Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Tuệ Quyền
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 12/5/2020
121. Kinh
Tiểu Không (Cùlasunnata Sutta)
Tên bài kinh trong bản tiếng Việt gây
ngộ nhận. Bài kinh nầy gọi là Kinh Tiểu Không, bài tiếp theo là Kinh Đại Không.
Nên dịch là Tiểu Kinh Về Không Tánh hay Pháp Thoại Ngắn Về Tánh Không. Tánh Không
không có tiểu hay đại. Tánh không là cảnh giới của các bậc hoàn toàn giải thoát.
Đây là đề tài khó hiểu trong Phật học. Vào thế kỷ thứ nhất Tây lịch, luận sư
Long Thọ đã khai triển đề tài nầy một cách rộng lớn trong quyển Trung Quán Luận
và Giáo lý Bát nhã.
1091. Sự trú tâm của Bậc Đại Giác
Tôn
giả Ananda bạch hỏi Đức Thế Tôn có phải Ngài đã từng nói là Như Lai thường an
trú tâm trong không tánh (suññatāvihārenāhaṃ, ānanda, etarahi bahulaṃ
viharāmī’ti). Đức Thế Tôn xác nhận “Trước kia và bây giờ Như Lai thường an trú
trong không tánh (pubbepāhaṃ, ānanda, etarahipi suññatāvihārena bahulaṃ
viharāmi):
Như vầy tôi
nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở
Savatthi (Xá-vệ), tại Pubbarama (Ðông Viên), lâu đài của Migaramatu
(Lộc Mẫu). Rồi Tôn giả Ananda, vào buổi chiều, từ Thiền tịnh độc
cư đứng dậy, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi
xuống một bên, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
-- Một thời, bạch Thế Tôn, Thế
Tôn trú giữa các Sakka (Thích-ca). Nagaraka là tên một thị trấn của
các Sakka. Tại đấy, bạch Thế Tôn, con được nghe trước mặt Thế Tôn,
con được ghi nhớ trước mặt (Thế Tôn) như sau: "Này Ananda, Ta
nhờ an trú không, nên nay an trú rất nhiều". Phải chăng, bạch
Thế Tôn, điều con đã nghe là nghe đúng, ghi nhớ đúng, tác ý đúng,
thọ trì đúng?
-- Thật vậy, này Ananda, điều
Ông đã nghe là nghe đúng, ghi nhớ đúng, tác ý đúng, thọ trì đúng.
Thuở xưa và nay, này Ananda, Ta nhờ an trú không, nên nay an trú rất
nhiều.
1091. Có thì có tự mảy may, không thì
cả thế gian nầy cũng không.
Tác ý đến cảnh thì cảnh hiện hữu với
những hệ luỵ liên đới:
Ví như lâu đài Lộc Mẫu này
không có voi, bò, ngựa, ngựa cái, không có vàng và bạc, không có
đàn bà, đàn ông tụ hội, và chỉ có một cái không phải không, tức
là sự nhất trí (ekattam) do duyên chúng Tỷ- kheo; cũng vậy, này
Ananda, Tỷ-kheo không tác ý thôn tưởng, không tác ý nhơn tưởng,
chỉ tác ý sự nhất trí, do duyên lâm tưởng. Tâm của vị ấy được
thích thú hân hoan, an trú, hướng đến lâm tưởng. Vị ấy tuệ tri
như sau: "Các ưu phiền do duyên thôn tưởng không có mặt ở
đây; các ưu phiền do duyên nhân tưởng không có mặt ở đây. Và chỉ
có một ưu phiền này, tức là sự nhất trí do duyên lâm tưởng".
Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có thôn tưởng". Vị
ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có nhân tưởng". Và chỉ
có một cái này không phải không, tức là sự nhất trí (ekattam) do
duyên lâm tưởng". Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem
cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây, vị ấy tuệ
tri: "Cái kia có, cái này có". Như vậy, này Ananda, cái này
đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện
hoàn toàn thanh tịnh, không tánh.
1092. Đối tượng tác ý là điểm tựa để
nâng cao tâm định
Với sự tu tập, một người có khả năng
“lựa chọn” đối tượng tác ý:
Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo không tác ý nhân tưởng, không tác ý lâm tưởng, chỉ tác
ý sự nhất trí do duyên địa tưởng. Tâm vị ấy được thích thú, hân
hoan, an trú, hướng đến địa tưởng. Ví như, này Ananda, tấm da con
bò đực được căng thẳng trên một trăm cọc gỗ, đặc tánh tấm da
được đoạn trừ (vigatavasika); cũng vậy, này Ananda, Tỷ-kheo, không
tác ý đối với tất cả vật gì trên đất này: đất khô và vùng lầy,
sông và vùng lầy, các cây có thân và có gai, núi và đất bằng, vị
ấy tác ý sự nhất trí do duyên địa tưởng. Tâm vị ấy được thích
thú, hân hoan, an trú, hướng đến địa tưởng. Vị ấy tuệ tri như sau:
"Các ưu phiền do duyên nhân tưởng không có mặt ở đây; các ưu
phiền do duyên lâm tưởng không có mặt ở đây. Và chỉ có một ưu
phiền này, sự nhất trí do duyên địa tưởng". Vị ấy tuệ tri:
"Loại tưởng này không có nhơn tưởng". Vị ấy tuệ tri:
"Loại tưởng này không có lâm tưởng, và chỉ có một cái này
không phải không, tức là sự nhất trí do duyên địa tưởng". Và
cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng
đối với cái còn lại, ở đây vị ấy tuệ tri: "Cái kia có, cái
này có". Này Ananda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật
có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, không tánh.
Lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo
không tác ý lâm tưởng, không tác ý địa tưởng, tác ý sự nhất
trí do duyên Không vô biên xứ. Tâm vị ấy được thích thú, hân
hoan, an trú, hướng đến Không vô biên xứ. Vị ấy tuệ tri như sau:
"Các ưu phiền, do duyên lâm tưởng không có mặt ở đây; các ưu
phiền do duyên địa tưởng không có mặt ở đây. Và chỉ có một ưu
phiền này, tức là sự nhất trí do duyên Không vô biên xứ
tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có lâm
tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có địa
tưởng, và chỉ có một cái này không phải không, tức là sự nhất
trí do duyên Không vô biên xứ tưởng". Và cái gì không có mặt
ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại,
ở đây vị ấy biết: "Cái kia có, cái này có". Này Ananda,
cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự
thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, không tánh.
Lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo
không tác ý địa tưởng, không tác ý Không vô biên xứ tưởng, chỉ
tác ý sự nhất trí do duyên Thức vô biên xứ. Tâm vị ấy được
thích thú, hân hoan, an trú, hướng đến Thức vô biên xứ. Vị ấy tuệ
tri như sau: "Các ưu phiền do duyên địa tưởng không có mặt ở
đây; các ưu phiền do duyên Không vô biên xứ tưởng không có mặt ở
đây. Và chỉ có một ưu phiền này, tức là sự nhất trí do duyên
Thức vô biên xứ tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không
có địa tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có
Không vô biên xứ tưởng, và chỉ có một cái này không phải không,
tức là sự nhất trí do duyên Thức vô biên xứ tưởng". Và cái
gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối
với cái còn lại, ở đây vị ấy tuệ tri: "Cái kia có, cái này
có". Này Ananda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có,
không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, không tánh.
Lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo
không tác ý Không vô biên xứ tưởng, không tác ý Thức vô biên xứ
tưởng, chỉ tác ý sự nhất trí do duyên Vô sở hữu xứ tưởng. Tâm
vị ấy được thích thú, hân hoan, an trú, hướng đến Vô sở hữu xứ.
Vị ấy tuệ tri như sau: "Các ưu phiền do duyên Không vô biên xứ
tưởng không có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên Thức vô biên xứ
tưởng không có mặt ở đây. Và chỉ có một ưu phiền này, tức là
sự nhất trí do duyên Vô sở hữu xứ tưởng". Vị ấy tuệ tri:
"Loại tưởng này không có Không vô biên xứ tưởng". Vị ấy
tuệ tri: "Loại tưởng này không có Thức vô biên xứ tưởng, và
chỉ có một cái này không phải không, tức là sự nhất trí do duyên
Vô sở hữu xứ tưởng". Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy
xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây, vị ấy
tuệ tri: "Cái kia có, cái này có". Này Ananda, cái này đối
với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn
toàn thanh tịnh, không tánh.
Lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo
không tác ý Thức vô biên xứ tưởng, không tác ý Vô sở hữu xứ
tưởng, chỉ tác ý sự nhất trí do duyên Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Tâm vị ấy được thích thú, hân hoan, an trú, hướng đến Phi tưởng
phi phi tưởng xứ. Vị ấy biết như sau: "Các ưu phiền do duyên
Thức vô biên xứ tưởng không có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên
Vô sở hữu xứ tưởng không có mặt ở đây. Và chỉ có một ưu phiền
này, tức là sự nhất trí do duyên Phi tưởng phi phi tưởng xứ
tưởng. Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có Thức vô biên
xứ tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có Vô
sở hữu xứ tưởng, và chỉ có một cái này không phải không, tức là
sự nhất trí do duyên Phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng. Và cái gì
không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với
cái còn lại, ở đây, vị ấy tuệ tri: "Cái kia có, cái này
có". Này Ananda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có,
không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, không tánh.
Lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo
không tác ý Vô sở hữu xứ tưởng, không có tác ý Phi tưởng phi phi
tưởng xứ, tác ý sự nhất trí do duyên Vô tướng tâm định Tâm vị
ấy được thích thú, hân hoan, an trú, hướng đến Vô tướng tâm
định. Vị ấy tuệ tri như sau: "Các ưu phiền do duyên Vô sở hữu
xứ tưởng không có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên Phi tưởng phi
phi tưởng xứ không có mặt ở đây. Và chỉ có một ưu phiền này,
tức là sáu nhập duyên mạng, duyên với thân này". Vị ấy tuệ
tri: "Loại tưởng này không có Vô sở hữu xứ tưởng". Vị
ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có Phi tưởng phi phi tưởng
xứ tưởng. Và chỉ có một cái này không phải không, tức là sáu
nhập duyên mạng, duyên với thân này". Và cái gì không có mặt
ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại,
ở đây vị ấy tuệ tri: "Cái kia có, cái này có". Này Ananda,
cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự
thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, không tánh.
Lại nữa, này Ananda, vị Tỷ-kheo
không tác ý Vô sở hữu xứ tưởng, không tác ý Phi tưởng phi phi
tưởng xứ tưởng, tác ý sự nhứt trí do duyên Vô tướng tâm định.
Tâm vị ấy được thích thú, hân hoan, an trú, hướng đến Vô tướng
tâm định. Vị ấy tuệ tri như sau: "Vô tướng tâm định này thuộc
hữu vi, do tâm tư tạo nên. Phàm cái gì thuộc hữu vi, do tâm tư tạo
nên, cái ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt", vị ấy tuệ tri
như vậy. Do vị ấy tuệ tri như vậy, thấy như vậy, tâm được giải
thoát khỏi dục lậu, tâm được giải thoát khỏi hữu lậu, tâm được giải
thoát khỏi vô minh lậu. Trong sự giải thoát, là sự hiểu biết (nana)
rằng đã được giải thoát. Vị ấy tuệ tri: "Sanh đã tận, Phạm
hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn phải trở lại
trạng thái này nữa". Vị ấy tuệ tri: "Các ưu phiền do duyên
dục lậu không có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên hữu lậu không
có mặt có ở đây; các ưu phiền do duyên vô minh lậu không có mặt
ở đây. Và chỉ ở một ưu phiền này, tức là sáu nhập duyên mạng,
duyên với thân này". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không
có dục lậu". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có hữu
lậu". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có vô minh
lậu. Và chỉ có một cái này không phải không, tức là sáu nhập
duyên mạng, duyên với thân này". Và cái gì không có mặt ở
đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở
đây vị ấy biết: "Cái kia có, cái này có". Này Ananda, cái
này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực
hiện hoàn toàn thanh tịnh, Không tánh.
1093. Cảnh giới vi diệu của các bậc
thánh đức.
Các bậc giác ngộ giải thoát trong quá
khứ, hiện tại và tương lai đều an trú tâm ở không tánh:
Này Ananda, phàm có những
Sa-môn hay Bà-la-môn nào trong quá khứ sau khi chứng đạt, đã an trú
cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không tánh (Sunnatam), tất cả các vị
ấy sau khi chứng đạt đều chỉ an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh
Không tánh này. Này Ananda, phàm có những Sa-môn hay Bà-la-môn nào
trong tương lai, sau khi chứng đạt sẽ an trú cứu cánh vô thượng
thanh tịnh Không tánh, tất cả các vị ấy sau khi chứng đạt đều sẽ an
trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không tánh này. Này Ananda, phàm
có những Sa-môn hay Bà-la-môn nào trong hiện tại, sau khi chứng đạt
và an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không tánh, tất cả các vị
ấy sau khi chứng đạt nếu an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không
tánh này. Do vậy, này Ananda, sau khi chứng đạt Ta sẽ an trú cứu cánh
vô thượng thanh tịnh Không tánh. Như vậy, này Ananda, các Ông cần
phải học tập.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Tôn giả Ananda hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ Kheo
Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 121 [tóm
tắt]
Kinh
Tiểu Không
(Cūḷasunnata Sutta)
(M.iii,
104)
Đức Thế Tôn xác nhận lời nói Ngài nói
với Tôn giả Ānanda: “Ta nhờ an trú không, nên nay an trú rất nhiều”. Rồi
Ngài giảng dạy các giai đoạn tu tập an trú không, thực hiện hoàn toàn
thanh tịnh không tánh.
Ví như trong giảng đường, không voi,
ngựa, bò, xe cộ, đàn ông, đàn bà, không tất cả, nhưng có một cái không
phải không, đó là chúng Tỷ-kheo. Cũng vậy, vị Tỷ-kheo tác ý lâm tưởng
(một khu rừng) thì không tác ý thôn tưởng (làng) hay nhơn tưởng
(người). Tâm vị ấy được hân hoan, an trú, giải thoát trong lâm tưởng.
Vị ấy nghĩ: “Các ưu phiền do duyên thôn tưởng, nhân tưởng không có mặt
tại đây. Chỉ có một ưu phiền là sự nhất trí do duyên lâm tưởng”. Vị
ấy biết: “Loại tưởng này không có thôn tưởng, không có nhơn tưởng,
chỉ có một cái không phải không ấy là sự nhất trí do duyên lâm tưởng”.
Kế tiếp vị Tỷ-kheo tác ý địa tưởng,
thì các ưu phiền do duyên nhân tưởng, lâm tưởng không có mặt, chỉ có một
ưu phiền là sự nhất trí do duyên địa tưởng, cái duy nhất không phải
không.
Kế tiếp vị Tỷ-kheo không tác ý lâm
tưởng, không tác ý địa tưởng, mà tác ý sự nhất trí do duyên không vô
biên xứ. Vị ấy biết: “Các ưu phiền do duyên lâm tưởng, địa tưởng
không có mặt ở đây. Chỉ có một ưu phiền là sự nhất trí do duyên không
vô biên xứ tưởng”.
Kế tiếp, vị ấy chỉ tác ý sự nhất
trí do duyên thức vô biên xứ, thì biết những ưu phiền do địa tưởng, và
không vô biên xứ tưởng không có mặt ở đây. Chỉ có một ưu phiền là sự
nhất trí do duyên thức vô biên xứ tưởng.
Kế đến vị Tỷ-kheo chỉ tác ý sự nhất
trí do duyên vô sở hữu xứ tưởng, ... phi tưởng phi phi tưởng xứ
tưởng, ... Vô tướng tâm định, khi an trú vô tướng tâm định, vị ấy
biết rõ định ấy thuộc hữu vi, do tâm tư tạo nên, do đó là vô thường,
phải đoạn diệt. Nhờ biết như vậy, tâm vị ấy thoát khỏi dục lậu,
hữu lậu, vô minh lậu. Trong sự giải thoát vị ấy biết sanh đã tận,
Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui đời này
nữa. Vị ấy biết: “Các ưu phiền do duyên ba lậu hoặc không có ở đây,
chỉ còn một ưu phiền là sáu nhập duyên mạng, duyên với thân này”. Như vậy
là sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh không tánh.
Đức Phật kết luận, những Sa-môn,
Bà-la-môn trong quá khứ, hiện tại, vị lai, sau khi chứng đạt đều chỉ an
trú cứu cánh vô tượng không tánh này.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 121 [dàn
ý]
Kinh
Tiểu Không
(Cūḷasunnata Sutta)
(M.iii,
104)
A. Duyên khởi:
Tôn giả nanda bạch Đức
Phật có phải khi trú ở Nagaraka, Thế Tôn có dạy “Ta nhờ an trú không nên an trú
rất nhiều”. Thế Tôn xác nhận với bài kinh này.
B. Chánh kinh:
I. Thế Tôn trả lời là
có nói vậy, và giải thích nghĩa chữ “không” thứ nhất là tại Lộc Mẫu giảng đường
không có voi, ngựa, vàng bạc, đàn ông, đàn bà tụ hội nhưng có sự nhất trí do
duyên chúng Tỷ-kheo.
II. Thế Tôn giải
thích chữ “không” thứ hai, không có thôn tưởng nhân tưởng, không có các hệ lụy
do duyên thôn tưởng, nhân tưởng nhưng có sự nhất trí do duyên lâm tưởng.
III. Thế Tôn giải
thích chữ “không” thứ ba. Không có tác ý nhân tưởng, lâm tưởng, không có các hệ lụy do duyên nhân tưởng,
lâm tưởng nhưng có sự nhất trí do duyên địa tưởng.
IV. Thế Tôn giải
thích nghĩa chữ “không” thứ tư, không có tác ý lâm tưởng, địa tưởng, không có
các ưu phiền do duyên lâm tưởng, địa tưởng nhưng có tác ý sự nhất trí do duyên
không vô biên xứ.
V. Thế Tôn giải thích
nghĩa chữ “không” thứ năm, không có tác ý địa tưởng, không vô biên xứ, chỉ có sự
tác ý do duyên thức vô biên xứ tưởng.
VI. Thế Tôn giải
thích nghĩa chữ “không” thứ sáu, không có tác ý không vô biên xứ tưởng, thức vô
biên xứ tưởng, chỉ có sự tác ý sự nhất trí do duyên vô sở hữu xứ tưởng.
VII. Thế Tôn giải
thích nghĩa chữ “không” thứ bảy, không có tác ý không vô biên xứ tưởng, vô sở hữu
xứ tưởng, chỉ có tác ý sự nhất trí do duyên phi tưởng phi phi tưởng xứ.
VIII. Thế Tôn giải
thích nghĩa chữ “không” thứ tám, không có tác ý vô sở hữu xứ tưởng, phi tưởng
phi phi tưởng xứ, có tác ý sự nhất trí do duyên vô tướng tâm định.
IX. Nhờ quán vô tướng
tâm định là hữu vi vô thường, chịu sự đoạn diệt, nên tâm được giải thoát khỏi
các lậu hoặc, chứng được quả A-la-hán. Nghĩa chữ “không” thứ chín là không có dục
lậu, hữu lậu, vô minh lậu nhưng có cái không phải không tức là 6 nhập duyên, mạng
duyên với thân này. Cái này thực có đối với vị ấy, tức là sự thực hiện hoàn
toàn thanh tịnh không tánh.
X. Thế Tôn dạy các
Sa-môn, Bà-la-môn trong quá khứ, tương lai, hiện tại, tất cả đều an trú cứu
cánh vô thượng thanh tịnh không tánh này và khuyên các vị Tỷ-kheo cần phải học
tập như vậy.
C. Kết luận:
Tôn giả nanda hoan hỷ
tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 121 [toát
yếu]
Kinh
Tiểu Không
(Cūḷasunnata Sutta)
(M.iii,
104)
I. Toát yếu:
The Shorter Discourse on Voidness.
The Buddha
instructs Ānanda on the "genuine, undistorted, pure descent into
voidness."
[Bản kinh
ngắn về tánh Không. Phật dạy A-nan về sự chứng nhập Tánh Không thuần
túy không bị cong quẹo]
II. Tóm tắt:
Phật xác nhận với tôn giả A-nan rằng
không những ngày xưa mà hiện tại, Ngài vẫn thường an trú trong Không
tính [1], và giải thích ý nghĩa của sự trú Không như sau.
Như trong giảng đường không có voi
ngựa, vàng bạc, đàn ông đàn bà... nhưng có một cái không phải không, đó là
chúng tỷ kheo. Cũng vậy, tỷ kheo khi ở rừng không tác ý đến các tưởng
về thôn xóm, về người, chỉ tác ý duy nhất đến tưởng rừng [2]. Khi ấy
những phiền hà do thôn tưởng, nhân tưởng không có mặt, chỉ có sự
phiền hà do duyên lâm tưởng [3]. Vị ấy nhận rõ là không, những gì không
hiện hữu, và nhận cái gì hiện hữu là có hiện hữu. Ðây là sự thực hiện
tánh Không hoàn toàn chân thật, không cong quẹo. Lại nữa, tỷ kheo không
tác ý đến cái tưởng Rừng, mà tác ý tưởng Ðất [4]. Tâm vị ấy thích thú,
hân hoan, an trú, giải thoát trong địa tưởng, như một tấm da bò căng
thẳng trên trăm cọc gỗ, không để ý đến chỗ lồi lõm hay cây cối núi
sông ở trên đất. Vị ấy biết các ưu phiền do nhân tưởng, lâm tưởng
không có mặt, chỉ còn một ưu phiền là sự nhất trí do duyên địa tưởng.
Ðối với cái còn lại, vị ấy biết (do duyên sinh): Cái kia có, cái này có.
Ðây là sự thực hiện tánh Không hoàn toàn, chân thật, không cong quẹo. Kế
tiếp, vị tỷ kheo không tác ý địa tưởng mà tác ý Không vô biên xứ tưởng
[5].
Tâm vị ấy thích thú, hân hoan trong
tưởng này, và biết ở đây chỉ có thuần một tưởng về Hư không vô biên,
không có các ưu phiền do duyên lâm tưởng, địa tưởng. Cái gì không có mặt,
vị ấy nhận là không có mặt, và cái còn lại thì biết do duyên sinh. Kế
tiếp, vị ấy tác ý Thức vô biên xứ tưởng, thì các tưởng về rừng,
đất, hư không không có mặt, chỉ có độc nhất một ưu phiền về tưởng
Thức vô biên. Kế tiếp, tác ý Vô sở hữu xứ tưởng rồi Phi tưởng phi
phi tưởng xứ, cũng như trên. Cuối cùng là tác ý Vô tướng tâm định [6].
Vị ấy biết các ưu phiền do duyên
tưởng Vô sở hữu và Phi tưởng phi phi tưởng không có mặt, chỉ còn một
ưu phiền là sáu nhập duyên mạng y cứ thân này là không phải không; và
thấy nó cũng duyên sinh như trên. Và vị ấy thấy rõ cái gì do ý tạo ra,
do duyên sinh thì phải vô thường, hoại diệt [7].
Nhờ vậy tâm giải thoát khỏi dục hữu
vô minh lậu; tự biết tâm đã giải thoát, sinh tận, phạm hạnh thành, sau
đời này không còn đời nào khác nữa. Ðây gọi là an trú tối thượng Không
tính [8].
III. Chú giải:
1. Sunnatāvihāra, Không trú. Kinh sẽ
làm rõ dần rằng đây ám chỉ quả chứng về Tánh
không, quả A-la-hán do tập trung quán
tưởng khía cạnh Không của Niết-bàn.
2. MA: Vị ấy tác ý đến lâm tưởng do
căn cứ vào một khu rừng, nghĩ: Ðây là một khu rừng, đây là một gốc
cây, một hòn núi, một hang động.
3. MA và MT đều giải thích đoạn này
như sau: Sự phiền hà của ưa và chán khởi lên do nhận thức về con
người, không hiện hữu ở đây; song vẫn còn có phiền hà gây nên bởi sự
sinh khởi các pháp thô do vì thiếu sự an tịnh cần thiết.
4. MA: Vị ấy từ bỏ tác ý về rừng và
chuyên chú đến địa đại, vì người ta không thể đạt được gì, cận hành
hay an chỉ, khi thiền quán về rừng.
Nhưng đất thì có thể được dùng làm
đề mục để quán kasina, trên căn bản này hành giả phát sinh thiền và tuệ
để đắc quả A-la-hán.
5. Sau khi dùng tưởng về đất để đắc
bốn thiền, vị ấy khai triển biến xứ đất rồi bỏ tướng kasina để
đắc Không vô biên xứ. Xem TTĐ chương X.
6. Vô tướng tâm định, animitta
cetosamādhi. MA: Ðây là định của tâm có tuệ giác, được gọi vô tướng vì
không có tướng thường vân vân.
7. Xem Trung 52. MA gọi đây là tuệ phản
quan (pativi- passanā) nghĩa là áp dụng các nguyên lý của tuệ vào chính
chức năng của tâm làm nhiệm vụ tuệ quán.
8. Ởđây các từ vô thượng, tối cao
(paramānuttarā) đã được thêm. MA nói đây là quả chứng Tánh không của
A-la-hán.
IV. Pháp số
(không có)
V. Kệ tụng
‘Phật
dạy với A-nan
Ta thường trú Không tánh
Ta thường trú Không tánh
Và
giải thích ý nghĩa
Của thứ lớp trú Không.
Của thứ lớp trú Không.
Như
ở trong giảng đường
Không
voi ngựa các thứ
Nhưng
có cái không không
Ấy
là chúng tỷ kheo.
‘Cũng
thế khi ở rừng
Chỉ
có tưởng về rừng
Không
có tưởng gì khác
Khi
ấy chỉ có mặt
Ưu phiền duyên lâm tưởng.
Ưu phiền duyên lâm tưởng.
Những
gì không hiện hữu
Biết
rõ nó là không
Cái gì có hiện hữu
Nhận là do duyên tưởng.
Cái gì có hiện hữu
Nhận là do duyên tưởng.
Ðấy
là thực hiện Không
Chân
thật, không cong quẹo.
‘Kế
tiếp bỏ tưởng Rừng
Ðể tác ý tưởng Ðất
Tâm vị ấy thích thú,
Hân hoan trong tưởng này,
Ðể tác ý tưởng Ðất
Tâm vị ấy thích thú,
Hân hoan trong tưởng này,
Biết
rõ các ưu phiền
Do
duyên các tưởng khác
Bây
giờ không có mặt
Chỉ
còn lại ưu phiền
Sinh
ra do tưởng Ðất.
‘Kế
tiếp bỏ tướng Ðất Quán
Hư
không vô biên
Tâm
chỉ còn độc nhất
Không
vô biên xứ tưởng.
Không
có các ưu phiền
Do
duyên các tưởng khác.
‘Cái
gì không có mặt,
Nhận
là không có mặt,
Cái
gì còn có mặt
Biết rõ do duyên sinh.
Biết rõ do duyên sinh.
Khi
bỏ tưởng hư không
Quán
Thức vô biên xứ
Tâm
chỉ còn độc nhất
Thức
vô biên xứ tưởng.
‘Bỏ
tưởng Thức vô biên
Quán Vô sở hữu xứ
Tâm chỉ còn độc nhất
Vô sở hữu xứ tưởng.
Bỏ tưởng Vô sở hữu
Quán Phi tưởng phi phi tưởng xứ
Quán Vô sở hữu xứ
Tâm chỉ còn độc nhất
Vô sở hữu xứ tưởng.
Bỏ tưởng Vô sở hữu
Quán Phi tưởng phi phi tưởng xứ
Tâm
chỉ còn độc nhất
Tưởng
Phi tưởng phi phi.
‘Không
để ý tưởng này
Nhập
Vô tướng tâm định
Vị
tỷ kheo rõ biết
Chỉ
còn một ưu phiền
Là sáu nhập duyên thân
Là sáu nhập duyên thân
Tồn
tại do sinh mạng
Cái gì không có mặt,
Nhận là không có mặt,
Cái gì còn có mặt
Biết rõ do duyên sinh.
Ðấy là thực hiện Không
Cái gì không có mặt,
Nhận là không có mặt,
Cái gì còn có mặt
Biết rõ do duyên sinh.
Ðấy là thực hiện Không
Chân
thật, không cong quẹo.
‘Vị
tỷ kheo thấy rõ
Vô tướng tâm định này
Vô tướng tâm định này
Cũng
do duyên mà sinh
Do
ý hành tạo nên.
Cái gì do duyên sinh
Cái gì do duyên sinh
Tất
phải bị hoại diệt
Nhờ
thấy rõ như vậy
Tâm
vị ấy giải thoát
Dục,
hữu, vô minh lậu
Tự
biết tâm giải thoát,
Sinh tận, phạm hạnh thành
Sinh tận, phạm hạnh thành
Sau
đời sống hiện tại
Không còn đời khác nữa
Ðây gọi là an trú
Trong tối thượng tánh Không.
Không còn đời khác nữa
Ðây gọi là an trú
Trong tối thượng tánh Không.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
121. Cūḷasuññatasuttaṃ [Mūla]
176.
Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ samayaṃ Bhagavā
sāvatthiyaṃ viharati pubbārāme migāramātupāsāde. Atha kho āyasmā ānando
sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito yena Bhagavā tenupasaṅkami upasaṅkamitvā
bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā ānando
bhagavantaṃ etadavoca : ''ekamidaṃ, bhante, samayaṃ Bhagavā sakkesu
viharati nagarakaṃ nāma sakyānaṃ nigamo. Tattha me, bhante, bhagavato sammukhā
sutaṃ, sammukhā paṭiggahitaṃ : 'suññatāvihārenāhaṃ, ānanda, etarahi bahulaṃ
viharāmīti. Kacci metaṃ, bhante, sussutaṃ suggahitaṃ sumanasikataṃ
sūpadhāritanti? ''taggha te etaṃ, ānanda, sussutaṃ suggahitaṃ sumanasikataṃ
sūpadhāritaṃ. Pubbepāhaṃ [pubbecāhaṃ (sī. syā. kaṃ. pī.)], ānanda, etarahipi
[etarahi ca (sabbattha)] suññatāvihārena bahulaṃ viharāmi. Seyyathāpi, ānanda,
ayaṃ migāramātupāsādo suñño hatthigavassavaḷavena, suñño jātarūparajatena,
suñño itthipurisasannipātena atthi cevidaṃ asuññataṃ yadidaṃ : bhikkhusaṅghaṃ
paṭicca ekattaṃ evameva kho, ānanda, bhikkhu amanasikaritvā gāmasaññaṃ,
amanasikaritvā manussasaññaṃ, araññasaññaṃ paṭicca manasi karoti ekattaṃ .
Tassa araññasaññāya cittaṃ pakkhandati pasīdati santiṭṭhati adhimuccati. So evaṃ
pajānāti : 'ye assu darathā gāmasaññaṃ paṭicca tedha na santi, ye assu darathā
manussasaññaṃ paṭicca tedha na santi, atthi cevāyaṃ darathamattā yadidaṃ :
araññasaññaṃ paṭicca ekattanti. So 'suññamidaṃ saññāgataṃ gāmasaññāyāti
pajānāti, 'suññamidaṃ saññāgataṃ manussasaññāyāti pajānāti, 'atthi cevidaṃ
asuññataṃ yadidaṃ : araññasaññaṃ paṭicca ekattanti. Iti yañhi kho tattha na
hoti tena taṃ suññaṃ samanupassati, yaṃ pana tattha avasiṭṭhaṃ hoti taṃ 'santamidaṃ atthīti pajānāti. Evampissa esā, ānanda,
yathābhuccā avipallatthā parisuddhā suññatāvakkanti bhavati.
177.
''Puna caparaṃ, ānanda, bhikkhu amanasikaritvā manussasaññaṃ, amanasikaritvā
araññasaññaṃ, pathavīsaññaṃ paṭicca manasi karoti ekattaṃ. Tassa
pathavīsaññāya cittaṃ pakkhandati
pasīdati santiṭṭhati adhimuccati. Seyyathāpi, ānanda, āsabhacammaṃ saṅkusatena
suvihataṃ vigatavalikaṃ evameva kho, ānanda, bhikkhu yaṃ imissā pathaviyā
ukkūlavikkūlaṃ nadīviduggaṃ khāṇukaṇṭakaṭṭhānaṃ pabbatavisamaṃ taṃ sabbaṃ
[sabbaṃ (ka.)] amanasikaritvā pathavīsaññaṃ paṭicca manasi karoti ekattaṃ.
Tassa pathavīsaññāya cittaṃ pakkhandati pasīdati santiṭṭhati adhimuccati. So
evaṃ pajānāti : 'ye assu darathā manussasaññaṃ paṭicca tedha na santi, ye assu
darathā araññasaññaṃ paṭicca tedha na
santi, atthi cevāyaṃ darathamattā yadidaṃ : pathavīsaññaṃ paṭicca ekattanti. So
'suññamidaṃ saññāgataṃ manussasaññāyāti pajānāti, 'suññamidaṃ saññāgataṃ
araññasaññāyāti pajānāti, 'atthi cevidaṃ asuññataṃ yadidaṃ : pathavīsaññaṃ paṭicca
ekattanti. Iti yañhi kho tattha na hoti tena taṃ suññaṃ samanupassati, yaṃ pana
tattha avasiṭṭhaṃ hoti taṃ 'santamidaṃ atthīti pajānāti. Evampissa esā, ānanda,
yathābhuccā avipallatthā parisuddhā suññatāvakkanti bhavati.
178.
''Puna caparaṃ, ānanda, bhikkhu amanasikaritvā araññasaññaṃ, amanasikaritvā
pathavīsaññaṃ, ākāsānañcāyatanasaññaṃ paṭicca manasi karoti ekattaṃ. Tassa
ākāsānañcāyatanasaññāya cittaṃ pakkhandati pasīdati santiṭṭhati adhimuccati. So
evaṃ pajānāti : 'ye assu darathā araññasaññaṃ paṭicca tedha na santi, ye assu
darathā pathavīsaññaṃ paṭicca tedha na
santi, atthi cevāyaṃ darathamattā yadidaṃ : ākāsānañcāyatanasaññaṃ paṭicca
ekattanti. So 'suññamidaṃ saññāgataṃ araññasaññāyāti pajānāti, 'suññamidaṃ
saññāgataṃ pathavīsaññāyāti pajānāti, 'atthi cevidaṃ asuññataṃ yadidaṃ :
ākāsānañcāyatanasaññaṃ paṭicca ekattanti. Iti yañhi kho tattha na hoti tena taṃ
suññaṃ samanupassati, yaṃ pana tattha avasiṭṭhaṃ hoti taṃ 'santamidaṃ atthīti
pajānāti. Evampissa esā, ānanda , yathābhuccā avipallatthā parisuddhā
suññatāvakkanti bhavati.
179.
''Puna caparaṃ, ānanda, bhikkhu
amanasikaritvā pathavīsaññaṃ, amanasikaritvā ākāsānañcāyatanasaññaṃ, viññāṇañcāyatanasaññaṃ
paṭicca manasi karoti ekattaṃ. Tassa viññāṇañcāyatanasaññāya cittaṃ pakkhandati
pasīdati santiṭṭhati adhimuccati. So evaṃ pajānāti : 'ye assu darathā
pathavīsaññaṃ paṭicca tedha na santi, ye
assu darathā ākāsānañcāyatanasaññaṃ paṭicca tedha na santi, atthi cevāyaṃ
darathamattā yadidaṃ : viññāṇañcāyatanasaññaṃ paṭicca ekattanti. So 'suññamidaṃ
saññāgataṃ pathavīsaññāyāti pajānāti, 'suññamidaṃ saññāgataṃ
ākāsānañcāyatanasaññāyāti pajānāti, 'atthi cevidaṃ asuññataṃ yadidaṃ : viññāṇañcāyatanasaññaṃ
paṭicca ekattanti. Iti yañhi kho tattha na hoti tena taṃ suññaṃ samanupassati,
yaṃ pana tattha avasiṭṭhaṃ hoti taṃ 'santamidaṃ atthīti pajānāti. Evampissa
esā, ānanda, yathābhuccā avipallatthā parisuddhā suññatāvakkanti bhavati.
180.
''Puna caparaṃ, ānanda, bhikkhu amanasikaritvā ākāsānañcāyatanasaññaṃ, amanasikaritvā
viññāṇañcāyatanasaññaṃ, ākiñcaññāyatanasaññaṃ paṭicca manasi karoti ekattaṃ.
Tassa ākiñcaññāyatanasaññāya cittaṃ pakkhandati pasīdati santiṭṭhati
adhimuccati. So evaṃ pajānāti : 'ye assu darathā ākāsānañcāyatanasaññaṃ paṭicca
tedha na santi, ye assu darathā viññāṇañcāyatanasaññaṃ
paṭicca tedha na santi, atthi cevāyaṃ darathamattā yadidaṃ :
ākiñcaññāyatanasaññaṃ paṭicca ekattanti. So 'suññamidaṃ saññāgataṃ
ākāsānañcāyatanasaññāyāti pajānāti, 'suññamidaṃ
saññāgataṃ viññāṇañcāyatanasaññāyāti pajānāti, 'atthi cevidaṃ asuññataṃ
yadidaṃ : ākiñcaññāyatanasaññaṃ paṭicca ekattanti. Iti yañhi kho tattha na hoti
tena taṃ suññaṃ samanupassati, yaṃ pana tattha avasiṭṭhaṃ hoti taṃ 'santamidaṃ
atthīti pajānāti. Evampissa esā, ānanda, yathābhuccā avipallatthā parisuddhā
suññatāvakkanti bhavati.
181.
''Puna caparaṃ, ānanda bhikkhu amanasikaritvā viññāṇañcāyatanasaññaṃ,
amanasikaritvā ākiñcaññāyatanasaññaṃ, nevasaññānāsaññāyatanasaññaṃ paṭicca
manasi karoti ekattaṃ. Tassa nevasaññānāsaññāyatanasaññāya cittaṃ pakkhandati
pasīdati santiṭṭhati adhimuccati. So evaṃ pajānāti : 'ye assu darathā viññāṇañcāyatanasaññaṃ
paṭicca tedha na santi, ye assu darathā
ākiñcaññāyatanasaññaṃ paṭicca tedha na santi, atthi cevāyaṃ darathamattā yadidaṃ
: nevasaññānāsaññāyatanasaññaṃ paṭicca ekattanti. So 'suññamidaṃ saññāgataṃ
viññāṇañcāyatanasaññāyāti pajānāti, 'suññamidaṃ saññāgataṃ
ākiñcaññāyatanasaññāyāti pajānāti, 'atthi cevidaṃ asuññataṃ yadidaṃ : nevasaññānāsaññāyatanasaññaṃ paṭicca
ekattanti . Iti yañhi kho tattha na hoti tena taṃ suññaṃ samanupassati, yaṃ
pana tattha avasiṭṭhaṃ hoti taṃ 'santamidaṃ atthīti pajānāti. Evampissa esā,
ānanda, yathābhuccā avipallatthā parisuddhā suññatāvakkanti bhavati.
182.
''Puna caparaṃ, ānanda, bhikkhu amanasikaritvā ākiñcaññāyatanasaññaṃ, amanasikaritvā
nevasaññānāsaññāyatanasaññaṃ, animittaṃ cetosamādhiṃ paṭicca manasi karoti
ekattaṃ. Tassa animitte cetosamādhimhi cittaṃ pakkhandati pasīdati santiṭṭhati
adhimuccati. So evaṃ pajānāti : 'ye assu darathā ākiñcaññāyatanasaññaṃ paṭicca
tedha na santi, ye assu darathā nevasaññānāsaññāyatanasaññaṃ paṭicca tedha na
santi, atthi cevāyaṃ darathamattā yadidaṃ : imameva kāyaṃ paṭicca saḷāyatanikaṃ
jīvitapaccayāti . So 'suññamidaṃ saññāgataṃ ākiñcaññāyatanasaññāyāti pajānāti,
'suññamidaṃ saññāgataṃ nevasaññānāsaññāyatanasaññāyāti pajānāti, 'atthi cevidaṃ
asuññataṃ yadidaṃ : imameva kāyaṃ paṭicca saḷāyatanikaṃ jīvitapaccayāti. Iti
yañhi kho tattha na hoti tena taṃ suññaṃ samanupassati, yaṃ pana tattha avasiṭṭhaṃ
hoti taṃ 'santamidaṃ atthīti pajānāti. Evampissa esā, ānanda, yathābhuccā
avipallatthā parisuddhā suññatāvakkanti bhavati.
183.
''Puna caparaṃ, ānanda, bhikkhu amanasikaritvā ākiñcaññāyatanasaññaṃ,
amanasikaritvā nevasaññānāsaññāyatanasaññaṃ, animittaṃ cetosamādhiṃ paṭicca manasi karoti ekattaṃ. Tassa animitte
cetosamādhimhi cittaṃ pakkhandati pasīdati santiṭṭhati adhimuccati. So evaṃ
pajānāti : 'ayampi kho animitto cetosamādhi abhisaṅkhato abhisañcetayito. 'Yaṃ
kho pana kiñci abhisaṅkhataṃ abhisañcetayitaṃ tadaniccaṃ nirodhadhammanti
pajānāti. Tassa evaṃ jānato evaṃ passato kāmāsavāpi cittaṃ vimuccati,
bhavāsavāpi cittaṃ vimuccati, avijjāsavāpi cittaṃ vimuccati. Vimuttasmiṃ
vimuttamiti ñāṇaṃ hoti. 'Khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ,
nāparaṃ itthattāyāti pajānāti. So evaṃ pajānāti : 'ye assu darathā kāmāsavaṃ paṭicca tedha na santi, ye assu
darathā bhavāsavaṃ paṭicca tedha na santi, ye assu darathā avijjāsavaṃ paṭicca
tedha na santi, atthi cevāyaṃ darathamattā yadidaṃ : imameva kāyaṃ paṭicca saḷāyatanikaṃ jīvitapaccayāti. So 'suññamidaṃ saññāgataṃ
kāmāsavenāti pajānāti, 'suññamidaṃ saññāgataṃ bhavāsavenāti pajānāti,
'suññamidaṃ saññāgataṃ avijjāsavenāti pajānāti, 'atthi cevidaṃ asuññataṃ yadidaṃ
: imameva kāyaṃ paṭicca saḷāyatanikaṃ jīvitapaccayāti. Iti yañhi kho tattha na
hoti tena taṃ suññaṃ samanupassati, yaṃ pana tattha avasiṭṭhaṃ hoti taṃ
'santamidaṃ atthīti pajānāti. Evampissa esā, ānanda, yathābhuccā
avipallatthā parisuddhā paramānuttarā
suññatāvakkanti bhavati.
184.
''Yepi hi keci, ānanda, atītamaddhānaṃ samaṇā vā brāhmaṇā vā parisuddhaṃ paramānuttaraṃ suññataṃ
upasampajja vihariṃsu, sabbe te imaṃyeva parisuddhaṃ paramānuttaraṃ suññataṃ
upasampajja vihariṃsu. Yepi [ye (sī. pī.)] hi keci, ānanda, anāgatamaddhānaṃ
samaṇā vā brāhmaṇā vā parisuddhaṃ paramānuttaraṃ suññataṃ upasampajja
viharissanti, sabbe te imaṃyeva parisuddhaṃ paramānuttaraṃ suññataṃ upasampajja
viharissanti. Yepi [ye (sī. pī.)] hi keci, ānanda, etarahi samaṇā vā brāhmaṇā
vā parisuddhaṃ paramānuttaraṃ suññataṃ upasampajja viharanti, sabbe te imaṃyeva
parisuddhaṃ paramānuttaraṃ suññataṃ upasampajja viharanti. Tasmātiha, ānanda,
'parisuddhaṃ paramānuttaraṃ suññataṃ upasampajja viharissāmāti [viharissāmīti
(pī. ka.)] : evañhi vo [te (ka.)], ānanda, sikkhitabbanti. Idamavoca Bhagavā.
Attamano āyasmā ānando bhagavato bhāsitaṃ abhinandīti.
Cūḷasuññatasuttaṃ niṭṭhitaṃ
paṭhamaṃ.
-ooOoo-
121.
Cūḷasuññatasuttavaṇṇanā [Atthakathā]
176. Evaṃ
me sutanti cūḷasuññatasuttaṃ. Tattha ekamidanti thero kira
bhagavato vattaṃ katvā attano divāṭṭhānaṃ gantvā kālaparicchedaṃ katvā
nibbānārammaṇaṃ suññatāphalasamāpattiṃ appetvā nisinno yathāparicchedena vuṭṭhāsi.
Athassa saṅkhārā suññato upaṭṭhahiṃsu. So suññatākathaṃ sotukāmo jāto. Athassa
etadahosi – ‘‘na kho pana sakkā dhurena dhuraṃ paharantena viya gantvā
‘suññatākathaṃ me, bhante, kathethā’ti bhagavantaṃ vattuṃ, handāhaṃ yaṃ me
bhagavā nagarakaṃ upanissāya viharanto ekaṃ kathaṃ kathesi, taṃ sāremi, evaṃ me
bhagavā suññatākathaṃ kathessatī’’ti dasabalaṃ sārento ekamidantiādimāha.
Tattha idanti
nipātamattameva. Kaccimetaṃ, bhanteti thero ekapade ṭhatvā saṭṭhipadasahassāni
uggahetvā dhāretuṃ samattho, kiṃ so ‘‘suññatāvihārenā’’ti ekaṃ padaṃ dhāretuṃ
na sakkhissati, sotukāmena pana jānantena viya pucchituṃ na vaṭṭati, pākaṭaṃ
katvā vitthāriyamānaṃ suññatākathaṃ sotukāmo ajānanto viya evamāha. Eko
ajānantopi jānanto viya hoti, thero evarūpaṃ kohaññaṃ kiṃ karissati, attano
jānanaṭṭhānepi bhagavato apacitiṃ dassetvā ‘‘kaccimeta’’ntiādimāha.
Pubbepīti
paṭhamabodhiyaṃ nagarakaṃ upanissāya viharaṇakālepi. Etarahipīti
idānipi. Evaṃ pana vatvā cintesi – ‘‘ānando suññatākathaṃ sotukāmo, eko pana
sotuṃ sakkoti, na uggahetuṃ, eko sotumpi uggahetumpi sakkoti, na kathetuṃ,
ānando pana sotumpi sakkoti uggahetumpi kathetumpi, (kathemissa)
suññatākatha’’nti. Iti taṃ kathento seyyathāpītiādimāha. Tattha suñño
hatthigavāssavaḷavenāti tattha kaṭṭharūpapotthakarūpacittarūpavasena katā
hatthiādayo atthi, vessavaṇamandhātādīnaṃ ṭhitaṭṭhāne cittakammavasena katampi,
ratanaparikkhatānaṃ vātapānadvārabandhamañcapīṭhādīnaṃ vasena saṇṭhitampi, jiṇṇapaṭisaṅkharaṇatthaṃ
ṭhapitampi jātarūparajataṃ atthi, kaṭṭharūpādivasena katā
dhammasavanapañhapucchanādivasena āgacchantā ca itthipurisāpi atthi, tasmā na
so tehi suñño. Indriyabaddhānaṃ saviññāṇakānaṃ hatthiādīnaṃ, icchiticchitakkhaṇe
paribhuñjitabbassa jātarūparajatassa, nibaddhavāsaṃ vasantānaṃ itthipurisānañca
abhāvaṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ.
Bhikkhusaṅghaṃ
paṭiccāti bhikkhūsu hi piṇḍāya paviṭṭhesupi vihārabhattaṃ
sādiyantehi bhikkhūhi ceva gilānagilānupaṭṭhākauddesacīvarakammapasutādīhi ca
bhikkhūhi so asuññova hoti, iti niccampi bhikkhūnaṃ atthitāya evamāha. Ekattanti
ekabhāvaṃ, ekaṃ asuññataṃ atthīti attho. Eko asuññabhāvo atthīti vuttaṃ hoti. Amanasikaritvāti
citte akatvā anāvajjitvā apaccavekkhitvā. Gāmasaññanti gāmoti
pavattavasena vā kilesavasena vā uppannaṃ gāmasaññaṃ. Manussasaññāyapi eseva
nayo. Araññasaññaṃ paṭicca manasi karoti ekattanti idaṃ araññaṃ, ayaṃ
rukkho, ayaṃ pabbato, ayaṃ nīlobhāso vanasaṇḍoti evaṃ ekaṃ araññaṃyeva paṭicca
araññasaññaṃ manasi karoti. Pakkhandatīti otarati. Adhimuccatīti
evanti adhimuccati. Ye assu darathāti ye ca pavattadarathā vā
kilesadarathā vā gāmasaññaṃ paṭicca bhaveyyuṃ, te idha araññasaññāya na santi.
Dutiyapadepi eseva nayo. Atthi cevāyanti ayaṃ pana ekaṃ araññasaññaṃ paṭicca
uppajjamānā pavattadarathamattā atthi.
Yañhi kho
tattha na hotīti yaṃ migāramātupāsāde hatthiādayo viya imissā araññasaññāya
gāmasaññāmanussasaññāvasena uppajjamānaṃ pavattadarathakilesadarathajātaṃ, taṃ
na hoti. Yaṃ pana tattha avasiṭṭhanti yaṃ migāramātupāsāde bhikkhusaṅgho
viya tattha araññasaññāya pavattadarathamattaṃ avasiṭṭhaṃ hoti. Taṃ
santamidaṃ atthīti pajānātīti taṃ vijjamānameva ‘‘atthi ida’’nti pajānāti, suññatāvakkantīti
suññatānibbatti.
177. Amanasikaritvā
manussasaññanti idha gāmasaññaṃ na gaṇhāti. Kasmā? Evaṃ kirassa ahosi –
‘‘manussasaññāya gāmasaññaṃ nivattetvā, araññasaññāya manussasaññaṃ,
pathavīsaññāya araññasaññaṃ, ākāsānañcāyatanasaññāya pathavīsaññaṃ…pe…
nevasaññānāsaññāyatanasaññāya ākiñcaññāyatanasaññaṃ, vipassanāya
nevasaññānāsaññāyatanasaññaṃ, maggena vipassanaṃ nivattetvā anupubbena
accantasuññataṃ nāma dassessāmī’’ti. Tasmā evaṃ desanaṃ ārabhi. Tattha pathavīsaññanti
kasmā araññasaññaṃ pahāya pathavīsaññaṃ manasi karoti? Araññasaññāya visesānadhigamanato.
Yathā hi purisassa ramaṇīyaṃ khettaṭṭhānaṃ disvā – ‘‘idha vuttā sāliādayo suṭṭhu
sampajjissanti, mahālābhaṃ labhissāmī’’ti sattakkhattumpi khettaṭṭhānaṃ
olokentassa sāliādayo na sampajjanteva, sace pana taṃ ṭhānaṃ vihatakhāṇukakaṇṭakaṃ
katvā kasitvā vapati, evaṃ sante sampajjanti, evameva – ‘‘idaṃ araññaṃ, ayaṃ
rukkho, ayaṃ pabbato, ayaṃ nīlobhāso vanasaṇḍo’’ti sacepi sattakkhattuṃ
araññasaññaṃ manasi karoti, nevūpacāraṃ na samādhiṃ pāpuṇāti, pathavīsaññāya
panassa dhuvasevanaṃ kammaṭṭhānaṃ pathavīkasiṇaṃ parikammaṃ katvā jhānāni
nibbattetvā jhānapadaṭṭhānampi vipassanaṃ vaḍḍhetvā sakkā arahattaṃ pāpuṇituṃ.
Tasmā araññasaññaṃ pahāya pathavīsaññaṃ manasi karoti. Paṭiccāti paṭicca
sambhūtaṃ.
Idāni yasmiṃ
pathavīkasiṇe so pathavīsaññī hoti, tassa opammadassanatthaṃ seyyathāpītiādimāha.
Tattha usabhassa etanti āsabhaṃ. Aññesaṃ pana gunnaṃ gaṇḍāpi honti
pahārāpi. Tesañhi cammaṃ pasāriyamānaṃ nibbalikaṃ na hoti, usabhassa lakkhaṇasampannatāya
te dosā natthi. Tasmā tassa cammaṃ gahitaṃ. Saṅkusatenāti khilasatena. Suvihatanti
pasāretvā suṭṭhu vihataṃ. Ūnakasatasaṅkuvihatañhi nibbalikaṃ na hoti, saṅkusatena
vihataṃ bheritalaṃ viya nibbalikaṃ hoti. Tasmā evamāha. Ukkūlavikkūlanti
uccanīcaṃ thalaṭṭhānaṃ ninnaṭṭhānaṃ. Nadīvidugganti nadiyo ceva duggamaṭṭhānañca.
Pathavīsaññaṃ paṭicca manasi karoti ekattanti kasiṇapathaviyaṃyeva paṭicca
sambhūtaṃ ekaṃ saññaṃ manasi karoti. Darathamattāti ito paṭṭhāya
sabbavāresu pavattadarathavasena darathamattā veditabbā.
182. Animittaṃ
cetosamādhinti vipassanācittasamādhiṃ. So hi niccanimittādivirahito
animittoti vuccati. Imameva kāyanti vipassanāya vatthuṃ dasseti. Tattha imamevāti
imaṃ eva catumahābhūtikaṃ. Saḷāyatanikanti saḷāyatanapaṭisaṃyuttaṃ. Jīvitapaccayāti
yāva jīvitindriyānaṃ pavatti, tāva jīvitapaccayā pavattadarathamattā atthīti
vuttaṃ hoti.
183.
Puna animittanti vipassanāya paṭivipassanaṃ dassetuṃ vuttaṃ. Kāmāsavaṃ
paṭiccāti kāmāsavaṃ paṭicca uppajjanapavattadarathā idha na santi,
ariyamagge ceva ariyaphale ca natthīti vuttaṃ hoti. Imameva kāyanti imaṃ
upādisesadarathadassanatthaṃ vuttaṃ. Iti manussasaññāya gāmasaññaṃ
nivattetvā…pe… maggena vipassanaṃ nivattetvā anupubbena accantasuññatā nāma
dassitā hoti.
184. Parisuddhanti
nirupakkilesaṃ. Anuttaranti uttaravirahitaṃ sabbaseṭṭhaṃ. Suññatanti
suññataphalasamāpattiṃ. Tasmāti yasmā atītepi,
buddhapaccekabuddhabuddhasāvakasaṅkhātā samaṇabrāhmaṇā. Anāgatepi, etarahipi
buddhabuddhasāvakasaṅkhātā samaṇabrāhmaṇā imaṃyeva parisuddhaṃ paramaṃ anuttaraṃ
suññataṃ upasampajja vihariṃsu viharissanti viharanti ca, tasmā. Sesaṃ
sabbattha uttānamevāti.
Papañcasūdaniyā
majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Cūḷasuññatasuttavaṇṇanā
niṭṭhitā.
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 1. Thế nào là sự khác biệt giữa đoạn kiến và thể nhập tánh không ? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 2. Khả năng nhận thức cả hai thế giới tương phản có lợi lạc gì cho tâm thức chúng ta ? -ĐĐ Pháp Tín
Thảo luận 3. Làm sao để vượt thoát khổ đau mà không bị trì níu cảm giác mất mát ? - TT Pháp Đăng
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment