biết,
tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây, vị ấy nắm giữ, chấp trước
và tuyên bố: "Chỉ như vậy mới chơn thực, ngoài ra đều là hư
vọng".
Ở đây, này Ānanda, có Sa-môn hay Bà-la-môn,
nhờ nhiệt tâm, nhờ tinh tấn,... vị ấy thấy có người sát sanh, lấy
của không cho... có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy
được sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Vị ấy nói như
sau: "Thật sự không có những ác nghiệp, không có quả báo ác
hạnh. Và ta đã thấy có người ở đây sát sanh, lấy của không cho...
có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, được sanh vào thiện thú,
Thiên giới, cõi đời này. Vị ấy nói như sau: "Chắc chắn tất cả
mọi người sát sanh, lấy của không cho... có tà kiến; "sau khi
thân hoại mạng chung, họ đều được sanh vào thiện thú, Thiên giới,
cõi đời này". Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một
cách chơn chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà
kiến". Như vậy, điều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự
mình hiểu rõ, ở đây vị ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố:
"Chỉ như vậy mới chân thực, ngoài ra đều là hư vọng".
Ở đây, này Ānanda, có Sa-môn hay Bà-la-môn,
nhờ nhiệt tâm, nhờ tinh tấn,... vị ấy thấy có người ở đây từ bỏ
sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến; sau khi thân
hoại mạng chung, người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời
này. Vị ấy nói như sau: "Thật sự có những thiện nghiệp, có quả
báo thiện hạnh. Và ta đã thấy có người ở đây từ bỏ sát sanh, từ
bỏ lấy của không cho... có chánh kiến sau khi thân hoại mạng chung,
sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này". Vị ấy nói như
sau: "Chắc chắn tất cả mọi người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy
của không cho... có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, họ đều
sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Những ai biết như vậy,
những vị ấy biết một cách chơn chánh. Những ai biết khác như vậy,
trí của họ thuộc tà trí". Như vậy, điều này vị ấy tự mình
biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây vị ấy nắm giữ, chấp
trước và tuyên bố: "Chỉ như vậy mới chơn thực, ngoài ra đều
là hư vọng".
Ở đây, này Ānanda, có Sa-môn... vị ấy thấy có
người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến;
sau khi thân hoại mạng chung, người ấy bị sanh vào cõi dữ, ác thú,
đọa xứ, địa ngục. Vị ấy nói như sau: "Thật sự không có những
thiện nghiệp, không có quả báo thiện hạnh. Và Ta đã thấy có người
ở đây từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến;
sau khi thân hoại mạng chung, người ấy bị sanh vào cõi dữ, ác thú,
đọa xứ, địa ngục". Vị ấy nói như sau: "Chắc chắn tất cả
mọi người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... có chánh
kiến; sau khi thân hoại mạng chung, họ đều bị sanh vào cõi dữ, ác
thú, đọa xứ, địa ngục. Những ai biết như vậy, những vị ấy biết
một cách chân chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc
tà kiến". Như vậy, điều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự
mình hiểu rõ, ở đây vị ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố:
"Chỉ như vậy mới chân thực, ngoài ra đều là hư vọng".
1140. Những điều chỉ có Như Lai mới có thể thấu suốt
Chỉ có Phật trí mới thấy rõ chắc chắn có nghiệp thiện ác,
nghiệp ác tạo quả khổ, nghiệp thiện tạo quả vui nhưng cảnh giới tái sanh không
tương ứng vẫn có thể xẩy ra vì tâm trạng giờ phút lâm chung và quan kiến chấp
thủ tạo nên sai biệt:
Ở đây, này Ānanda, Sa-môn hay Bà-la-môn nào
nói như sau: "Chắc chắn có ác nghiệp, có quả báo ác
nghiệp". Như vậy, Ta chấp nhận cho vị ấy. Vị ấy nói như sau:
"Tôi đã thấy ở đây có người sát sanh, lấy của không cho... có
tà kiến, sau khi thân hoại mạng chung, tôi thấy người ấy sanh vào
cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục". Như vậy, Ta cũng chấp nhận
cho vị ấy. Còn nếu vị ấy nói như sau: "Chắc chắn tất cả những
ai sát sanh, lấy của không cho... ; sau khi thân hoại mạng chung, họ
đều sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục", như vậy, Ta
không chấp nhận cho vị ấy. Và nếu vị ấy nói như sau: "Những ai
biết như vậy, những vị ấy biết một cách chân chánh. Những ai biết
khác như vậy, trí của họ thuộc tà kiến"; như vậy, Ta không
chấp nhận cho vị ấy. Ðiều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự
mình hiểu rõ, ở đây vị ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố:
"Chỉ như vậy mới chơn thực, ngoài ra đều là hư vọng". Như
vậy, Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy. Vì cớ sao? Khác như vậy,
này Ānanda, là trí của Như Lai về Ðại phân biệt về nghiệp.
Ở đây, này Ānanda, Sa-môn hay Bà-la-môn nào
nói như sau: "Chắc chắn không có ác nghiệp, không có quả báo
ác hạnh". Như vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy. Và vị ấy nói
như sau: "Tôi đã thấy ở đây có người sát sanh, lấy của không
cho... có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, tôi thấy người ấy
sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này". Như vậy, Ta chấp
nhận cho vị ấy. Còn nếu vị ấy nói như sau: "Chắc chắn tất cả
những ai sát sanh, lấy của không cho... tất cả sau khi thân hoại mạng
chung, họ đều sanh vào thiện thú Thiên giới, cõi đời này"; như
vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy. Và nếu vị ấy nói như sau:
"Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chơn chánh.
Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà kiến"; như
vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy. Ðiều vị ấy tự mình biết, tự mình
thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây, vị ấy nắm giữ, chấp trước và
tuyên bố: "Chỉ như vậy mới chơn thực, ngoài ra đều là hư
vọng". Như vậy Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy. Vì cớ sao?
Khác như vậy, này Ānanda, là trí của Như Lai về Ðại phân biệt về
nghiệp.
Ở đây, này Ānanda, Sa-môn hay Bà-la-môn nào
nói như sau: "Chắc chắn có thiện nghiệp, có quả báo thiện
hạnh". Như vậy Ta chấp nhận cho vị ấy. Và vị ấy nói như sau:
"Tôi đã thấy ở đây có người từụ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của
không cho... có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, tôi thấy
người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này". Như
vậy, Ta cũng chấp nhận cho vị ấy. Còn nếu vị ấy nói như sau:
"Chắc chắn tất cả những ai từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của
không cho... tất cả sau khi thân hoại mạng chung; họ đều sanh vào
thiện thú, Thiên giới, cõi đời này"; như vậy, Ta không chấp
nhận cho vị ấy. Và nếu vị ấy nói như sau: "Những ai biết như
vậy, những vị ấy biết một cách chân chánh. Những ai biết khác như
vậy, trí của họ thuộc tà kiến", như vậy, Ta cũng không chấp
nhận cho vị ấy. Ðiều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình
hiểu rõ, ở đây, vị ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố: "Chỉ
như vậy mới chơn thực, ngoài ra đều là hư vọng". Như vậy, Ta
cũng không chấp nhận cho vị ấy. Vì cớ sao? Khác như vậy, này
Ananda, là trí của Như Lai về Ðại phân biệt về nghiệp.
Ở đây, này Ānanda, Sa-môn hay Bà-la-môn nào
nói như sau: "Chắc chắn không có thiện nghiệp, không có quả
báo thiện hạnh ". Như vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy. Và vị
ấy nói như sau: "Tôi đã thấy ở đây có người từ bỏ sát sanh,
từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng
chung, tôi thấy người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục".
