Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Tuệ Siêu
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 18/5/2020
126. Kinh Phù-Di (Bhùmija Sutta)
Tôn giả Bhūmija là cậu ruột của vương tử
Jayasena. Một lần vương tử hỏi sư cậu về quan điểm của một số các sa môn, bà la
môn về giá trị sự tu tập có sở nguyện hay không có sở nguyện. Tôn giả trả lời
theo sự hiểu biết về lời dạy của Đức Phật thì điều quan trọng không phải là có
phát nguyện hay không có phát nguyện mà chính ở chỗ sự thực hành có đúng cách
hay không. Sau nầy tôn gỉả trình bày những gì đã nói lên Bậc Đạo Sư. Đức Phật xác
nhận trả lời như thế là thoà đáng và Ngài dạy thêm một số thí dụ để thấy rõ vấn
đề.
1107. Câu hỏi về nguyện lực
Khi được hỏi sự ước nguyện có quyết định được
khả năng thành tựu cứu cánh phạm hạnh thì câu trả lời có thể làm ngạc nhiên nhiều
người:
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Rajagaha
(Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm), tại chỗ nuôi dưỡng sóc.
Rồi Tôn giả Bhumija (Phù-di) vào buổi
sáng đắp y, cầm y bát, đi đến trú xứ của vương tử Jayasena, sau khi
đến ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Rồi vương tử Jayasena đi đến Tôn giả
Bhumija, sau khi đến nói lên với Tôn giả Bhumija những lời chào đón hỏi
thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi
xuống một bên. Ngồi xuống một bên, vương tử Jayasena thưa với Tôn
giả Bhumija:
-- Thưa Tôn giả Bhumija, có một số
Sa-môn, Bà-la-môn có lý thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Nếu có
ước nguyện hành Phạm hạnh, thời không đạt được quả vị; nếu không có
ước nguyện hành Phạm hạnh, thời không đạt được quả vị; nếu có và
không có ước nguyện hành Phạm hạnh, thời không đạt được quả vị nếu
không có và không có ước nguyện hành Phạm hạnh, thời không đạt được
quả vị". Ở đây, bậc Ðạo sư của Tôn giả Bhumija có nói gì, và có lập
luận gì?
-- Thưa Vương tử, tôi không tận mặt
Thế Tôn được nghe như vậy, được ghi nhớ như vậy. Và sự việc này
xảy ra, Thế Tôn có giải thích như sau: "Nếu có ước nguyện, hành
Phạm hạnh không chánh đáng (ayoni so), thời không đạt được quả vị; nếu
không có ước nguyện hành Phạm hạnh không chánh đáng, thời không đạt
được quả vị; nếu có và không có ước nguyện hành Phạm hạnh không chánh
đáng, thời không đạt được quả vị; nếu không có và không không có ước
nguyện, hành Phạm hạnh không chánh đáng thời không đạt được quả vị.
Còn nếu có ước nguyện hành Phạm hạnh một cách chánh đáng, thời đạt
được quả vị; nếu không có ước nguyện hành Phạm hạnh một cách chánh
đáng, thời đạt được quả vị; nếu có và không có ước nguyện hành Phạm
hạnh một cách chánh đáng, thời đạt được quả vị; nếu không có và không
không có ước nguyện hành Phạm hạnh một cách chánh đáng, thời đạt được
quả vị". Thưa Vương tử, tôi không tận mặt Thế Tôn được nghe
như vậy, được ghi nhớ như vậy. Sự việc xảy ra, Thế Tôn có giải
thích như vậy.
-- Nếu Ðạo sư của Tôn giả Bhumija
thuyết lý như vậy, lập luận như vậy, thời tôi nghĩ rằng chắc chắn
vị Ðạo sư của Tôn giả Bhumija, đứng cao hơn trên đầu tất cả Sa-môn,
Bà-la-môn tầm thường.
Rồi vương tử Jayasena mời Tôn giả
Bhumija, dùng với bát ăn (thalipaka) của mình.
1108. Lời xác chứng của Bậc Đạo Sư
Khi nghe thuật lại cuộc đối thoại, Đức Phật
xác nhận Tôn giả Bhūmija đã trả lời đúng với những gì Ngài dạy:
Rồi Tôn giả Bhumija, sau bữa ăn khất
thực trở về đi đến chỗ Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi
ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Bhumija bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, ở đây, vào buổi sáng
con đắp y, cầm y bát, đi đến trú xứ của vương tử Jayasena, sau khi đến
con ngồi trên chỗ đã soạn sẵn, bạch Thế Tôn, vương tử Jayasena đến
chỗ con, sau khi đến nói lên với con những lời chào đón hỏi thăm, sau
khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một
bên. Ngồi xuống một bên, bạch Thế Tôn, vương tử Jayasena nói với con
như sau: "Thưa Tôn giả Bhumija, một số Sa-môn, Bà-la-môn, .... bậc
Ðạo sư của Tôn giả có nói gì, có lập luận gì?" Khi được nghe nói vậy,
bạch Thế Tôn, con có nói với vương tử Jayasena, như sau: "Này
Vương tử, tôi không tận mặt Thế Tôn, được nghe như sau, được ghi
nhớ như sau:... ". -- "Nếu Ðạo sư của Tôn giả Bhumija... Tôi
nghĩ rằng chắc chắn Ðạo sư của Tôn giả Bhumija, đứng cao hơn trên
đầu tất cả Sa-môn, Bà-la-môn tầm thường". Bạch Thế Tôn, không
hiểu hỏi như vậy, trả lời như vậy, con có nói đúng lời Thế Tôn nói,
con không xuyên tạc lời Thế Tôn với điều không đúng sự thực, nhưng con
đã giải thích đúng pháp, tùy pháp, và một vị đồng Phạm hạnh nói đúng
pháp, tùy pháp sẽ không có lý do để chỉ trích?
-- Thật vậy, này Bhumija, được hỏi vậy,
được trả lời vậy, Ông nói đúng lời Thế Tôn nói, Ông không xuyên tạc
Thế Tôn với điều không đúng sự thực, Ông đã giải thích đúng pháp, tùy
pháp, và một vị đồng Phạm hạnh nói đúng pháp, tùy pháp không có lý do gì
để chỉ trích.
1109. Bốn thí dụ về bát tà đạo và bát
chánh đạo
Ý muốn không đủ mà phải làm đúng cách mới
có kết quả:
Này Bhumija, những Sa-môn hay Bà-la-môn
nào có tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm,
tà định, nếu họ có ước nguyện hành Phạm hạnh, thời không đạt được
quả vị; nếu họ không có ước nguyện hành Phạm hạnh, thời không đạt
được quả vị; nếu họ có và không có ước nguyện, hành Phạm hạnh, thời
không đạt được quả vị; nếu họ không có và không không có ước nguyện,
hành Phạm hạnh thời không đạt được quả vị. Vì sao vậy? Ðây không phải
là phương pháp này Bhumija, để đạt được quả vị.
Ví như, này Bhumija, một người cần
dầu, tìm cầu dầu, đi chỗ này chỗ kia để tìm dầu. Sau khi đổ cát vào
thùng, tiếp tục rưới nước rồi ép (cát cho ra dầu). Nếu người ấy có
ước nguyện, sau khi đổ cát vào thùng, tiếp tục rưới nước rồi ép (cát
cho ra dầu), người ấy không lấy được dầu. Nếu người ấy không có
ước nguyện, sau khi đổ cát vào thùng, tiếp tục rưới nước rồi ép (cát
cho ra dầu), người ấy không lấy được dầu. Nếu người ấy có và không
có ước nguyện, sau khi đổ cát vào thùng, tiếp tục rưới nước rồi ép
(cát cho ra dầu), người ấy không lấy được dầu. Nếu người ấy không
có và không không có ước nguyện, sau khi đổ cát vào thùng, tiếp tục
rưới nước rồi ép (cát cho ra dầu), người ấy không lấy được dầu. Vì
sao vậy? Ðây không phải là phương pháp, này Bhumija, để lấy được dầu.
Cũng vậy, này Bhumija, những vị Sa-môn hay Bà-la-môn có tà kiến, tà tư
duy... tà định, nếu họ có ước nguyện, hành Phạm hạnh, họ không đạt
được quả vị; nếu họ không ước nguyện... có và không có ước nguyện...
không có và không không có ước nguyện, hành Phạm hạnh thời họ không đạt
được quả vị. Vì sao vậy? Ðây không phải là phương pháp này Bhumija, để
đạt được quả vị.
Ví như, này Bhumija, một người cần
sữa, tìm cầu sữa, đi chỗ này chỗ kia để tìm sữa, nắm sừng con bò cái
trẻ để vắt sữa. Nếu người ấy có ước nguyện, nắm sừng con bò cái
trẻ để vắt sữa, người ấy không lấy được sữa. Nếu người ấy không
có ước nguyện... Nếu người ấy có và không có ước nguyện... Nếu
người ấy không có và không không có ước nguyện, nắm sừng con bò cái
trẻ để vắt sữa, nó không lấy được sữa. Vì sao vậy? Này Bhumija, đây
không phải là phương pháp để lấy sữa. Cũng vậy, này Bhumija, các vị
Sa-môn hay Bà-la-môn, có tà kiến... có tà định, nếu họ có ước nguyện
hành Phạm hạnh, họ không đạt được quả vị; nếu họ không có ước nguyện;
nếu họ có và không có ước nguyện; nếu họ không có và không không có
ước nguyện, hành Phạm hạnh, họ không đạt được quả vị. Vì sao vậy?
Ðây không phải là phương pháp, này Bhumija, để đạt được quả vị.
Ví như, này Bhumija, một người cần
sanh tô, tìm cầu sanh tô, đi chỗ này chỗ kia để tìm cầu sanh tô, sau khi
đổ nước vào một cái ghè, rồi lấy que khuấy đánh. Nếu người ấy có
ước nguyện, sau khi đổ nước vào một cái ghè, lấy que khuấy đánh,
người ấy lấy được sanh tô. Nếu người ấy không có ước nguyện; nếu
người ấy có và không có ước nguyện; nếu người ấy không có và không
không có ước nguyện, đổ nước vào một cái ghè, lấy que khuấy đánh,
người ấy không lấy được sanh tô. Vì sao vậy? Này Bhumija, đây không
phải là phương pháp để lấy sanh tô. Cũng vậy, này Bhumija, những Sa-môn
hay Bà-la-môn có tà kiến... có tà định, nếu họ có ước nguyện hành Phạm
hạnh, họ không đạt được quả vị; nếu họ không có ước nguyện; nếu
họ có và không có ước nguyện; nếu họ không có và không không có ước
nguyện, thời họ không đạt được quả vị. Vì sao vậy? Này Bhumija, đây
không phải là phương pháp để đạt được quả vị.
Ví như, này Bhumija, một người cần
lửa, tìm cầu lửa, đi chỗ này chỗ kia để tìm lửa. Người ấy đem phần
phía trên đồ quay lửa, rồi cọ xát với một khúc que ướt và có nhựa,
nếu người ấy có ước nguyện, đem phần phía trên đồ quay lửa rồi cọ
xát với một khúc que ướt và có nhựa, thời người ấy không lấy được
lửa; nếu người ấy không có ước nguyện; nếu người ấy có và không có
ước nguyện, nếu người ấy không có và không có ước nguyện đem phần
trên đồ quay lửa, rồi cọ xát với một khúc que ướt và có nhựa, thời
người ấy không lấy được lửa. Vì sao vậy? Ðây không phải là phương
pháp, này Bhumija, để lấy được lửa. Cũng vậy, này Bhumija, có những
Sa-môn, hay Bà-la-môn có tà kiến... có tà định; nếu họ có ước nguyện,
hành Phạm hạnh, họ không đạt được quả vị; nếu họ không có ước nguyện;
nếu họ có và không có ước nguyện; nếu họ không có và không không có
ước nguyện, thời họ không thể đạt được quả vị. Vì cớ sao? Ðây không
phải là phương pháp, này Bhumija, để đạt được quả vị.
Này Bhumija, những Sa-môn hay Bà-la-môn
nào có chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng,
chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định; nếu họ có ước nguyện, hành
Phạm hạnh, họ đạt được quả vị; nếu họ không có ước nguyện; nếu
họ có và không có ước nguyện; nếu họ không có và không không có ước
nguyện, hành Phạm hạnh, thời họ đạt được quả vị. Vì cớ sao? Ðây là
phương pháp, này Bhumija, để đạt được quả vị.
Ví như, này Bhumija, một người cần
dầu, cầu tìm dầu, đi chỗ này chỗ kia để tìm dầu, sau khi đổ những hột
giống dầu vào cái thùng, tiếp tục rưới nước rồi ép (cho ra dầu). Nếu
người ấy có ước nguyện, sau khi đổ những giống dầu vào trong cái
thùng, tiếp tục rưới nước rồi ép (cho ra dầu), thời người ấy lấy
được dầu. Nếu người ấy không có ước nguyện; nếu người ấy có và
không có ước nguyện; nếu người ấy không có và không không có ước nguyện,
sau khi đổ những hột giống dầu vào trong cái thùng, tiếp tục rưới
nước rồi ép (cho ra dầu), thời người ấy lấy được dầu. Vì cớ sao?
Này Bhumija, đây là phương pháp để lấy được dầu. Cũng vậy, này Bhumija
những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào có chánh kiến... có chánh định. Nếu họ
có ước nguyện, hành Phạm hạnh, thời họ đạt được quả vị; nếu họ
không có ước nguyện; nếu họ có và không có ước nguyện, nếu họ không
có và không không có ước nguyện, hành Phạm hạnh, thời họ đạt được
quả vị. Vì cớ sao? Này Bhumija, đây là phương pháp có thể đạt được
quả vị.
Ví như, này Bhumija, một người cần
sữa, tìm cầu sữa, đi chỗ này chỗ kia để tìm sữa. Và người ấy vắt
sữa từ nơi vú con bò cái còn trẻ. Nếu người ấy có ước nguyện, vắt
sữa từ nơi vú con bò cái còn trẻ, thời người ấy lấy được sữa. Nếu
người ấy không có ước nguyện; nếu người ấy có và không có ước nguyện;
nếu người ấy không có và không không có ước nguyện, người ấy vắt
sữa từ nơi vú con bò cái còn trẻ, thời người ấy lấy được sữa. Vì
cớ sao? Này Bhumija, đây là phương pháp để lấy được sữa. Cũng vậy,
này Bhumija, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào có chánh kiến... có chánh định,
nếu họ có ước nguyện, hành Phạm hạnh, thời họ đạt được quả vị.
Nếu họ không có ước nguyện; nếu họ có và không có ước nguyện; nếu
họ không có và không không có ước nguyện, hành Phạm hạnh, thời họ đạt
được quả vị. Vì cớ sao? Này Bhumija, đây là phương pháp để đạt được
quả vị.
Ví như, này Bhumija, một người cần
sanh tô, tìm cầu sanh tô, đi chỗ này chỗ kia tìm cầu sanh tô; sau khi đổ
lạc (dadhi) vào trong một cái ghè, rồi lấy cây que khuấy, đánh. Nếu
người ấy có ước nguyện, sau khi đổ lạc (dadhi) vào trong một cái ghè,
rồi lấy cây que khuấy, đánh, thời người ấy lấy được sanh tô. Nếu
người ấy không có ước nguyện; nếu người ấy có và không có ước nguyện;
nếu người ấy không có và không không có ước nguyện, thời sau khi đổ
lạc (dadhi) vào trong một cái ghè, rồi lấy que khuấy, đánh, người ấy
lấy được sanh tô. Vì cớ sao? Này Bhumija, đây là phương pháp để lấy
được sanh tô. Cũng vậy, này Bhumija, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào có
chánh kiến... có chánh định; nếu họ có ước nguyện, hành Phạm hạnh,
thời họ đạt được quả vị. Nếu họ không có ước nguyện; nếu họ có và
không có ước nguyện; nếu họ không có và không không có ước nguyện, hành
Phạm hạnh, thời họ đạt được quả vị. Vì cớ sao? Này Bhumija, đây là
phương pháp để đạt được quả vị.
Ví như, này Bhumija, có một người cần
lửa, tìm cầu lửa, đi chỗ này chỗ kia để tìm lửa, sau khi mang phần trên
đồ quay lửa rồi cọ xát với một khúc cây khô không có nhựa. Nếu người
ấy có ước nguyện, đem phần phía trên đồ quay lửa rồi cọ xát với một
khúc cây khô không có nhựa, thời người ấy lấy được lửa. Nếu người
ấy không có ước nguyện; nếu người ấy có và không có ước nguyện; nếu
người ấy không có và không không có ước nguyện, đem phần phía trên đồ
quay lửa rồi cọ xát với một khúc cây khô không có nhựa, thời người ấy
lấy được lửa. Vì cớ sao? Này Bhumija, đây là phương pháp để lấy được
lửa. Cũng vậy, này Bhumija, những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào có chánh
kiến... chánh định. Nếu họ có ước nguyện, hành Phạm hạnh, thời họ
đạt được quả vị; nếu họ không có ước nguyện; có và không có ước
nguyện, nếu họ không có và không không có ước nguyện, hành Phạm hạnh,
thời họ đạt kết quả vị. Vì sao vậy? Này Bhumija, đây là phương pháp
đưa đến quả vị.
Nếu bốn ví dụ này, này Bhumija, khởi
đến từ nơi Ông cho vương tử Jayasena, thời vương tử Jayasena tự
nhiên tin tưởng Ông, và khi đã tin tưởng, sẽ hành động đúng theo cung
cách một người đã tin tưởng Ông.
-- Nhưng làm sao, bạch Thế Tôn, bốn ví
dụ này khởi đến từ nơi con cho vương tử Jayasena, khởi lên một cách
tự nhiên, từ trước chưa từng được nghe, như Thế Tôn được?
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn
giả Bhumja hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ Kheo
Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 126 [tóm tắt]
Kinh Phù-Di
(Bhūmija Sutta)
(M.iii, 138)
Vương tử Jayasena hỏi Tôn giả Bhūmija về quan
điểm của một số Sa-môn, Bà-la-môn như sau: “Nếu có nguyện vọng
hành Phạm hạnh thời không đạt quả vị, không có nguyện vọng hành
Phạm hạnh, không đạt quả vị, có và không (khi muốn thế này, khi
muốn khác) nguyện vọng, không được quả vị, không có, không không
có nguyện vọng, cũng không đạt quả vị”. Vương tử muốn biết Thế
Tôn có ý kiến gì về quan điểm ấy. Bhūmija trả lời, có nghe đức
Thế Tôn nói: “Nếu có nguyện vọng hành Phạm hạnh không chánh đáng,
không đạt quả vị, không có nguyện vọng, cũng có cũng không, không
có không không nguyện vọng, mà hành Phạm hạnh không chánh đáng
thời không đạt quả vị. Còn nếu hành Phạm hạnh chánh đáng thì dù
có... không không nguyện vọng, đều đạt được quả vị”.
Đức Phật ấn khả cho sự trả lời ấy là đúng,
không xuyên tạc Ngài và giải thích thêm thế nào là Phạm hạnh
chánh đáng và không chánh đáng. Không chánh đáng là hành Phạm hạnh
mà có tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh
tấn, tà niệm, tà định. Còn hành Phạm hạnh chánh đáng là có chánh
kiến, chánh tư duy... chánh định. Thế Tôn nêu lên bốn ví dụ, như
người ép cát thì dù muốn hay không, vừa muốn vừa không, không
muốn cũng không không muốn có dầu, người ấy cũng vẫn không có
dầu. Như người vắt sữa từ sừng bò, thì dù muốn hay không... cũng
không có sữa. Như người khuấy nước lã, thì có muốn, không muốn
hay vừa có vừa không, không có cũng không không có muốn lấy sanh
tô, cũng không có sanh tô. Như người cọ xát hai que củi ướt có nhựa
để lấy lửa, thì có cầu, không cầu, vừa có vừa không... cũng không
có lửa. Bốn ví dụ này là tỷ dụ cho trường hợp Phạm hạnh không
chánh đáng, sẽ không đắc quả, dù muốn hay không muốn đắc. Vì đó
không phải là phương pháp đạt quả vị.
Ngược lại, hành Phạm hạnh chánh đáng, được
ví với người ép hột dầu để lấy dầu, vắt sữa từ vú bò cái,
khuấy lạc thành sanh tô, cọ xát hai thanh củi khô để lấy lửa. Dù
có ước, không ước, vừa có vừa không, không có cũng không không
có ước nguyện, vị ấy vẫn được lửa. Vì đó chính là phương pháp
đạt quả vị.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy, Tôn giả Bhūmija
hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 126 [dàn ý]
Kinh Phù-Di
(Bhūmija
Sutta)
(M.iii, 138)
A. Duyên khởi:
Vương tử Jayasena
trình bày với Tôn giả Bhūmija rằng theo lý thuyết của một số Sa-môn, Bà-la-môn
có nguyện vọng hay không có nguyện vọng, hành phạm hạnh đều không có kết quả.
Tôn giả Bhmija trả lời, theo Thế Tôn dạy, có nguyện vọng hay không có nguyện vọng,
hành phạm hạnh không có chánh đáng không đạt được quả vị. Dù có hay không có
nguyện vọng, hành phạm hạnh có chánh đáng đạt được quả vị. Tôn giả Bhūmija tường
trình sự việc lên Thế Tôn, hỏi Thế Tôn câu trả lời của mình có đúng pháp hay
không, và Thế Tôn trả lời với bài kinh này.
B. Chánh kinh:
i.
Thế Tôn xác nhận câu trả lời của Tôn giả Bhūmija là đúng pháp.
ii.
Thế Tôn xác nhận, Sa-môn, Bà-la-môn nào có tà kiến cho đến có tà định,
dù có nguyện vọng hay không, đều không đạt được quả vị, vì đây không phải là
phương pháp để đạt được quả vị.
iii.
Ví dụ dẫn chứng thứ nhất: Người đi tìm dầu bỏ cát vào thùng và tưới nước,
dù có ước nguyện hay không có ước nguyện, người ấy không lấy được dầu.
iv.
Ví dụ dẫn chứng thứ hai: Một người cần sữa nắm sừng con bò để vắt sữa,
dù có ước nguyện hay không, nó không lấy được sữa.
v.
Ví dụ dẫn chứng thứ ba: Một người cần sanh tô, đổ nước vào ghè, lấy que
khuấy đánh, dù có ước nguyện hay không ước nguyện, nó không lấy được sanh tô.
vi.
Ví dụ dẫn chứng thứ tư: Một người đem phần trên đồ quay lửa cọ xát với
khúc que ướt và có nhựa, dù có ước nguyện hay không ước nguyện, nó không lấy được
lửa.
vii.
Thế Tôn xác nhận, Sa-môn, Bà-la-môn nào có chánh kiến, chánh định, dù có
ước nguyện hay không có ước nguyện, đều đạt được quả vị, vì đây là phương pháp
đạt được quả vị.
viii.
Thế Tôn dùng 4 ví dụ để xác chứng.
C. Kết luận:
Tôn giả Bhūmija hoan
hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 126 [toát yếu]
Kinh Phù-Di
(Bhūmija
Sutta)
(M.iii, 138)
I. Toát yếu
The
Buddha brings forward a series of similes to illustrate the natural
fruitfulness of the Noble Eightfold Path.
Phật
đưa ra một loạt ví dụ để hiển thị hiệu quả tự nhiên của đạo Bát
chánh.
II. Tóm tắt
Vương tử Jayasena hỏi tôn giả
Bhūmija lập trường của Phật giáo về việc tu phạm hạnh, vì ông nghe
các ngoại đạo cho rằng tu phạm hạnh không đem lại kết quả, dù
người tu có ước nguyện hay không [2], hoặc vừa có vừa không, hay
không có không không. Tôn giả đáp vấn đề là ở chỗ tu phạm hạnh
cách nào, chứ không phải do có ước nguyện hay không ước nguyện.
Nếu tu phạm hạnh theo tám tà là tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà
nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm và tà định, thì phạm hạnh
không kết quả. Ngược lại, nếu tu theo tám chánh đạo thì phạm hạnh
có kết quả, dù ước nguyện hay không. Vương tử khen lập trường
Phật giáo là chính đáng hơn cả, và cúng dường cho tôn giả
Bhūmija. Sau đó tôn giả đến thỉnh vấn Phật.
Phật xác nhận ông đã khéo trả
lời, không xuyên tạc giáo lý của Ngài, và bổ túc với bốn ví dụ
về chánh đạo và tà đạo. Theo tám tà là phương pháp sai, thì phạm
hạnh không có kết quả, như ép cát để tìm dầu, vắt sừng bò để
lấy sữa, khuấy nước lã để làm bơ, và dùng cây tươi để lấy lửa.
Theo tám chính, phương pháp đúng, thì tu phạm hạnh có kết quả. Như
ép hột có dầu để tìm dầu, vắt sữa từ vú bò cái, khuấy sữa để
làm bơ, và dùng cây khô để nhóm lửa. Tôn giả Bhāmija rất sung
sướng với bốn ví dụ vừa được nghe lần đầu.
III. Chú giải
1. MA: tôn giả Phù-di là cháu của thái tử
Jayasena.
2. Asam karitvà: Nếu người ta làm một ước nguyện, khởi
lên một mong mỏi, chờ đợi. Những sa môn bà-la-môn có quan điểm này
chắc phải là những người theo thuyết hoài nghi hoặc đoạn diệt luận.
IV. Pháp số
(không có)
V. Kệ tụng
‘Vương tử
Jayasena
Hỏi tôn giả Phù-di
Lập trường của Phật giáo
Hỏi tôn giả Phù-di
Lập trường của Phật giáo
Về việc tu phạm hạnh.
Có ngoại đạo cho rằng
Tu phạm hạnh vô ích
Không có kết quả gì
Dù có nguyện hay không
Dù có nguyện hay không
Hoặc vừa có vừa không
Hoặc không có không không.
‘Tôn giả
trả lời ông:
Vấn đề là ở chỗ
Tu phạm hạnh cách nào
Vấn đề là ở chỗ
Tu phạm hạnh cách nào
Chứ không do mong ước.
Nếu tu phạm hạnh sai
Nghĩa là theo tám tà
Tà kiến, tà tư duy
Tà ngữ, tà nghiệp, mạng
Tà kiến, tà tư duy
Tà ngữ, tà nghiệp, mạng
Tà tinh
tấn, niệm, định
Phạm hạnh không ích gì.
Ngược lại
theo tám chính
Thì phạm
hạnh kết quả
Dù ước nguyện hay không.
Dù ước nguyện hay không.
‘Vương tử rất hài lòng:
Nếu đây
lời Phật dạy
Thì Ngài
vượt hơn hết
Các sa môn hiện nay.
Các sa môn hiện nay.
‘Tôn giả thỉnh vấn
Phật Cuộc
đối đáp vừa rồi
Phật khen
khéo trả lời
Không
xuyên tạc giáo lý
Và Thế
Tôn bổ túc
Với bốn
mẩu ví dụ
Hiển thị tà, chánh đạo
Hiển thị tà, chánh đạo
Tám tà phương
pháp sai
Phạm hạnh
không kết quả
Như ép
cát tìm dầu
Vắt sừng
bò lấy sữa
Khuấy nước lã làm bơ
Dùng cây tươi nhóm lửa.
Tám chính, phương pháp đúng
Khuấy nước lã làm bơ
Dùng cây tươi nhóm lửa.
Tám chính, phương pháp đúng
Phạm hạnh
sẽ trổ bông:
Ép hột dầu tìm dầu
Vắt vú bò lấy sữa
Khuấy sữa để làm bơ
Dùng cây khô nhóm lửa.
Ép hột dầu tìm dầu
Vắt vú bò lấy sữa
Khuấy sữa để làm bơ
Dùng cây khô nhóm lửa.
Tôn giả Bhū-mi-ja
Vui mừng với ví dụ
Vui mừng với ví dụ
Vừa được nghe lần đầu.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
126.
Bhūmijasuttaṃ [Mūla]
223. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ samayaṃ Bhagavā rājagahe viharati veḷuvane
kalandakanivāpe. Atha kho āyasmā bhūmijo pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā
pattacīvaramādāya yena jayasenassa rājakumārassa nivesanaṃ tenupasaṅkami upasaṅkamitvā
paññatte āsane nisīdi. Atha kho jayaseno rājakumāro yenāyasmā bhūmijo tenupasaṅkami
upasaṅkamitvā āyasmatā bhūmijena saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ
vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho jayaseno rājakumāro
āyasmantaṃ bhūmijaṃ etadavoca : ''santi, bho bhūmija, eke samaṇabrāhmaṇā evaṃvādino evaṃdiṭṭhino : 'āsañcepi karitvā
brahmacariyaṃ caranti, abhabbā [carati, abhabbo (sī. pī.) evamuparipi
ekavacaneneva dissati] phalassa adhigamāya anāsañcepi [āsañca anāsañca cepi (aṭṭha0)]
karitvā brahmacariyaṃ caranti, abhabbā phalassa adhigamāya āsañca anāsañcepi
karitvā brahmacariyaṃ caranti, abhabbā phalassa adhigamāya nevāsaṃ nānāsañcepi
karitvā brahmacariyaṃ caranti, abhabbā phalassa adhigamāyāti. Idha bhoto
bhūmijassa satthā kiṃvādī [kiṃvādī kiṃdiṭṭhī (syā. kaṃ. ka.)] kimakkhāyīti?
''na kho metaṃ, rājakumāra, bhagavato sammukhā sutaṃ, sammukhā paṭiggahitaṃ. Ṭhānañca
kho etaṃ vijjati yaṃ Bhagavā evaṃ
byākareyya : 'āsañcepi karitvā ayoniso brahmacariyaṃ caranti, abhabbā phalassa
adhigamāya anāsañcepi karitvā ayoniso
brahmacariyaṃ caranti, abhabbā phalassa adhigamāya āsañca anāsañcepi karitvā
ayoniso brahmacariyaṃ caranti, abhabbā phalassa adhigamāya nevāsaṃ nānāsañcepi
karitvā ayoniso brahmacariyaṃ caranti, abhabbā phalassa adhigamāya. Āsañcepi
karitvā yoniso brahmacariyaṃ caranti, bhabbā phalassa adhigamāya anāsañcepi karitvā yoniso brahmacariyaṃ
caranti, bhabbā phalassa adhigamāya āsañca anāsañcepi karitvā yoniso
brahmacariyaṃ caranti, bhabbā phalassa adhigamāya nevāsaṃ nānāsañcepi karitvā
yoniso brahmacariyaṃ caranti, bhabbā phalassa adhigamāyāti. Na kho me taṃ,
rājakumāra, bhagavato sammukhā sutaṃ, sammukhā paṭiggahitaṃ. Ṭhānañca kho etaṃ
vijjati yaṃ Bhagavā evaṃ
byākareyyāti. ''Sace kho bhoto bhūmijassa satthā evaṃvādī [evaṃvādī evaṃdiṭṭhī
(syā. kaṃ. ka.)] evamakkhāyī, addhā bhoto bhūmijassa satthā sabbesaṃyeva
puthusamaṇabrāhmaṇānaṃ muddhānaṃ [buddhānaṃ (ka.) muddhānantimuddhaṃ,
matthakanti attho] maññe āhacca tiṭṭhatīti . Atha kho jayaseno rājakumāro
āyasmantaṃ bhūmijaṃ sakeneva thālipākena parivisi.
224. Atha kho āyasmā bhūmijo pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto yena Bhagavā tenupasaṅkami upasaṅkamitvā
bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā bhūmijo
bhagavantaṃ etadavoca : ''idhāhaṃ, bhante, pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya
yena jayasenassa rājakumārassa nivesanaṃ tenupasaṅkamiṃ upasaṅkamitvā paññatte
āsane nisīdiṃ. Atha kho, bhante, jayaseno rājakumāro yenāhaṃ tenupasaṅkami
upasaṅkamitvā mayā saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā
ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho, bhante, jayaseno rājakumāro maṃ
etadavoca : 'santi, bho bhūmija, eke samaṇabrāhmaṇā evaṃvādino evaṃdiṭṭhino :
āsañcepi karitvā brahmacariyaṃ caranti, abhabbā phalassa adhigamāya anāsañcepi
karitvā - pe - āsañca anāsañcepi karitvā brahmacariyaṃ caranti, abhabbā
phalassa adhigamāya nevāsaṃ nānāsañcepi
karitvā brahmacariyaṃ caranti, abhabbā phalassa adhigamāyāti. 'Idha
bhoto bhūmijassa satthā kiṃvādī kimakkhāyīti? evaṃ vutte ahaṃ, bhante, jayasenaṃ
rājakumāraṃ etadavocaṃ : 'na kho me taṃ, rājakumāra, bhagavato sammukhā sutaṃ,
sammukhā paṭiggahitaṃ. Ṭhānañca kho etaṃ vijjati yaṃ Bhagavā evaṃ byākareyya : āsañcepi karitvā ayoniso brahmacariyaṃ
caranti, abhabbā phalassa adhigamāya anāsañcepi karitvā ayoniso brahmacariyaṃ
caranti, abhabbā phalassa adhigamāya āsañca anāsañcepi karitvā ayoniso
brahmacariyaṃ caranti, abhabbā phalassa adhigamāya nevāsaṃ nānāsañcepi karitvā
ayoniso brahmacariyaṃ caranti, abhabbā phalassa adhigamāya. Āsañcepi karitvā
yoniso brahmacariyaṃ caranti, bhabbā phalassa adhigamāya anāsañcepi karitvā -
pe - āsañca anāsañcepi karitvā - pe - nevāsaṃ nānāsañcepi karitvā yoniso
brahmacariyaṃ caranti, bhabbā phalassa adhigamāyāti. Na kho me taṃ, rājakumāra,
bhagavato sammukhā sutaṃ, sammukhā paṭiggahitaṃ. Ṭhānañca kho etaṃ vijjati yaṃ Bhagavā evaṃ byākareyyāti. 'Sace bhoto
bhūmijassa satthā evaṃvādī evamakkhāyī, addhā bhoto bhūmijassa satthā sabbesaṃyeva
puthusamaṇabrāhmaṇānaṃ muddhānaṃ maññe āhacca tiṭṭhatīti. 'Kaccāhaṃ, bhante,
evaṃ puṭṭho evaṃ byākaramāno vuttavādī ceva bhagavato homi, na ca bhagavantaṃ
abhūtena abbhācikkhāmi, dhammassa cānudhammaṃ byākaromi, na ca koci
sahadhammiko vādānuvādo gārayhaṃ ṭhānaṃ āgacchatīti? ''taggha tvaṃ, bhūmija, evaṃ puṭṭho evaṃ byākaramāno
vuttavādī ceva me hosi, na ca maṃ abhūtena abbhācikkhasi, dhammassa cānudhammaṃ
byākarosi, na ca koci sahadhammiko vādānuvādo gārayhaṃ ṭhānaṃ āgacchati. Ye hi
keci, bhūmija, samaṇā vā brāhmaṇā vā micchādiṭṭhino micchāsaṅkappā
micchāvācā micchākammantā micchāājīvā
micchāvāyāmā micchāsatī micchāsamādhino te āsañcepi karitvā brahmacariyaṃ
caranti, abhabbā phalassa adhigamāya anāsañcepi karitvā brahmacariyaṃ caranti,
abhabbā phalassa adhigamāya āsañca anāsañcepi karitvā brahmacariyaṃ caranti,
abhabbā phalassa adhigamāya nevāsaṃ nānāsañcepi karitvā brahmacariyaṃ caranti,
abhabbā phalassa adhigamāya. Taṃ kissa hetu? ayoni hesā, bhūmija, phalassa adhigamāya.
225. ''Seyyathāpi, bhūmija, puriso telatthiko telagavesī telapariyesanaṃ
caramāno vālikaṃ doṇiyā ākiritvā udakena paripphosakaṃ paripphosakaṃ pīḷeyya. Āsañcepi
karitvā vālikaṃ doṇiyā ākiritvā udakena paripphosakaṃ paripphosakaṃ pīḷeyya,
abhabbo telassa adhigamāya anāsañcepi karitvā vālikaṃ doṇiyā ākiritvā udakena
paripphosakaṃ paripphosakaṃ pīḷeyya, abhabbo telassa adhigamāya āsañca
anāsañcepi karitvā vālikaṃ doṇiyā ākiritvā udakena paripphosakaṃ paripphosakaṃ
pīḷeyya, abhabbo telassa adhigamāya nevāsaṃ nānāsañcepi karitvā vālikaṃ doṇiyā
ākiritvā udakena paripphosakaṃ paripphosakaṃ pīḷeyya, abhabbo telassa
adhigamāya. Taṃ kissa hetu? ayoni hesā, bhūmija, telassa adhigamāya. Evameva
kho, bhūmija, ye hi keci samaṇā vā brāhmaṇā vā micchādiṭṭhino micchāsaṅkappā
micchāvācā micchākammantā micchāājīvā micchāvāyāmā micchāsatī micchāsamādhino
te āsañcepi karitvā brahmacariyaṃ caranti, abhabbā phalassa adhigamāya anāsañcepi
karitvā brahmacariyaṃ caranti, abhabbā phalassa adhigamāya āsañca anāsañcepi
karitvā brahmacariyaṃ caranti, abhabbā phalassa adhigamāya nevāsaṃ nānāsañcepi
karitvā brahmacariyaṃ caranti, abhabbā phalassa adhigamāya. Taṃ kissa hetu? ayoni hesā, bhūmija, phalassa
adhigamāya. ''Seyyathāpi , bhūmija, puriso khīratthiko khīragavesī
khīrapariyesanaṃ caramāno gāviṃ taruṇavacchaṃ visāṇato āviñcheyya [āviñjeyya (sī. syā. kaṃ. pī.)]. Āsañcepi
karitvā gāviṃ taruṇavacchaṃ visāṇato āviñcheyya, abhabbo khīrassa adhigamāya
anāsañcepi karitvā - pe - āsañca anāsañcepi karitvā - pe - nevāsaṃ nānāsañcepi karitvā gāviṃ taruṇavacchaṃ visāṇato
āviñcheyya, abhabbo khīrassa adhigamāya. Taṃ kissa hetu? ayoni hesā, bhūmija,
khīrassa adhigamāya. Evameva kho, bhūmija, ye hi keci samaṇā vā brāhmaṇā vā
micchādiṭṭhino - pe - micchāsamādhino te āsañcepi karitvā brahmacariyaṃ
caranti, abhabbā phalassa adhigamāya anāsañcepi karitvā - pe - āsañca
anāsañcepi karitvā - pe - nevāsaṃ nānāsañcepi karitvā brahmacariyaṃ caranti,
abhabbā phalassa adhigamāya. Taṃ kissa hetu? ayoni hesā, bhūmija, phalassa
adhigamāya.
226. ''Seyyathāpi, bhūmija, puriso navanītatthiko navanītagavesī
navanītapariyesanaṃ caramāno udakaṃ kalase āsiñcitvā matthena [manthena (sī.),
mattena (ka.)] āviñcheyya. Āsañcepi karitvā udakaṃ kalase āsiñcitvā matthena
āviñcheyya, abhabbo navanītassa adhigamāya anāsañcepi karitvā - pe - āsañca
anāsañcepi karitvā - pe - nevāsaṃ nānāsañcepi karitvā udakaṃ kalase āsiñcitvā
matthena āviñcheyya, abhabbo navanītassa adhigamāya. Taṃ kissa hetu? ayoni
hesā, bhūmija, navanītassa adhigamāya. Evameva kho, bhūmija, ye hi keci samaṇā
vā brāhmaṇā vā micchādiṭṭhino - pe - micchāsamādhino te āsañcepi karitvā
brahmacariyaṃ caranti, abhabbā phalassa
adhigamāya anāsañcepi karitvā - pe - āsañca anāsañcepi karitvā - pe - nevāsaṃ
nānāsañcepi karitvā brahmacariyaṃ caranti, abhabbā phalassa adhigamāya. Taṃ
kissa hetu? ayoni hesā, bhūmija, phalassa adhigamāya.
''Seyyathāpi, bhūmija, puriso aggitthiko [aggatthiko
(sī.)] aggigavesī aggipariyesanaṃ caramāno allaṃ kaṭṭhaṃ sasnehaṃ uttarāraṇiṃ ādāya abhimantheyya [abhimattheyya (syā. kaṃ.
pī. ka.)]. Āsañcepi karitvā allaṃ kaṭṭhaṃ sasnehaṃ uttarāraṇiṃ ādāya
abhimantheyya, abhabbo aggissa adhigamāya anāsañcepi karitvā - pe - āsañca
anāsañcepi karitvā - pe - nevāsaṃ nānāsañcepi karitvā allaṃ kaṭṭhaṃ sasnehaṃ
uttarāraṇiṃ ādāya abhimantheyya, abhabbo aggissa adhigamāya. Taṃ kissa hetu?
ayoni hesā, bhūmija, aggissa adhigamāya. Evameva kho, bhūmija, ye hi keci samaṇā
vā brāhmaṇā vā micchādiṭṭhino - pe -
micchāsamādhino te āsañcepi karitvā
brahmacariyaṃ caranti, abhabbā phalassa adhigamāya anāsañcepi karitvā -
pe - āsañca anāsañcepi karitvā - pe - nevāsaṃ nānāsañcepi karitvā brahmacariyaṃ
caranti, abhabbā phalassa adhigamāya. Taṃ kissa hetu? ayoni hesā, bhūmija, phalassa
adhigamāya. Ye hi keci, bhūmija, samaṇā vā brāhmaṇā vā sammādiṭṭhino sammāsaṅkappā
sammāvācā sammākammantā sammāājīvā sammāvāyāmā sammāsatī sammāsamādhino te
āsañcepi karitvā brahmacariyaṃ caranti,
bhabbā phalassa adhigamāya anāsañcepi karitvā brahmacariyaṃ caranti, bhabbā
phalassa adhigamāya āsañca anāsañcepi karitvā brahmacariyaṃ caranti, bhabbā
phalassa adhigamāya nevāsaṃ nānāsañcepi karitvā brahmacariyaṃ caranti, bhabbā
phalassa adhigamāya. Taṃ kissa hetu? yoni hesā, bhūmija, phalassa adhigamāya.
227. ''Seyyathāpi, bhūmija, puriso telatthiko telagavesī telapariyesanaṃ
caramāno tilapiṭṭhaṃ doṇiyā ākiritvā udakena paripphosakaṃ paripphosakaṃ pīḷeyya.
Āsañcepi karitvā tilapiṭṭhaṃ doṇiyā ākiritvā udakena paripphosakaṃ paripphosakaṃ
pīḷeyya, bhabbo telassa adhigamāya anāsañcepi karitvā - pe - āsañca anāsañcepi
karitvā - pe - nevāsaṃ nānāsañcepi karitvā tilapiṭṭhaṃ doṇiyā ākiritvā udakena
paripphosakaṃ paripphosakaṃ pīḷeyya, bhabbo telassa adhigamāya. Taṃ kissa hetu?
yoni hesā, bhūmija, telassa adhigamāya. Evameva kho, bhūmija, ye hi keci samaṇā
vā brāhmaṇā vā sammādiṭṭhino - pe - sammāsamādhino te āsañcepi karitvā
brahmacariyaṃ caranti, bhabbā phalassa
adhigamāya anāsañcepi karitvā - pe - āsañca anāsañcepi karitvā - pe - nevāsaṃ
nānāsañcepi karitvā brahmacariyaṃ caranti, bhabbā phalassa adhigamāya. Taṃ
kissa hetu? yoni hesā, bhūmija, phalassa adhigamāya.
''Seyyathāpi, bhūmija, puriso khīratthiko khīragavesī
khīrapariyesanaṃ caramāno gāviṃ taruṇavacchaṃ
thanato āviñcheyya. Āsañcepi karitvā gāviṃ taruṇavacchaṃ thanato āviñcheyya,
bhabbo khīrassa adhigamāya anāsañcepi karitvā - pe - āsañca anāsañcepi karitvā
- pe - nevāsaṃ nānāsañcepi karitvā gāviṃ taruṇavacchaṃ thanato āviñcheyya,
bhabbo khīrassa adhigamāya. Taṃ kissa hetu? yoni hesā, bhūmija, khīrassa adhigamāya. Evameva kho, bhūmija, ye hi keci samaṇā vā brāhmaṇā
vā sammādiṭṭhino - pe - sammāsamādhino te āsañcepi karitvā - pe - anāsañcepi
karitvā - pe - āsañca anāsañcepi karitvā - pe - nevāsaṃ nānāsañcepi karitvā
brahmacariyaṃ caranti, bhabbā phalassa adhigamāya. Taṃ kissa hetu? yoni hesā,
bhūmija, phalassa adhigamāya.
228. ''Seyyathāpi, bhūmija, puriso navanītatthiko navanītagavesī
navanītapariyesanaṃ caramāno dadhiṃ kalase āsiñcitvā matthena āviñcheyya.
Āsañcepi karitvā dadhiṃ kalase āsiñcitvā matthena āviñcheyya, bhabbo
navanītassa adhigamāya anāsañcepi karitvā... āsañca anāsañcepi karitvā...
nevāsaṃ nānāsañcepi karitvā dadhiṃ kalase āsiñcitvā matthena āviñcheyya, bhabbo
navanītassa adhigamāya. Taṃ kissa hetu? yoni hesā, bhūmija, navanītassa
adhigamāya. Evameva kho, bhūmija, ye hi keci samaṇā vā brāhmaṇā vā sammādiṭṭhino
- pe - sammāsamādhino te āsañcepi karitvā brahmacariyaṃ caranti, bhabbā
phalassa adhigamāya anāsañcepi karitvā... āsañca anāsañcepi karitvā ... nevāsaṃ
nānāsañcepi karitvā brahmacariyaṃ caranti, bhabbā phalassa adhigamāya. Taṃ
kissa hetu? yoni hesā, bhūmija, phalassa adhigamāya. ''Seyyathāpi, bhūmija,
puriso aggitthiko aggigavesī aggipariyesanaṃ caramāno sukkhaṃ kaṭṭhaṃ koḷāpaṃ
uttarāraṇiṃ ādāya abhimantheyya ( ) [(bhabbo aggissa adhigamāya) (sabbattha)]
āsañcepi karitvā... anāsañcepi karitvā..
āsañca anāsañcepi karitvā... nevāsaṃ nānāsañcepi karitvā sukkha kaṭṭhaṃ koḷāpaṃ
uttarāraṇiṃ ādāya abhimantheyya, bhabbo aggissa adhigamāya. Taṃ kissa hetu?
yoni hesā, bhūmija, aggissa adhigamāya. Evameva kho, bhūmija, ye hi keci samaṇā
vā brāhmaṇā vā sammādiṭṭhino - pe - sammāsamādhino te āsañcepi karitvā
brahmacariyaṃ caranti, bhabbā phalassa adhigamāya anāsañcepi karitvā
brahmacariyaṃ caranti, bhabbā phalassa adhigamāya āsañca anāsañcepi karitvā
brahmacariyaṃ caranti, bhabbā phalassa adhigamāya nevāsaṃ nānāsañcepi karitvā
brahmacariyaṃ caranti, bhabbā phalassa adhigamāya. Taṃ kissa hetu? yoni hesā,
bhūmija, phalassa adhigamāya. ''Sace
kho taṃ, bhūmija, jayasenassa rājakumārassa imā catasso upamā paṭibhāyeyyuṃ
anacchariyaṃ te jayaseno rājakumāro pasīdeyya, pasanno ca te pasannākāraṃ
kareyyāti. ''Kuto pana maṃ, bhante, jayasenassa
rājakumārassa imā catasso upamā paṭibhāyissanti anacchariyā pubbe
assutapubbā, seyyathāpi bhagavantanti? idamavoca Bhagavā. Attamano āyasmā bhūmijo bhagavato bhāsitaṃ abhinandīti.
Bhūmijasuttaṃ niṭṭhitaṃ chaṭṭhaṃ.
-ooOoo-
126.
Bhūmijasuttavaṇṇanā [Atthakathā]
223. Evaṃ me sutanti bhūmijasuttaṃ. Tattha bhūmijoti ayaṃ thero
jayasenarājakumārassa mātulo. Āsañca
anāsañcāti kālena āsaṃ kālena anāsaṃ. Sakena thālipākenāti
pakatipavattāya bhikkhāya attano niṭṭhitabhattatopi bhattena parivisi. Sesaṃ
sabbattha uttānamevāti.
Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Bhūmijasuttavaṇṇanā
niṭṭhitā.
-ooOoo-
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 1. Ước muốn (àsà) trong bài kinh nầy giống hay khác với dục thần túc? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 2. Người tu Phật có nên phát nguyện để thành tựu quả chứng nầy, quả chứng kia chăng? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 3. TT Giác Đẳng đúc kết phần thảo luận
Thảo luận 1. Ước muốn (àsà) trong bài kinh nầy giống hay khác với dục thần túc? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 2. Người tu Phật có nên phát nguyện để thành tựu quả chứng nầy, quả chứng kia chăng? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 3. TT Giác Đẳng đúc kết phần thảo luận
III Trắc Nghiệm
Trắc nghiệm 1. Ý niệm nào sau đây được xem phù hợp với Phật Pháp theo bài kinh hôm nay?
A. Ước muốn không có giá trị gì trong cuộc sống /
B. Trong sự tu tập ước muốn đơn thuần không đủ mà phải có sự thực hành đúng cách /
C. Không có ước muốn thì không có thành tựu /
D. Sự tu chứng tuỳ thuộc ở hên xui
TT Pháp Đăng cho đáp án trắc nghiệm 1: B
Trắc nghiệm 2. Điều nào sau đây được tìm thấy trong tam tạng kinh điển?
A. Ý muốn đủ mạnh hay dục thần túc là một trong những yếu tố để đắc chứng thiền định và đạo quả /
B. Tất cả những vai trò như thượng thủ thanh văn, thị giả Phật, đệ nhất nam nữ cư sĩ.. đều có sự phát nguyện trong quá khứ /
C. Trong đời sống tu tập cần có những tha thiết cao cả như tha thiết học pháp, tha thiết hành trì pháp… /
D. Cả ba câu trên đều đúng
TT Pháp Tân cho đáp án trắc nghiệm 2 :D
Trắc nghiệm 3. Trong sự phát nguyện thành tựu cứu cánh của sự tu tập thì mô tả nào sau đây được xem là hợp lý?
A. Tu tập để giác ngộ và giải thoát (nói cách khác là xoá tan vô minh và chấm dứt đau khổ) /
B. Tu để đạt đến niết bàn một cảnh giới vô cùng hạnh phúc/
C. Tu tập để đắc thành quả vị nào đó mà mình thấy là đẹp theo lý tưởng /
D. Tu tập để mình không bị "bỏ lại sau lưng"
Đáp án trắc nghiệm 3: A
No comments:
Post a Comment