Như vậy, Ta chấp nhận cho vị ấy. Còn nếu vị ấy nói như sau:
"Chắc chắn những ai từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho...
có chánh kiến, tất cả sau khi thân hoại mạng chung, họ đều sanh vào
cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục"; như vậy, Ta cũng không
chấp nhận cho vị ấy. Và nếu vị ấy nói như sau: "Những ai biết
như vậy, những vị ấy biết một cách chân chánh. Những ai biết khác
như vậy, trí của họ thuộc tà kiến"; như vậy, Ta cũng không
chấp nhận cho vị ấy. Ðiều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự
mình hiểu rõ, ở đây vị ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố:
"Chỉ như vậy mới chơn thực, ngoài ra đều là hư vọng". Như
vậy, Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy. Vì cớ sao? Khác như vậy,
này Ānanda, là trí của Như Lai về Ðại phân biệt về nghiệp.
1141. Thấy vậy nhưng không hẳn là vậy
Nghiệp không phải chỉ tạo trong đời nầy mà còn nhiều đời
trước; quả nghiệp không phải chỉ có trỗ hiện kiếp mà còn kiếp kế tiếp và nhiều
kiếp sau nữa. Nghiệp tạo hằng ngày không quyết định tất cả mà còn phải kể tâm
trạng ỏ giây phút lâm chung. Hơn thế nữa người làm lành vẫn có thể mang cái nhìn
tà kiến:
Ở đây, này Ānanda, người nào sát sanh, lấy
của không cho... có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy
bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục... Hoặc là một ác
nghiệp đưa đến cảm giác khổ thọ do người ấy làm lúc trước, hay
một ác nghiệp đưa đến cảm giác khổ thọ do người ấy làm về sau,
hay trong khi mệnh chung, một tà kiến được người ấy chấp nhận và
chấp chặt. Do vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào
cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Và ai ở đây sát sanh, lấy của
không cho... có tà kiến, người ấy phải lãnh thọ quả báo được
khởi lên ngay hiện tại hay trong một đời khác.
Ở đây, này Ānanda, người nào sát sanh, lấy
của không cho... có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy
bị sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này... Hoặc là một
thiện nghiệp đưa đến cảm giác lạc thọ do người ấy làm lúc trước,
hay một thiện nghiệp đưa đến cảm giác lạc thọ do người ấy làm về
sau, hay trong khi mệnh chung, một chánh kiến được người ấy chấp
nhận và chấp chặt. Do vậy sau khi thân hoại mạng chung, người ấy
sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Và ai ở đây sát sanh,
lấy của không cho... có tà kiến, người ấy phải lãnh thọ quả báo
được khởi lên ngay hiện tại hay trong một đời khác.
Ở đây, này Ānanda, người nào từ bỏ sát sanh,
từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng
chung, người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này... Hoặc
là một thiện nghiệp đưa đến cảm giác lạc thọ do người ấy làm từ
trước, hay một thiện nghiệp đưa đến cảm giác lạc thọ do người ấy
làm về sau, hay trong khi mệnh chung, một chánh kiến được người ấy
chấp nhận và chấp chặt. Do vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người
ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Và ai ở đây từ bỏ
sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến, người ấy phải
lãnh thọ quả báo được khởi lên ngay hiện tại, hay trong một đời
khác.
Ở đây, này Ānanda, người nào từ bỏ sát sanh,
từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng
chung, người ấy bị sanh vào cói dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục...
Hoặc là một ác nghiệp đưa đến cảm giác khổ thọ do người ấy làm
từ trước, hay một ác nghiệp đưa đến cảm giác khổ thọ do người ấy
làm về sau, hay trong khi mệnh chung, một tà kiến được người ấy
chấp nhận và chấp chặt. Do vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người
ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Và ai ở đây từ bỏ
sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến, người ấy phải
lãnh thọ quả báo được khởi lên ngay hiện tại hay trong một đời
khác.
1142. Câu kết nói lên tất cả điểm tế nhị của vấn đề
Câu Phật ngôn sau cùng rất cô đọng mà nói lên tất cả
những ý nghĩ sâu kín (Bản dịch tiếng Việt dùng nhiều chữ Hán khiến cho khó hiểu.
Nên dịch là: Như vậy, này Ānanda, có nghiệp không thể mà đúng là không thể,
có nghiệp không thể dường như có thể, có nghiệp có thể mà quả là có thể, có
nghiệp có thể mà dường như không thể' - Iti
kho, ānanda, atthi kammaṃ abhabbaṃ abhabbābhāsaṃ, atthi kammaṃ abhabbaṃ
bhabbābhāsaṃ, atthi kammaṃ bhabbañceva bhabbābhāsañca, atthi kammaṃ bhabbaṃ
abhabbābhāsanti.
Như vậy, này Ānanda, có nghiệp vô hữu tợ vô hữu, có nghiệp vô
hữu tợ hữu, có nghiệp hữu tợ hữu, có nghiệp hữu tợ vô hữu.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả Ānanda
hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ Kheo
Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 136 [tóm tắt]
Kinh
Đại Nghiệp Phân Biệt
(Mahākammavibhaṅga
Sutta)
(M.iii, 207)
Do sự trả lời sai lạc một chiều của
Tôn giả Samiddhi cho du sĩ ngoại đạo khi vị này hỏi về hậu quả của ba
nghiệp thân, ngữ, ý, đức Phật thuyết kinh này.
Khi một người có dụng ý làm nghiệp
–thân, khẩu, ý– có khả năng đưa đến khổ thọ, nó sẽ cảm giác khổ thọ;
khi nó có dụng ý làm ba nghiệp có khả năng đưa đến lạc thọ, nó sẽ cảm
giác lạc thọ; khi nó dụng ý làm ba nghiệp có khả năng đưa đến bất khổ
bất lạc thọ, nó sẽ cảm giác bất khổ bất lạc.
Ở đời có bốn hạng người:
1. Có người làm ba nghiệp ác về thân,
bốn về miệng và ba về ý, khi mạng chung, sanh vào ác thú, đọa xứ, địa
ngục.
2. Có người cũng làm mười ác nghiệp
kể trên, nhưng mạng chung lại được sanh vào thiện thú, thiên giới, cõi
đời này.
3. Có người làm mười thiện nghiệp,
từ bỏ sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh, từ bỏ nói láo, hai lưỡi,
ác khẩu, nói dối, từ bỏ tham dục, sân hận, tà kiến (mười ác nghiệp
nói trên), khi mạng chung sanh vào thiện thú, thiên giới, cõi đời này.
4. Có người cũng làm mười thiện nghiệp
như trên, mà khi mạng chung lại đọa vào cõi dữ, đọa xứ, địa ngục.
Đức Phật chấp nhận rằng chắc chắn
có ác nghiệp và quả báo của ác nghiệp, chắc chắn có thiện nghiệp và
quả báo thiện hạnh. Nhưng không đúng khi bảo rằng chắc chắn ai làm
những ác nghiệp đều sanh vào đọa xứ, ai làm thiện nghiệp đều sanh vào
thiện thú. Vì có người làm ác hạnh được sanh thiện thú như hạng
người thứ hai kể trên và nguyên nhân là vì một thiện nghiệp do nó làm
lúc trước hoặc về sau, hay trong khi mệnh chung nó khởi lên chánh kiến.
Có người làm thiện hạnh mà bị đọa vào cõi dữ là do nguyên nhân nó làm ác
hạnh về trước hoặc sau này, hoặc lúc lâm chung, một tà kiến khởi lên
trong nó.
Như vậy có bốn loại nghiệp: vô hữu
tợ vô hữu, vô hữu tợ hữu, hữu tợ hữu, và hữu tợ vô hữu.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 136 [dàn ý]
Kinh
Đại Nghiệp Phân Biệt
(Mahākammavibhaṅga
Sutta)
(M.iii, 207)
A.
Duyên khởi:
Du sĩ Potaliputta hỏi
Tôn giả Samiddhi 2 câu hỏi và câu trả lời của Tôn giả không làm cho du sĩ thỏa
mãn. Câu chuyện được Tôn giả trình lên Thế Tôn, Thế Tôn la Tôn giả Samiddhi
không biết cách trả lời và dạy nên trả lời như thế nào là đúng. Rồi Thế Tôn
phân tích phân biệt đại nghiệp của Như Lai.
B. Chánh kinh:
I. Thế Tôn phân tích có 4 hạng người ở đời:
1.Tạo 10 ác nghiệp đọa địa ngục, đọa xứ.
2.Tạo 10 ác nghiệp sanh thiện thú.
3.Tạo 10 thiện nghiệp sanh thiện thú.
4.Tạo 10 thiện nghiệp, đọa cõi dữ, ác thú.
II. Vì thấy có thực 4 hạng người
trên nên có 4 tri kiến, quan điểm khởi lên:
Có ác nghiệp, có
quả báo ác nghiệp. Ai tạo 10 ác nghiệp phải đọa vào đọa xứ. Thấy vậy, biết vậy
là chơn, ngoài ra là hư vọng.
Không có ác nghiệp,
không có quả báo ác nghiệp. Ai tạo 10 ác nghiệp được sanh lên thiện thú. Thấy vậy,
biết vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng.
Có thiện nghiệp,
có quả báo thiện nghiệp. Ai tạo 10 thiện nghiệp sẽ được sanh lên thiện thú. Thấy
vậy, biết vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng.
Không có thiện
nghiệp, không có quả báo thiện nghiệp. Ai tạo 10 thiện nghiệp phải đọa vào đọa
xứ. Thấy vậy, biết vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng.
III. Thế Tôn phê bình 4 quan điểm
trên:
1.
Quan điểm thứ nhất:
Thế Tôn chấp nhận 2 điểm, không chấp nhận 3 điểm.
2.
Quan điểm thứ hai: Thế
Tôn chấp nhận 1 điểm, không chấp nhận 4 điểm.
3.
Quan điểm thứ ba: Thế
Tôn chấp nhận 2 điểm, không chấp nhận 3 điểm.
4.
Quan điểm thứ tư: Thế
Tôn chấp nhập 1 điểm, không chấp nhận 4 điểm.
IV. Thế Tôn giải thích vì sao có 4
loại người trên, có 4 trường hợp trên:
1.
Trường hợp thứ nhất:
Làm 10 ác hạnh chịu quả báo đọa xứ.
2.
Trường hợp thứ hai:
Làm 10 ác hạnh được quả báo thiện thú.
3.
Trường hợp thứ ba:
Làm 10 thiện nghiệp được quả báo thiện thú.
4.
Trường hợp thứ tư:
Làm 10 thiện nghiệp chịu quả báo đọa xứ.
V. Thế Tôn tổng thuyết có 4 loại
nghiệp.
C. Kết luận:
Tôn giả nanda hoan hỷ
tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 136 [toát
yếu]
Kinh
Đại Nghiệp Phân Biệt
(Mahākammavibhaṅga
Sutta)
(M.iii, 207)
I. Toát yếu
The Greater Exposition of Action.
The Buddha reveals subtle complexities in the workings
of kamma that overturn simplistic dogmas and sweeping generalizations.
Trình bày rộng rãi hơn về nghiệp.
Phật hiển thị những điều vi tế trong vận hành
của nghiệp, làm đảo lộn những lập thuyết ngây ngô và quy nạp bừa
bãi.
II. Tóm tắt
Du sĩ ngoại đạo Potaliputta đi đến tôn giả
Samiddhi kể rằng chính ông đã được nghe Phật dạy nghiệp thân, khẩu
là giả, chỉ có ý nghiệp mới thật; và có một loại thiền định nếu
tu thành tựu thì sẽ không còn cảm giác gì nữa [1]. Tôn giả nói
Phật không bao giờ dạy như vậy, đừng phỉ báng Ngài. Du sĩ khen tôn
giả mới tu ba năm mà đã biết bảo vệ thầy
mình, và hỏi tiếp: Khi cố ý làm ba nghiệp thân khẩu ý, thì sẽ có
cảm giác gì? Samiddhi trả lời là sẽ có cảm giác đau khổ. Du sĩ bỏ đi
không ý kiến. Sau đó tôn giả đến yết kiến Phật trình bày mọi sự.
Phật dạy, Ta chưa từng gặp Potali thì do đâu
có chuyện ấy. Và Ngài chê Samiddhi là kẻ ngu đã trả lời một chiều
trước một vấn đề cần được phân tích. Khi ấy tôn giả Udàyi thưa:
Có lẽ sư huynh Samiddhi ám chỉ một nguyên lý Ngài đã dạy "Còn
cảm giác là còn đau khổ [2]". Phật dạy, câu hỏi của du sĩ cần
phải được trả lời rằng nếu cố ý làm một nghiệp (thân, khẩu, ý)
có khả năng đem lại đau khổ thì sẽ có cảm giác khổ. Nếu cố ý làm
một nghiệp (thân, khẩu, ý) có khả năng đem lại vui thì sẽ có cảm
giác vui; và nếu một nghiệp có khả năng đem lại cảm giác không khổ
không vui thì kết quả sẽ là cảm giác trung tính.
Rồi Phật dạy về phân biệt đại nghiệp như sau.
Trên đời có bốn hạng người:
1. Người sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói láo,
hai lưỡi, ác khẩu, nói phù phiếm, tham lam, sân hận, có tà kiến
(đủ mười nghiệp ác), khi chết sinh vào nẻo ác, cõi dữ, địa ngục.
2. Có người cũng phạm mười tội ác như trên,
nhưng chết sinh vào cõi tốt lành như làm người làm trời.
3. Có người từ bỏ mười nghiệp ác nói trên,
chết sinh vào cõi lành.
4. Có người cũng từ bỏ mười nghiệp ác,
nhưng chết sinh vào cõi dữ, địa ngục.
Do vậy, có thể công bố rằng chắc chắn có quả
báo của thiện nghiệp ác nghiệp, nhưng không thể công bố như sau:
Chắc chắn tất cả những người làm 10 ác đều
sinh vào cõi dữ, từ bỏ 10 ác đều sinh cõi lành (vì có một số
người làm ác chết sinh cõi lành và làm lành chết sinh cõi dữ).
Theo sự phân biệt đại nghiệp của Phật thì làm
ác sinh cõi lành là do một nghiệp rất lành từ lâu xa về trước đến
thời có kết quả, hoặc do một chánh kiến khởi lên trước khi chết,
còn làm lành tái sinh cõi dữ là do một ác nghiệp từ rất lâu về
trước nay đến thời gặt quả báo, hoặc do lúc gần chết khởi lên một
tà kiến. Do vậy, có loại nghiệp không tác dụng mà tợ không, không
tác dụng mà tợ như có, và nghiệp có tác dụng tợ có, nghiệp có
tác dụng tợ không.
III. Chú giải
1. Potaliya không đích thân trực tiếp nghe Phật
dạy lời này, mà chỉ nghe đồn Phật dạy như thế. Phần đầu câu
Potaliya nói nghiệp thân, khẩu là giả, chỉ có ý nghiệp mới thật là
một xuyên tạc của lời Phật dạy trong kinh 56 rằng trong ba loại
nghiệp, ý nghiệp là đáng trách nhất trong sự hình thành ác nghiệp.
Phần sau một loại thiền định nếu tu thành tựu thì sẽ không còn cảm
giác gì xuất phát từ pháp thoại của Phật về định Diệt thọ tưởng
trong kinh Trường bộ số 9 nhan đề Potthapāda.
2. Lời này được Phật nói trong kinh Tương ưng
số 36, ám chỉ khổ tiềm ẩn trong tất cả hành vì tính vô thường.
Mặc dù Phật có dạy như thế thực, nhưng tôn giả Samiddhi dường như
đã hiểu ra rằng điều ấy có nghĩa tất cả cảm thọ đều đau khổ, thì
rõ ràng là sai.
IV. Pháp số
(không có)
V. Kệ tụng
Po-ta-li-put-ta
Một du sĩ ngoại đạo
Một du sĩ ngoại đạo
Ðến
bảo Sa-mid-dhi
Tỷ
kheo đệ tử Phật:
Chính
tôi nghe Phật nói
Nghiệp
thân, khẩu là giả
Chỉ
ý nghiệp là thật;
Và có một loại thiền
Và có một loại thiền
Tu
sẽ hết cảm giác.
Tôn
giả liền phản bác:
Chớ
phỉ báng Thế Tôn
Ngài
không dạy như vậy.
Du
sĩ khen tôn giả
Chỉ
mới tu ba năm
Ðã
biết bảo vệ thầy.
Rồi
ông hỏi tôn giả:
Cố
ý làm ba nghiệp
Sẽ
có cảm giác gì?
Tôn
giả đáp: khổ thọ.
Du
sĩ liền cáo từ
Bỏ
đi không ý kiến.
Tôn
giả đi đến Phật
Ðể trình bày mọi sự.
- Ta chưa gặp ông ấy
Ðể trình bày mọi sự.
- Ta chưa gặp ông ấy
Do
đâu có chuyện này?
Và
ngươi thật ngu si
Khi
trả lời một chiều
Vấn
đề cần phân tích:
Cố
tâm làm nghĩ nói
Ðiều không vui không khổ
Ðiều không vui không khổ
Cảm
giác không vui khổ.
Rồi
Thế Tôn bàn rộng
Nghiệp
quả bốn hạng người:
Hạng
suốt đời làm ác
Chết đọa vào cõi dữ.
Hạng suốt đời làm ác
Chết sinh vào cõi lành.
Chết đọa vào cõi dữ.
Hạng suốt đời làm ác
Chết sinh vào cõi lành.
Hạng
suốt đời làm lành
Chết
sinh lên thiên giới.
Hạng
suốt đời làm lành
Chết
sinh vào cõi ác.
Sự
tình là như vậy,
Nên có thể công bố
Chắc chắn có quả báo
Của nghiệp lành nghiệp dữ;
Nên có thể công bố
Chắc chắn có quả báo
Của nghiệp lành nghiệp dữ;
Nhưng
không thể công bố:
Mọi
kẻ làm mười ác
Ðều sinh vào cõi dữ,
Ai từ bỏ mười ác Ðều sinh đến cõi lành.
Ðều sinh vào cõi dữ,
Ai từ bỏ mười ác Ðều sinh đến cõi lành.
Theo
các nghiệp phân biệt
Sở
dĩ kẻ làm ác
Mà được sinh cõi lành
Là do nghiệp rất lành
Mà được sinh cõi lành
Là do nghiệp rất lành
Từ
lâu xa về trước
Ðến thời có kết quả,
Ðến thời có kết quả,
Hoặc
do lúc lâm chung
Khởi
lên một chánh kiến.
Kẻ
suốt đời làm lành
Mà
tái sinh cõi dữ
Là do một ác nghiệp
Là do một ác nghiệp
Từ
rất lâu về trước
Nay
đến thời gặt quả,
Hoặc
do lúc gần chết
Khởi
lên một tà kiến.
Do
vậy, có loại nghiệp
Không
tác dụng tợ không,
Không
tác dụng tợ có,
Có tác dụng tợ có,
Có tác dụng tợ có,
Có
tác dụng tợ không.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
136.
Mahākammavibhaṅgasuttaṃ
298. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ samayaṃ Bhagavā
rājagahe viharati veḷuvane kalandakanivāpe. Tena kho pana samayena āyasmā
samiddhi araññakuṭikāyaṃ viharati. Atha
kho potaliputto paribbājako jaṅghāvihāraṃ anucaṅkamamāno anuvicaramāno
yenāyasmā samiddhi tenupasaṅkami upasaṅkamitvā āyasmatā samiddhinā saddhiṃ
sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ
nisinno kho potaliputto paribbājako āyasmantaṃ samiddhiṃ etadavoca : ''sammukhā
metaṃ, āvuso samiddhi, samaṇassa gotamassa sutaṃ, sammukhā paṭiggahitaṃ :
'moghaṃ kāyakammaṃ moghaṃ vacīkammaṃ, manokammameva saccanti. Atthi ca sā
[atthi cesā (sī. ka.)] samāpatti yaṃ samāpattiṃ samāpanno na kiñci vediyatīti?
''mā hevaṃ, āvuso potaliputta, avaca (mā hevaṃ, āvuso potaliputta, avaca) [( )
syā. kaṃ. potthakesu natthi] mā bhagavantaṃ abbhācikkhi. Na hi sādhu bhagavato
abbhakkhānaṃ. Na hi Bhagavā evaṃ vadeyya : 'moghaṃ kāyakammaṃ moghaṃ
vacīkammaṃ, manokammameva saccanti. Atthi ca kho [atthi ceva kho (sī. ka.)] sā,
āvuso, samāpatti yaṃ samāpattiṃ samāpanno na kiñci vediyatīti. ''Kīvaciraṃ
pabbajitosi, āvuso samiddhīti? ''na ciraṃ, āvuso! tīṇi vassānīti. ''Ettha dāni
mayaṃ there bhikkhū kiṃ vakkhāma, yatra hi nāma evaṃnavo bhikkhu [navakena
bhikkhunā (ka.)] satthāraṃ parirakkhitabbaṃ maññissati. Sañcetanikaṃ, āvuso
samiddhi, kammaṃ katvā kāyena vācāya
manasā kiṃ so vediyatīti? ''sañcetanikaṃ, āvuso potaliputta, kammaṃ katvā
kāyena vācāya manasā dukkhaṃ so vediyatīti. Atha kho potaliputto paribbājako
āyasmato samiddhissa bhāsitaṃ neva abhinandi nappaṭikkosi anabhinanditvā appaṭikkositvā
uṭṭhāyāsanā pakkāmi.
299. Atha kho āyasmā samiddhi acirapakkante potaliputte paribbājake
yenāyasmā ānando tenupasaṅkami upasaṅkamitvā
āyasmatā ānandena saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ
vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā samiddhi yāvatako
ahosi potaliputtena paribbājakena saddhiṃ kathāsallāpo taṃ sabbaṃ āyasmato
ānandassa ārocesi.
Evaṃ vutte,
āyasmā ānando āyasmantaṃ samiddhiṃ etadavoca : ''atthi kho idaṃ, āvuso
samiddhi, kathāpābhataṃ bhagavantaṃ dassanāya. Āyāmāvuso samiddhi, yena Bhagavā tenupasaṅkamissāma
upasaṅkamitvā etamatthaṃ bhagavato ārocessāma. Yathā no Bhagavā
byākarissati tathā naṃ dhāressāmāti. ''Evamāvusoti kho āyasmā samiddhi āyasmato
ānandassa paccassosi.
Atha kho āyasmā ca ānando āyasmā ca samiddhi yena Bhagavā
tenupasaṅkamiṃsu upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu.
Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā ānando yāvatako ahosi āyasmato samiddhissa
potaliputtena paribbājakena saddhiṃ
kathāsallāpo taṃ sabbaṃ bhagavato ārocesi. Evaṃ vutte, Bhagavā āyasmantaṃ
ānandaṃ etadavoca : ''dassanampi kho ahaṃ, ānanda, potaliputtassa
paribbājakassa nābhijānāmi, kuto panevarūpaṃ kathāsallāpaṃ? iminā ca, ānanda,
samiddhinā moghapurisena potaliputtassa paribbājakassa vibhajjabyākaraṇīyo
pañho ekaṃsena byākatoti. Evaṃ vutte, āyasmā udāyī bhagavantaṃ etadavoca :
''sace pana [kiṃ pana (ka.)], bhante, āyasmatā samiddhinā idaṃ sandhāya bhāsitaṃ
: yaṃ kiñci vedayitaṃ taṃ dukkhasminti.
300. Atha kho [evaṃ vutte (syā. kaṃ.)] Bhagavā āyasmantaṃ ānandaṃ
āmantesi : ''passasi no tvaṃ, ānanda, imassa udāyissa moghapurisassa ummaṅgaṃ
[ummaggaṃ (sī. syā. kaṃ. pī.), umaṅgaṃ (ka.)]? aññāsiṃ kho ahaṃ, ānanda :
'idānevāyaṃ udāyī moghapuriso ummujjamāno ayoniso ummujjissatīti. Ādiṃyeva
[ādisova (sī. pī.), ādiyeva (ka.)], ānanda, potaliputtena paribbājakena tisso
vedanā pucchitā. Sacāyaṃ, ānanda, samiddhi moghapuriso potaliputtassa paribbājakassa evaṃ puṭṭho evaṃ byākareyya :
'sañcetanikaṃ, āvuso potaliputta, kammaṃ katvā kāyena vācāya manasā
sukhavedanīyaṃ sukhaṃ so vedayati sañcetanikaṃ, āvuso potaliputta, kammaṃ katvā
kāyena vācāya manasā dukkhavedanīyaṃ dukkhaṃ so vedayati sañcetanikaṃ, āvuso
potaliputta, kammaṃ katvā kāyena vācāya manasā adukkhamasukhavedanīyaṃ
adukkhamasukhaṃ so vedayatīti. Evaṃ byākaramāno
kho, ānanda, samiddhi moghapuriso potaliputtassa paribbājakassa sammā
(byākaramāno) [( ) natthi (sī. syā. kaṃ. pī.)] byākareyya. Api ca, ānanda, ke ca [keci (ka.)] aññatitthiyā
paribbājakā bālā abyattā ke ca tathāgatassa mahākammavibhaṅgaṃ jānissanti? sace
tumhe, ānanda, suṇeyyātha tathāgatassa mahākammavibhaṅgaṃ vibhajantassāti.
''Etassa, Bhagavā, kālo, etassa, sugata, kālo yaṃ Bhagavā
mahākammavibhaṅgaṃ vibhajeyya . Bhagavato sutvā bhikkhū dhāressantīti. ''Tena
hānanda, suṇāhi, sādhukaṃ manasi karohi bhāsissāmīti. ''Evaṃ, bhanteti kho
āyasmā ānando bhagavato paccassosi. Bhagavā etadavoca : ''cattārome, ānanda,
puggalā santo saṃvijjamānā lokasmiṃ. Katame cattāro? idhānanda, ekacco puggalo
idha pāṇātipātī hoti, adinnādāyī hoti, kāmesumicchācārī hoti, musāvādī hoti, pisuṇavāco
hoti, pharusavāco hoti, samphappalāpī hoti, abhijjhālu hoti, byāpannacitto
hoti, micchādiṭṭhi hoti. So kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ
nirayaṃ upapajjati. ''Idha panānanda, ekacco puggalo idha pāṇātipātī hoti,
adinnādāyī hoti, kāmesumicchācārī hoti, musāvādī hoti, pisuṇavāco hoti,
pharusavāco hoti, samphappalāpī hoti, abhijjhālu hoti, byāpannacitto hoti,
micchādiṭṭhi hoti. So kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ
upapajjati. ''Idhānanda, ekacco puggalo
idha pāṇātipātā paṭivirato hoti, adinnādānā paṭivirato hoti, kāmesumicchācārā
paṭivirato hoti, musāvādā paṭivirato hoti, pisuṇāya vācāya paṭivirato hoti,
pharusāya vācāya paṭivirato hoti,
samphappalāpā paṭivirato hoti, anabhijjhālu hoti, abyāpannacitto hoti, sammādiṭṭhi
hoti. So kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati. ''Idha
panānanda, ekacco puggalo idha pāṇātipātā paṭivirato hoti, adinnādānā paṭivirato
hoti, kāmesumicchācārā paṭivirato hoti, musāvādā paṭivirato hoti, pisuṇāya
vācāya paṭivirato hoti, pharusāya vācāya
paṭivirato hoti, samphappalāpā paṭivirato hoti, anabhijjhālu hoti,
abyāpannacitto hoti, sammādiṭṭhi hoti. So kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ
duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjati.
301. ''Idhānanda, ekacco samaṇo vā brāhmaṇo vā ātappamanvāya padhānamanvāya
anuyogamanvāya appamādamanvāya
sammāmanasikāramanvāya tathārūpaṃ cetosamādhiṃ phusati yathāsamāhite citte
dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena amuṃ puggalaṃ passati : idha pāṇātipātiṃ
adinnādāyiṃ kāmesumicchācāriṃ musāvādiṃ pisuṇavācaṃ pharusavācaṃ samphappalāpiṃ
abhijjhāluṃ byāpannacittaṃ micchādiṭṭhiṃ kāyassa bhedā paraṃ maraṇā passati
apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapannaṃ. So evamāha : 'atthi kira, bho,
pāpakāni kammāni, atthi duccaritassa
vipāko. Amāhaṃ [apāhaṃ (sī. pī. ka.) amuṃ + ahaṃ amāhaṃ-iti padavibhāgo]
puggalaṃ addasaṃ idha pāṇātipātiṃ adinnādāyiṃ - pe - micchādiṭṭhiṃ kāyassa
bhedā paraṃ maraṇā passāmi apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapannanti. So
evamāha : 'yo kira, bho, pāṇātipātī adinnādāyī - pe - micchādiṭṭhi, sabbo so
kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjati. Ye evaṃ
jānanti, te sammā jānanti ye aññathā jānanti, micchā tesaṃ ñāṇanti [micchā te
sañjānanti (ka.)]. Iti so yadeva tassa sāmaṃ ñātaṃ sāmaṃ diṭṭhaṃ sāmaṃ viditaṃ
tadeva tattha thāmasā parāmāsā [parāmassa (sī. pī.)] abhinivissa voharati :
'idameva saccaṃ, moghamaññanti.
''Idha panānanda, ekacco samaṇo vā brāhmaṇo vā
ātappamanvāya padhānamanvāya
anuyogamanvāya appamādamanvāya sammāmanasikāramanvāya tathārūpaṃ cetosamādhiṃ
phusati yathāsamāhite citte dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena amuṃ
puggalaṃ passati : idha pāṇātipātiṃ adinnādāyiṃ - pe - micchādiṭṭhiṃ, kāyassa
bhedā paraṃ maraṇā passati sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapannaṃ. So evamāha : 'natthi
kira, bho, pāpakāni kammāni, natthi duccaritassa vipāko. Amāhaṃ puggalaṃ addasaṃ
: idha pāṇātipātiṃ adinnādāyiṃ - pe - micchādiṭṭhiṃ, kāyassa bhedā paraṃ maraṇā
passāmi sugatiṃ saggaṃ lokaṃ
upapannanti. So evamāha : 'yo kira, bho,
pāṇātipātī adinnādāyī - pe - micchādiṭṭhi, sabbo so kāyassa bhedā paraṃ maraṇā
sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati. Ye evaṃ jānanti te sammā jānanti ye aññathā
jānanti, micchā tesaṃ ñāṇanti. Iti so yadeva tassa sāmaṃ ñātaṃ sāmaṃ diṭṭhaṃ
sāmaṃ viditaṃ tadeva tattha thāmasā parāmāsā abhinivissa voharati : 'idameva
saccaṃ, moghamaññanti. ''Idhānanda, ekacco samaṇo vā brāhmaṇo vā ātappamanvāya
padhānamanvāya anuyogamanvāya appamādamanvāya sammāmanasikāramanvāya tathārūpaṃ
cetosamādhiṃ phusati yathāsamāhite citte dibbena cakkhunā visuddhena
atikkantamānusakena amuṃ puggalaṃ passati : idha pāṇātipātā paṭivirataṃ adinnādānā paṭivirataṃ
kāmesumicchācārā paṭivirataṃ musāvādā paṭivirataṃ pisuṇāya vācāya paṭivirataṃ
pharusāya vācāya paṭivirataṃ samphappalāpā paṭivirataṃ anabhijjhāluṃ
abyāpannacittaṃ sammādiṭṭhiṃ, kāyassa bhedā paraṃ maraṇā passati sugatiṃ saggaṃ
lokaṃ upapannaṃ. So evamāha : 'atthi kira, bho, kalyāṇāni kammāni, atthi
sucaritassa vipāko. Amāhaṃ puggalaṃ addasaṃ : idha pāṇātipātā paṭivirataṃ
adinnādānā paṭivirataṃ - pe - sammādiṭṭhiṃ, kāyassa bhedā paraṃ maraṇā passāmi
sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapannanti. So evamāha : 'yo kira, bho, pāṇātipātā paṭivirato adinnādānā paṭivirato - pe - sammādiṭṭhi
sabbo so kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati. Ye evaṃ
jānanti te sammā jānanti ye aññathā jānanti, micchā tesaṃ ñāṇanti. Iti so
yadeva tassa sāmaṃ ñātaṃ sāmaṃ diṭṭhaṃ sāmaṃ viditaṃ tadeva tattha thāmasā
parāmāsā abhinivissa voharati : 'idameva saccaṃ, moghamaññanti.
''Idha panānanda, ekacco samaṇo vā brāhmaṇo vā
ātappamanvāya padhānamanvāya anuyogamanvāya appamādamanvāya
sammāmanasikāramanvāya tathārūpaṃ cetosamādhiṃ phusati yathāsamāhite citte
dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena amuṃ puggalaṃ passati : idha pāṇātipātā paṭivirataṃ - pe -
sammādiṭṭhiṃ, kāyassa bhedā paraṃ maraṇā passati apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ
nirayaṃ upapannaṃ. So evamāha : 'natthi kira, bho kalyāṇāni kammāni, natthi
sucaritassa vipāko. Amāhaṃ puggalaṃ
addasaṃ : idha pāṇātipātā paṭivirataṃ adinnādānā paṭivirataṃ - pe - sammādiṭṭhiṃ,
kāyassa bhedā paraṃ maraṇā passāmi apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ
upapannanti. So evamāha : 'yo kira, bho, pāṇātipātā paṭivirato adinnādānā paṭivirato
- pe - sammādiṭṭhi, sabbo so kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ
vinipātaṃ nirayaṃ upapajjati. Ye evaṃ jānanti te sammā jānanti ye aññathā
jānanti, micchā tesaṃ ñāṇanti. Iti so
yadeva tassa sāmaṃ ñātaṃ sāmaṃ diṭṭhaṃ sāmaṃ viditaṃ tadeva tattha thāmasā
parāmāsā abhinivissa voharati : 'idameva saccaṃ, moghamaññanti.
302. ''Tatrānanda, yvāyaṃ samaṇo vā brāhmaṇo vā evamāha : 'atthi kira, bho,
pāpakāni kammāni, atthi duccaritassa vipākoti idamassa anujānāmi yampi so
evamāha : 'amāhaṃ puggalaṃ addasaṃ : idha pāṇātipātiṃ adinnādāyiṃ - pe -
micchādiṭṭhiṃ, kāyassa bhedā paraṃ maraṇā
passāmi apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapannanti idampissa anujānāmi yañca
kho so evamāha : 'yo kira, bho, pāṇātipātī adinnādāyī - pe - micchādiṭṭhi,
sabbo so kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ
upapajjatīti idamassa nānujānāmi yampi so evamāha : 'ye evaṃ jānanti te sammā
jānanti ye aññathā jānanti, micchā tesaṃ ñāṇanti idampissa nānujānāmi yampi so
yadeva tassa sāmaṃ ñātaṃ sāmaṃ diṭṭhaṃ sāmaṃ viditaṃ tadeva tattha thāmasā
parāmāsā abhinivissa voharati : 'idameva saccaṃ, moghamaññanti idampissa
nānujānāmi. Taṃ kissa hetu? aññathā hi, ānanda, tathāgatassa mahākammavibhaṅge
ñāṇaṃ hoti. ''Tatrānanda, yvāyaṃ samaṇo vā brāhmaṇo vā evamāha : 'natthi kira,
bho, pāpakāni kammāni, natthi duccaritassa vipākoti idamassa nānujānāmi yañca kho so evamāha : 'amāhaṃ
puggalaṃ addasaṃ : idha pāṇātipātiṃ adinnādāyiṃ - pe - micchādiṭṭhiṃ kāyassa
bhedā paraṃ maraṇā passāmi sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapannanti idamassa anujānāmi
yañca kho so evamāha : 'yo kira, bho, pāṇātipātī adinnādāyī - pe - micchādiṭṭhi,
sabbo so kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjatīti
idamassa nānujānāmi yampi so evamāha :
'ye evaṃ jānanti te sammā jānanti ye
aññathā jānanti, micchā tesaṃ ñāṇanti idampissa nānujānāmi yampi so yadeva
tassa sāmaṃ ñātaṃ sāmaṃ diṭṭhaṃ sāmaṃ viditaṃ tadeva tattha thāmasā parāmāsā
abhinivissa voharati : 'idameva saccaṃ, moghamaññanti idampissa nānujānāmi. Taṃ
kissa hetu? aññathā hi, ānanda, tathāgatassa mahākammavibhaṅge ñāṇaṃ hoti.
''Tatrānanda, yvāyaṃ samaṇo vā brāhmaṇo vā evamāha : 'atthi kira, bho, kalyāṇāni
kammāni, atthi sucaritassa vipākoti idamassa anujānāmi yampi so evamāha :
'amāhaṃ puggalaṃ addasaṃ : idha pāṇātipātā paṭivirataṃ adinnādānā paṭivirataṃ -
pe - sammādiṭṭhiṃ, kāyassa bhedā paraṃ maraṇā passāmi sugatiṃ saggaṃ lokaṃ
upapannanti idampissa anujānāmi yañca kho so evamāha : 'yo kira, bho, pāṇātipātā
paṭivirato adinnādānā paṭivirato - pe - sammādiṭṭhi, sabbo so kāyassa bhedā
paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ
upapajjatīti idamassa nānujānāmi yampi so evamāha : 'ye evaṃ jānanti te sammā jānanti ye aññathā jānanti, micchā tesaṃ
ñāṇanti idampissa nānujānāmi yampi so yadeva tassa sāmaṃ ñātaṃ sāmaṃ diṭṭhaṃ
sāmaṃ viditaṃ tadeva tattha thāmasā parāmāsā abhinivissa voharati : 'idameva
saccaṃ, moghamaññanti idampissa nānujānāmi. Taṃ kissa hetu? aññathā hi, ānanda,
tathāgatassa mahākammavibhaṅge ñāṇaṃ hoti.
''Tatrānanda, yvāyaṃ samaṇo vā brāhmaṇo vā evamāha :
'natthi kira, bho, kalyāṇāni kammāni, natthi sucaritassa vipākoti idamassa
nānujānāmi yañca kho so evamāha : 'amāhaṃ puggalaṃ addasaṃ : idha pāṇātipātā paṭivirataṃ
adinnādānā paṭivirataṃ - pe - sammādiṭṭhiṃ, kāyassa bhedā paraṃ maraṇā passāmi
apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapannanti idamassa anujānāmi yañca kho so
evamāha : 'yo kira, bho, pāṇātipātā paṭivirato adinnādānā paṭivirato - pe -
sammādiṭṭhi, sabbo so kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ
nirayaṃ upapajjatīti idamassa nānujānāmi yañca kho so evamāha : 'ye evaṃ jānanti te sammā jānanti ye aññathā
jānanti, micchā tesaṃ ñāṇanti idampissa nānujānāmi yampi so yadeva tassa sāmaṃ
ñātaṃ sāmaṃ diṭṭhaṃ sāmaṃ viditaṃ tadeva
tattha thāmasā parāmāsā abhinivissa voharati : 'idameva saccaṃ, moghamaññanti idampissa nānujānāmi.
Taṃ kissa hetu? aññathā hi, ānanda, tathāgatassa mahākammavibhaṅge ñāṇaṃ hoti.
303. ''Tatrānanda, yvāyaṃ puggalo idha pāṇātipātī adinnādāyī - pe - micchādiṭṭhi,
kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjati, pubbe
vāssa taṃ kataṃ hoti pāpakammaṃ dukkhavedanīyaṃ, pacchā vāssa taṃ kataṃ hoti
pāpakammaṃ dukkhavedanīyaṃ, maraṇakāle vāssa hoti micchādiṭṭhi samattā
samādinnā. Tena so kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ
upapajjati. Yañca kho so idha pāṇātipātī hoti adinnādāyī hoti - pe - micchādiṭṭhi
hoti tassa diṭṭheva dhamme vipākaṃ paṭisaṃvedeti upapajja vā [upapajjaṃ vā (sī.
pī.), upapajja vā (syā. kaṃ. ka.) upapajjitvāti saṃvaṇṇanāya saṃsandetabbā]
apare vā pariyāye.
''Tatrānanda, yvāyaṃ puggalo idha pāṇātipātī
adinnādāyī - pe - micchādiṭṭhi kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ
upapajjati, pubbe vāssa taṃ kataṃ hoti kalyāṇakammaṃ sukhavedanīyaṃ, pacchā
vāssa taṃ kataṃ hoti kalyāṇakammaṃ sukhavedanīyaṃ, maraṇakāle vāssa hoti
sammādiṭṭhi samattā samādinnā. Tena so
kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati. Yañca kho so idha
pāṇātipātī hoti adinnādāyī hoti - pe - micchādiṭṭhi hoti tassa diṭṭheva dhamme
vipākaṃ paṭisaṃvedeti upapajja vā apare vā pariyāye. ''Tatrānanda , yvāyaṃ
puggalo idha pāṇātipātā paṭivirato adinnādānā paṭivirato - pe - sammādiṭṭhi,
kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati, pubbe vāssa taṃ
kataṃ hoti kalyāṇakammaṃ sukhavedanīyaṃ, pacchā vāssa taṃ kataṃ hoti kalyāṇakammaṃ
sukhavedanīyaṃ, maraṇakāle vāssa hoti sammādiṭṭhi samattā samādinnā. Tena so
kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati. Yañca kho so idha
pāṇātipātā paṭivirato hoti adinnādānā paṭivirato
hoti - pe - sammādiṭṭhi hoti, tassa diṭṭheva dhamme vipākaṃ paṭisaṃvedeti
upapajja vā apare vā pariyāye. ''Tatrānanda , yvāyaṃ puggalo idha pāṇātipātā paṭivirato
adinnādānā paṭivirato - pe - sammādiṭṭhi, kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ
duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjati, pubbe vāssa taṃ kataṃ hoti pāpakammaṃ
dukkhavedanīyaṃ, pacchā vāssa taṃ kataṃ hoti pāpakammaṃ dukkhavedanīyaṃ, maraṇakāle
vāssa hoti micchādiṭṭhi samattā samādinnā. Tena so kāyassa bhedā paraṃ maraṇā
apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjati. Yañca kho so idha pāṇātipātā paṭivirato
hoti, adinnādānā paṭivirato hoti - pe - sammādiṭṭhi hoti, tassa diṭṭheva dhamme
vipākaṃ paṭisaṃvedeti upapajja vā apare vā pariyāye. ''Iti kho, ānanda, atthi kammaṃ abhabbaṃ
abhabbābhāsaṃ, atthi kammaṃ abhabbaṃ bhabbābhāsaṃ, atthi kammaṃ bhabbañceva
bhabbābhāsañca, atthi kammaṃ bhabbaṃ abhabbābhāsanti. Idamavoca Bhagavā.
Attamano āyasmā ānando bhagavato bhāsitaṃ abhinandīti.
Mahākammavibhaṅgasuttaṃ niṭṭhitaṃ chaṭṭhaṃ.
-ooOoo-
136. Mahākammavibhaṅgasuttavaṇṇanā
298. Evaṃ me
sutanti mahākammavibhaṅgasuttaṃ. Tattha moghanti tucchaṃ aphalaṃ. Saccanti
tathaṃ bhūtaṃ. Idañca etena na sammukhā sutaṃ, upālisutte (ma. ni. 2.56) pana –
‘‘manokammaṃ mahāsāvajjataraṃ paññapemi pāpassa kammassa kiriyāya pāpassa
kammassa pavattiyā, no tathā kāyakammaṃ no tathā vacīkamma’’nti bhagavatā vuttaṃ
atthi, sā kathā titthiyānaṃ antare pākaṭā jātā, taṃ gahetvā esa vadati. Atthi
ca sā samāpattīti idaṃ – ‘‘kathaṃ nu kho, bho, abhisaññānirodho hotī’’ti poṭṭhapādasutte
(dī. ni. 1.406 ādayo) uppannaṃ abhisaññānirodhakathaṃ sandhāya vadati. Na
kiñci vediyatīti ekavedanampi na vediyati. Atthi ca khoti thero
nirodhasamāpattiṃ sandhāya anujānāti. Parirakkhitabbanti garahato
mocanena rakkhitabbaṃ. Sañcetanā assa atthīti sañcetanikaṃ,
sābhisandhikaṃ sañcetanikakammaṃ katvāti attho. Dukkhaṃ soti thero
‘‘akusalameva sandhāya paribbājako pucchatī’’ti saññāya evaṃ vadati.
Dassanampi kho ahanti
bhagavā caturaṅgepi andhakāre samantā yojanaṭṭhāne tilamattampi saṅkhāraṃ maṃsacakkhunāva
passati, ayañca paribbājako na dūre gāvutamattabbhantare vasati, kasmā bhagavā
evamāhāti? Samāgamadassanaṃ sandhāyevamāha.
299. Udāyīti
lāludāyī. Taṃ dukkhasminti sabbaṃ taṃ dukkhameva. Iti imaṃ vaṭṭadukkhaṃ
kilesadukkhaṃ saṅkhāradukkhaṃ sandhāya ‘‘sace bhāsitaṃ bhaveyya bhagavā’’ti
pucchati.
300. Ummaṅganti
pañhāummaṅgaṃ. Ummujjamānoti sīsaṃ nīharamāno. Ayoniso ummujjissatīti
anupāyena sīsaṃ nīharissati. Idañca pana bhagavā jānanto neva dibbacakkhunā na
cetopariyañāṇena na sabbaññutañāṇena jāni, adhippāyeneva pana aññāsi.
Kathentassa hi adhippāyo nāma suvijāno hoti, kathetukāmo gīvaṃ paggaṇhāti,
hanukaṃ cāleti, mukhamassa phandati, sannisīdituṃ na sakkoti. Bhagavā tassa taṃ
ākāraṃ disvā ‘‘ayaṃ udāyī sannisīdituṃ na sakkoti, yaṃ abhūtaṃ, tadeva
kathessatī’’ti oloketvāva aññāsi. Ādiṃ yevātiādimhiyeva. Tisso vedanāti
‘‘kiṃ so vediyatī’’ti? Pucchantena ‘‘tisso vedanā pucchāmī’’ti evaṃ
vavatthapetvāva tisso vedanā pucchitā. Sukhavedaniyanti sukhavedanāya
paccayabhūtaṃ. Sesesupi eseva nayo.
Ettha ca kāmāvacarakusalato
somanassasahagatacittasampayuttā catasso cetanā, heṭṭhā tikajjhānacetanāti evaṃ
paṭisandhipavattesu sukhavedanāya jananato sukhavedaniyaṃ kammaṃ nāma.
Kāmāvacarañcettha paṭisandhiyaṃyeva ekantena sukhaṃ janeti, pavatte iṭṭhamajjhattārammaṇe
adukkhamasukhampi.
Akusalacetanā paṭisandhipavattesu dukkhasseva jananato
dukkhavedaniyaṃ kammaṃ nāma. Kāyadvāre pavatteyeva cetaṃ ekantena dukkhaṃ
janeti, aññattha adukkhamasukhampi, sā pana vedanā aniṭṭhāniṭṭhamajjhattesuyeva
ārammaṇesu uppajjanato dukkhātveva saṅkhaṃ gatā.
Kāmāvacarakusalato pana upekkhāsahagatacittasampayuttā
catasso cetanā, rūpāvacarakusalato catutthajjhānacetanāti evaṃ paṭisandhipavattesu
tatiyavedanāya jananato adukkhamasukhavedaniyaṃ kammaṃ nāma. Ettha ca
kāmāvacaraṃ paṭisandhiyaṃyeva ekantena adukkhamasukhaṃ janeti, pavatte iṭṭhārammaṇe
sukhampi. Apica sukhavedaniyakammaṃ paṭisandhipavattivasena vaṭṭati, tathā
adukkhamasukhavedaniyaṃ, dukkhavedaniyaṃ pavattivaseneva vaṭṭati. Etassa pana
vasena sabbaṃ pavattivaseneva vaṭṭati.
Etassa bhagavāti thero
tathāgatena mahākammavibhaṅgakathanatthaṃ ālayo dassito, tathāgataṃ yācitvā
mahākammavibhaṅgañāṇaṃ bhikkhusaṅghassa pākaṭaṃ karissāmīti cintetvā
anusandhikusalatāya evamāha. Tattha mahākammavibhaṅganti
mahākammavibhajanaṃ. Katame cattāro…pe… idhānanda, ekacco puggalo…pe… nirayaṃ
upapajjatīti idaṃ na mahākammavibhaṅgañāṇabhājanaṃ, mahākammavibhaṅgañāṇabhājanatthāya
pana mātikāṭṭhapanaṃ.
301. Idhānanda,
ekacco samaṇo vāti pāṭiyekko anusandhi. Idañhi bhagavā – ‘‘dibbacakkhukā
samaṇabrāhmaṇā idaṃ ārammaṇaṃ katvā imaṃ paccayaṃ labhitvā idaṃ dassanaṃ gaṇhantī’’ti
pakāsanatthaṃ ārabhi. Tattha ātappantiādīni pañcapi vīriyasseva nāmāni. Cetosamādhinti
dibbacakkhusamādhiṃ. Passatīti ‘‘so satto kuhiṃ nibbatto’’ti olokento
passati. Ye aññathāti ye ‘‘dasannaṃ kusalānaṃ kammapathānaṃ pūritattā
nirayaṃ upapajjatī’’ti jānanti, micchā tesaṃ ñāṇanti vadati. Iminā nayena
sabbavāresu attho veditabbo. Viditanti pākaṭaṃ. Thāmasāti diṭṭhithāmena.
Parāmāsāti diṭṭhiparāmāsena. Abhinivissa voharatīti adhiṭṭhahitvā
ādiyitvā voharati.
302. Tatrānandāti
idampi na mahākammavibhaṅgañāṇassa bhājanaṃ, atha khvāssa mātikāṭṭhapanameva.
Ettha pana etesaṃ dibbacakkhukānaṃ vacane ettakā anuññātā, ettakā ananuññātāti
idaṃ dassitaṃ. Tattha tatrāti tesu catūsu samaṇabrāhmaṇesu. Idamassāti
idaṃ vacanaṃ assa. Aññathāti aññenākārena. Iti imesaṃ samaṇabrāhmaṇānaṃ
vāde dvīsu ṭhānesu anuññātā, tīsu ananuññātāti evaṃ sabbattha anuññā nānuññā
veditabbā.
303. Evaṃ dibbacakkhukānaṃ
vacane anuññā ca ananuññā ca dassetvā idāni mahākammavibhaṅgañāṇaṃ vibhajanto tatrānanda,
yvāyaṃ puggalotiādimāha.
Pubbe vāssa taṃ kataṃ hotīti yaṃ iminā dibbacakkhukena kammaṃ karonto diṭṭho, tato pubbe kataṃ.
Pubbe katenapi hi niraye nibbattati, pacchā katenapi nibbattati, maraṇakāle vā
pana – ‘‘khando seṭṭho sivo seṭṭho, pitāmaho seṭṭho, issarādīhi vā loko visaṭṭho’’tiādinā
micchādassanenapi nibbattateva. Diṭṭheva dhammeti yaṃ tattha diṭṭhadhammavedanīyaṃ
hoti, tassa diṭṭheva dhamme, yaṃ upapajjavedanīyaṃ, tassa upapajjitvā, yaṃ
aparāpariyavedanīyaṃ, tassa aparasmiṃ pariyāye vipākaṃ paṭisaṃvedeti.
Iti ayaṃ samaṇo vā brāhmaṇo vā ekaṃ kammarāsiṃ ekañca
vipākarāsiṃ addasa, sammāsambuddho iminā adiṭṭhe tayo kammarāsī, dve ca
vipākarāsī addasa. Iminā pana diṭṭhe adiṭṭhe ca cattāro kammarāsī tayo ca
vipākarāsī addasa. Imāni satta ṭhānāni jānanañāṇaṃ tathāgatassa mahākammavibhaṅgañāṇaṃ
nāma. Dutiyavāre dibbacakkhukena kiñci na diṭṭhaṃ, tathāgatena pana tayo
kammarāsī, dve ca vipākarāsī diṭṭhāti. Imānipi pañca paccattaṭṭhānāni jānanañāṇaṃ
tathāgatassa mahākammavibhaṅgañāṇaṃ nāma. Sesavāradvayepi eseva nayo.
Abhabbanti
bhūtavirahitaṃ akusalaṃ. Abhabbābhāsanti abhabbaṃ ābhāsati abhibhavati
paṭibāhatīti attho. Bahukasmiñhi akusalakamme āyūhite balavakammaṃ
dubbalakammassa vipākaṃ paṭibāhitvā attano vipākassa okāsaṃ karoti idaṃ
abhabbañceva abhabbābhāsañca. Kusalaṃ pana āyūhitvā āsanne akusalaṃ kataṃ hoti,
taṃ kusalassa vipākaṃ paṭibāhitvā attano vipākassa okāsaṃ karoti, idaṃ abhabbaṃ
bhabbābhāsaṃ. Bahumhi kusale āyūhitepi balavakammaṃ dubbalakammassa vipākaṃ paṭibāhitvā
attano vipākassa okāsaṃ karoti, idaṃ bhabbañceva bhabbābhāsañca. Akusalaṃ pana
āyūhitvā āsanne kusalaṃ kataṃ hoti, taṃ akusalassa vipākaṃ paṭibāhitvā attano
vipākassa okāsaṃ karoti, idaṃ bhabbaṃ abhabbābhāsaṃ.
Apica upaṭṭhānākārenapettha attho veditabbo. Idañhi
vuttaṃ hoti, abhabbato ābhāsati upaṭṭhātīti abhabbābhāsaṃ. Tattha
‘‘yvāyaṃ puggalo idha pāṇātipātī’’tiādinā nayena cattāro puggalā vuttā, tesu paṭhamassa
kammaṃ abhabbaṃ abhabbābhāsaṃ, tañhi akusalattā abhabbaṃ, tassa ca niraye
nibbattattā tattha nibbattikāraṇabhūtaṃ akusalaṃ hutvā upaṭṭhāti. Dutiyassa
kammaṃ abhabbaṃ bhabbābhāsaṃ, tañhi akusalattā abhabbaṃ. Tassa pana sagge
nibbattattā aññatitthiyānaṃ sagge nibbattikāraṇabhūtaṃ kusalaṃ hutvā upaṭṭhāti.
Itarasmimpi kammadvaye eseva nayo. Sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Mahākammavibhaṅgasuttavaṇṇanā
niṭṭhitā.
-ooOoo-
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 3. Cái gì làm duyên cho nghiệp , nghiệp tướng và thú tướng trong giờ phút lâm chung? Có những tâm trạng dường như hiền thiện như sự hối tiếc về giới hạnh lại khiến sanh vào cõi khổ . Vậy quả khổ trợ sanh do nguyên nhân gì ? - TT Tuệ Siêu
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment