Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Giác Đẳng
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 6/5/2020
118.
Kinh Nhập Tức, Xuất Tức Niệm
(Kinh Quán
Niệm Hơi Thở) (Anàpànasati Sutta)
Anàpànasati Sutta có
nghĩa là kinh dạy về pháp niệm hơi thở ra thở vào. Bản chữ Hán gọi là Kinh Nhập
Tức Xuất Tức Niệm. Ngoài ra, trong trường hợp khác đặc biệt, các dịch giả thời
xưa không dịch mà chỉ phiên âm là Kinh An Ban Thủ Ý. Nội dung kinh nầy chứa đựng nhiều điểm quan
trọng về phép niệm hơi thở - được xem là sự thực hành căn bản trong tu tập tứ
niệm xứ.
1077. Thời cực thịnh
của giáo pháp
Thành Sàvatthi, kinh đô
xứ Kosala. Khi bài kinh nầy được giảng dạy thì ngoài sự có mặt của Bậc Đạo Sư còn có chư vị thánh đệ tử ưu tú là
những bậc giáo thọ của Tăng chúng. Bên ngoài còn có sự hộ pháp đắc lực của những
nam, nữ cư sĩ bậc nhất. Có thể gọi đó là thời kỳ hoàng kim của giáo pháp.
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn
ở Savatthi (Xá-vệ), tại Ðông Viên (Pubbarama), giảng đường Lộc Mẫu
(Migaramatupasade), cùng với rất nhiều Thượng tọa có thời danh, có danh
xưng như Tôn giả Sariputta (Xá-lợi-phất), Tôn giả Mahamoggallana (Ðại
Mục-kiền-liên), Tôn giả Mahakaccayana (Ðại Ca-chiên- diên), Tôn giả
Mahakotthita (Ðại Câu-hy-la), Tôn giả Mahakappina (Ðại Kiếp-tân-na), Tôn
giả Mahacunda (Ðại Thuần-đà), Tôn giả Anuruddha (A-na-luật), Tôn giả
Revata (Ly-bà-đa) và Tôn giả Ananda (A-nan), cùng với nhiều bậc Thượng
tọa đệ tử khác có thời danh, có danh xưng.
Lúc bấy giờ, các
Thượng tọa Tỷ-kheo khuyến giáo, giảng dạy các tân Tỷ-kheo. Một số
Thượng tọa Tỷ- kheo khuyến giáo, giảng dạy mười tân Tỷ-kheo. Một số
Thượng Tọa Tỷ-kheo khuyến giáo, giảng dạy hai mươi tân Tỷ-kheo. Một
số Thượng tọa Tỷ-kheo khuyến giáo, giảng dạy ba mươi tân Tỷ-kheo. Một
số Thượng Tọa Tỷ-kheo khuyến giáo, giảng dạy bốn mươi tân Tỷ-kheo.
Và các tân Tỷ-kheo được các Thượng tọa Tỷ-kheo khuyến giáo, giảng dạy
ý thức rõ ràng những quả vị cao diệu, tiệm thứ, thù thắng đã chứng
đạt.
Lúc bấy giờ Thế
Tôn, vào ngày Bố-tát, ngày rằm, vào đêm trăng tròn sau ngày Tự tứ, đang
ngồi giữa trời với chúng Tỷ-kheo đoanh vây.Thế Tôn nhìn quanh chúng
Tỷ-kheo đang yên lặng, hết sức yên lặng, rồi bảo các Tỷ-kheo:
-- Ta được thỏa
mãn, này các Tỷ-kheo, với đạo lộ này. Tâm ta được thỏa mãn, này các
Tỷ-kheo, với đạo lộ này. Do vậy, này các Tỷ-kheo, hãy tinh tấn hơn
nữa, để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, để chứng đắc những gì
chưa chứng đắc, để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ. Ta sẽ ở đây,
tại Savatthi cho đến tháng tư, lễ Komudi.
Những Tỷ-kheo địa
phương được nghe: "Thế Tôn sẽ ở đây, tại Savatthi, cho đến tháng
tư, lễ Komudi". Các Tỷ-kheo địa phương tụ họp tại Savatthi để
yết kiến Thế Tôn.
Và các Thượng tọa
Tỷ-kheo lại càng khuyến giáo, giảng dạy các tân Tỷ-kheo nhiều hơn nữa.
Một số Thượng tọa Tỷ-kheo khuyến giáo, giảng dạy mười tân Tỷ-kheo.
Một số Thượng tọa Tỷ-kheo khuyến giáo, giảng dạy hai mươi tân Tỷ-kheo,
Một số Thượng tọa Tỷ-kheo khuyến giáo, giảng dạy ba mươi tân
Tỷ-kheo. Một số Thượng tọa Tỷ-kheo khuyến giáo, giảng dạy bốn mươi
tân Tỷ-kheo. Và những tân Tỷ- kheo được các Thượng tọa Tỷ-kheo khuyến
giáo, giảng dạy ý thức rõ ràng những quả vị cao diệu, tiệm thứ, thù
thắng đã chứng đạt.
Lúc bấy giờ Thế
Tôn vào ngày Bố-tát, ngày rằm, vào đêm trăng tròn, ngày lễ Komudi vào tháng
tư, Thế Tôn đang ngồi ngoài trời, chung quanh có chúng Tỷ-kheo đoanh vây.
Rồi Thế Tôn sau khi nhìn xung quanh chúng Tỷ-kheo đang yên lặng, hết sức
yên lặng liền bảo các Tỷ-kheo:
-- Hội chúng này,
này các Tỷ-kheo, không có lời thừa thải. Hội chúng này, này các Tỷ-kheo,
không có lời dư thừa, đã được an trú trong lõi cây thanh tịnh. Chúng
Tỷ-kheo như thế này, này các Tỷ-kheo, hội chúng như thế này, này các
Tỷ-kheo là một hội chúng đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng
được cúng dường, đáng được chấp tay, là phước điền vô thượng ở
đời. Chúng Tỷ-kheo như thế này, này các Tỷ-kheo, hội chúng như thế này,
này các Tỷ-kheo, là một hội chúng bố thí ít, được (phước báo) nhiều,
bố thí nhiều, càng được (phước báo) nhiều; hơn nữa. Chúng Tỷ-kheo
như thế này, này các Tỷ- kheo, hội chúng như thế này, này các Tỷ-kheo,
là một hội chúng khó thấy ở đời. Chúng Tỷ-kheo như thế này, này các
Tỷ-kheo, hội chúng như thế này, này các Tỷ-kheo, là một hội chúng xứng
đáng đi nhiều do tuần (yojana) với một bao lương thực trên vai để đến
yết kiến. Chúng Tỷ-kheo này là như vậy, này các Tỷ-kheo; hội chúng này
là như vậy, này các Tỷ-kheo.
Này các Tỷ-kheo,
trong chúng Tỷ-kheo này, có những Tỷ-kheo là những A-la-hán, các lậu hoặc
đã đoạn trừ, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, gánh nặng đã đặt
xuống, mục đích đã thành đạt, hữu kiết sử đã được đoạn tận, được
giải thoát nhờ chánh trí. Này các Tỷ-kheo, có những bậc Tỷ-kheo như vậy
trong chúng Tỷ-kheo này.
Này các Tỷ-kheo,
trong chúng Tỷ-kheo này, có những Tỷ-kheo đã đoạn trừ năm hạ phần kiết
sử, được hóa sanh, từ ở đấy được nhập Niết-bàn, không còn phải trở
lại đời này nữa. Các bậc Tỷ-kheo như vậy, này các Tỷ-kheo, có mặt
trong chúng Tỷ-kheo này.
Này các Tỷ-kheo,
trong chúng Tỷ-kheo này, này có những Tỷ-kheo đã đoạn trừ ba kiết sử, đã
làm cho muội lược tham, sân, si, là bậc Nhất lai, sau khi sanh vào đời
này một lần nữa, sẽ đoạn tận khổ đau. Các bậc Tỷ-kheo như vậy, này
các Tỷ-kheo, có mặt trong chúng Tỷ-kheo này.
Này các Tỷ-kheo,
trong chúng Tỷ-kheo, có những Tỷ-kheo đã đoạn trừ ba kiết sử, là bậc
Dự lưu, không còn đọa vào ác đạo, chắc chắn sẽ được giác ngộ. Các bậc
Tỷ-kheo như vậy, này các Tỷ-kheo, có mặt trong chúng Tỷ-kheo này.
Này các Tỷ-kheo,
trong chúng Tỷ-kheo này, có những Tỷ-kheo là những vị sống chuyên tâm,
chú tâm, tu tập bốn niệm xứ. Các bậc Tỷ-kheo như vậy, này các Tỷ-kheo,
có mặt trong chúng Tỷ-kheo này. Này các Tỷ-kheo, trong chúng Tỷ-kheo này,
có những Tỷ-kheo là những vị sống chuyên tâm, chú tâm, tu tập bốn chánh
cần. Các bậc Tỷ-kheo như vậy, này các Tỷ-kheo, có mặt trong hội chúng
này. Này các Tỷ- kheo, trong chúng Tỷ-kheo này, có những Tỷ-kheo, sống
chuyên tâm, chú tâm tu tập bốn như ý túc. Các bậc Tỷ-kheo như vậy, này
các Tỷ-kheo, có mặt trong chúng Tỷ-kheo này. Này các Tỷ-kheo, trong chúng
Tỷ-kheo này, có những Tỷ-kheo, sống chuyên tâm, chú tâm tu tập năm căn.
Các bậc Tỷ-kheo như vậy, này các Tỷ-kheo, có mặt trong chúng Tỷ-kheo
này. Này các Tỷ-kheo, trong chúng Tỷ-kheo này, có những Tỷ-kheo, sống
chuyên tâm, chú tâm tu tập năm lực. Các bậc Tỷ-kheo như vậy, này các
Tỷ-kheo, có mặt trong chúng Tỷ-kheo này. Này các Tỷ-kheo, trong chúng
Tỷ-kheo này, có những Tỷ-kheo, sống chuyên tâm, chú tâm tu tập bảy giác
chi. Các bậc Tỷ-kheo như vậy, này các Tỷ-kheo, có mặt trong chúng
Tỷ-kheo này. Này các Tỷ-kheo, trong chúng Tỷ-kheo này có những Tỷ-kheo
sống chuyên tâm, chú tâm tu tập Thánh đạo tám ngành. Các bậc Tỷ-kheo như
vậy, này các Tỷ-kheo, có mặt trong chúng Tỷ-kheo này.
Này các Tỷ-kheo,
trong chúng Tỷ-kheo này, có những Tỷ-kheo, sống chuyên tâm, chú tâm tu tập
từ (tâm). Các bậc Tỷ-kheo như vậy, này các Tỷ-kheo, có mặt trong chúng
Tỷ-kheo này. Này các Tỷ-kheo, trong chúng Tỷ-kheo này, có những Tỷ-kheo,
sống chuyên tâm, chú tâm tu tập bi (tâm). Các bậc Tỷ- kheo như vậy, này
các Tỷ-kheo, có mặt trong chúng Tỷ-kheo này. Này các Tỷ-kheo, trong chúng
Tỷ- kheo này, có những Tỷ-kheo, sống chuyên tâm, chú tâm tu tập hỷ (tâm).
Các bậc Tỷ-kheo như vậy, này các Tỷ-kheo, có mặt trong chúng Tỷ-kheo
này. Này các Tỷ-kheo, trong chúng Tỷ-kheo này, có những Tỷ-kheo, sống
chuyên tâm, chú tâm tu tập xả (tâm). Các bậc Tỷ-kheo như vậy, này các
Tỷ-kheo, có mặt trong chúng Tỷ-kheo này. Này các Tỷ-kheo, trong chúng
Tỷ-kheo này, có những Tỷ-kheo, sống chuyên tâm, chú tâm tu tập bất tịnh.
Các bậc Tỷ-kheo như vậy, này các Tỷ-kheo, có mặt trong chúng Tỷ-kheo
này. Này các Tỷ-kheo, trong chúng Tỷ-kheo này có những Tỷ-kheo sống chuyên
tâm, chú tâm tu tập vô thường tưởng. Các bậc Tỷ-kheo như vậy, này các
Tỷ-kheo, có mặt trong chúng Tỷ-kheo này. Này các Tỷ-kheo, trong chúng
Tỷ-kheo này, có những Tỷ-kheo sống chuyên tâm, chú tâm tu tập nhập tức
xuất tức niệm.
1078. Quán niệm hơi thở
Đức Thế Tôn khẳng định phép niệm hơi thở là căn bản để tu tập bốn niệm xứ,
bảy giác chi và minh giải thoát. Hành giả cần hiểu cách áp dụng thiện xảo phép
niệm hơi thở nầy:
Nhập tức xuất tức
niệm, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến
quả lớn, công đức lớn. Nhập tức xuất tức niệm, được tu tập, làm cho
sung mãn, khiến cho bốn niệm xứ được viên mãn. Bốn niệm xứ được tu tập,
làm cho sung mãn, khiến cho bảy giác chi được viên mãn. Bảy giác chi
được tu tập, làm cho sung mãn, khiến cho minh giải thoát (vijjavimutti)
được viên mãn.
Và này các Tỷ-kheo,
như thế tu tập nhập tức xuất tức niệm? Như thế nào làm cho sung mãn?
Như thế nào là quả lớn, công đức lớn?
Ở đây, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà
trống, và ngồi kiết-già, lưng thẳng và trú niệm trước mặt. Chánh niệm,
vị ấy thở vô; chánh niệm, vị ấy thở ra.
Thở vô dài, vị ấy
biết: "Tôi thở vô dài". Hay thở ra dài, vị ấy biết: "Tôi
thở ra dài". Hay thở vô ngắn, vị ấy biết: "Tôi thở vô
ngắn". Hay thở ra ngắn, vị ấy biết: "Tôi thở ra ngắn".
"Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm
giác cả toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh thân
hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ
thở ra", vị ấy tập.
"Cảm giác hỷ
thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ
thở ra", vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở vô",
vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác
tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành, tôi sẽ
thở vô", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở ra",
vị ấy tập.
"Cảm giác về
tâm, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở
ra", vị ấy tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở vô", vị ấy
tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với
tâm định tĩnh, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm định
tĩnh, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ
thở vô", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở ra",
vị ấy tập.
"Quán vô
thường, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán vô thường, tôi sẽ
thở ra", vị ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ thở vô", vị ấy
tập "Quán ly tham, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán đoạn
diệt, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán đoạn diệt, tôi sẽ
thở ra, vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập.
"Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
Nhập tức xuất tức
niệm, này các Tỷ-kheo, tu tập như vậy, làm cho sung mãn như vậy, được
quả lớn, được công đức lớn.
Và như thế nào, này
các Tỷ-kheo, là nhập tức xuất tức niệm được tu tập? Như thế nào, làm
cho sung mãn, khiến bốn niệm xứ được viên mãn?
Khi nào, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thở vô dài, vị ấy biết: "Tôi thở vô dài". Hay
khi thở ra dài, vị ấy biết "Tôi thở ra dài". Hay thở vô ngắn,
vị ấy biết: "Tôi thở vô ngắn". Hay khi thở ra ngắn, vị ấy
biết: "Tôi thở ra ngắn". "Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ
thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở
ra", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô", vị
ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong
khi tùy quán thân trên thân, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm,
tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, đối
với các thân, Ta nói đây là một, tức là thở vô thở ra. Do vậy, này các
Tỷ-kheo, trong khi tùy quán thân trên thân, vị Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm,
tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.
Khi nào, này các
Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo nghĩ: "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở vô",
vị ấy tập. "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác
lạc thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi
sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở
ra", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành tôi sẽ thở vô", vị ấy
tập. "An tịnh tâm hành tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong khi
tùy quán thọ trên các thọ, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh
giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, đối với
các cảm thọ, Ta nói đây là một, tức là thở vô thở ra. Do vậy này các
Tỷ-kheo, trong khi tùy quán thọ trên các cảm thọ, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm,
tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.
Khi nào, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nghĩ: "Cảm giác tâm, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập.
"Cảm giác tâm, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm hân
hoan, tôi sẽ thở vô", vị ấy tu tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ
thở ra", vị ấy tập. "Với tâm Thiền định, tôi sẽ thở
vô", vị ấy tập. "Với tâm Thiền định, tôi sẽ thở ra", vị
ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập.
"Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong khi tùy
quán tâm trên tâm, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác,
chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, sự tu tập nhập
tức xuất tức niệm không thể đến với kẻ thất niệm, không có tỉnh
giác. Do vậy, này các Tỷ-kheo, trong khi tùy quán tâm trên tâm, Tỷ-kheo trú,
nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.
Khi nào này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nghĩ: "Quán vô thường, tôi sẽ thở vô", vị
ấy tập. "Quán vô thường, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"Quán ly tham.... quán đoạn diệt... quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô",
vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong
khi tùy quán trên các pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo an trú, nhiệt tâm, tỉnh
giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Vị ấy, do đoạn trừ tham
ưu, sau khi thấy với trí tuệ, khéo nhìn (sự vật) với niệm xả ly. Do vậy,
này các Tỷ-kheo, trong khi tùy quán pháp trên các pháp, Tỷ-kheo trú, nhiệt
tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.
Nhập tức xuất tức
niệm, này các Tỷ-kheo, được tu tập như vậy được làm cho sung mãn như
vậy, khiến cho bốn niệm xứ được viên mãn.
1080. Làm viên mãn bày giác chi với
pháp quán niệm hơi thở
Và bốn niệm xứ,
này các Tỷ-kheo, tu tập như thế nào, làm cho sung mãn như thế nào, khiến
cho bảy giác chi được viên mãn?
Này các Tỷ-kheo,
trong khi tùy quán thân trên thân, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh
niệm để chế ngự tham ưu ở đời, trong khi ấy, niệm không hôn mê của
vị ấy được an trú. Trong khi niệm không hôn mê của vi ấy cũng được an
trú, này các Tỷ-kheo, trong khi ấy niệm giác chi được bắt đầu khởi lên
với Tỷ-kheo, trong khi ấy, Tỷ-kheo tu tập niệm giác chi. Trong khi ấy niệm
giác chi được Tỷ-kheo tu tập đi đến viên mãn.
Vị ấy an trú với
chánh niệm như vậy, suy tư, tư duy, thẩm sát pháp ấy với trí tuệ. Này
các Tỷ-kheo, trong khi trú với chánh niệm như vậy, Tỷ-kheo với trí tuệ
suy tư, tư duy, thẩm sát pháp ấy, trong khi ấy trạch pháp giác chi được
bắt đầu khởi lên, với Tỷ-kheo. Trong khi ấy, Tỷ-kheo tu tập trạch pháp
giác chi. Trong khi ấy trạch pháp giác chi được Tỷ-kheo tu tập đi đến
viên mãn.
Trong khi Tỷ-kheo
với trí tuệ suy tư, tư duy, thẩm sát pháp ấy, sự tinh tấn không thụ động
bắt đầu khởi lên với vị Tỷ-kheo. Này các Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo
với trí tuệ suy tư, tư duy, thẩm sát pháp ấy, trong khi ấy sự tinh tấn
không thụ động bắt đầu khởi lên với Tỷ-kheo ấy. Trong khi ấy tinh tấn
giác chi được bắt đầu khởi lên nơi Tỷ-kheo. Trong khi ấy Tỷ-kheo tu tập
tinh tấn giác chi. Trong khi ấy, tinh tấn giác chi được Tỷ-kheo tu tập
đi đến viên mãn.
Hỷ không liên hệ
đến vật chất được khởi lên nơi vị tinh tấn tinh cần. Này các
Tỷ-kheo, trong khi hỷ không liên hệ đến vật chất khởi lên nơi Tỷ-kheo
tinh tấn tinh cần, trong khi ấy hỷ giác chi bắt đầu khởi lên nơi
Tỷ-kheo. Trong khi ấy hỷ giác chi được vị Tỷ-kheo tu tập. Trong khi ấy
hỷ giác chi được Tỷ- kheo tu tập đi đến viên mãn.
Thân của vị ấy
được tâm hoan hỷ trở thành khinh an, tâm cũng được khinh an. Này các
Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo với ý hoan hỷ được thân khinh an, được tâm
cũng khinh an, trong khi ấy, khinh an giác chi bắt đầu khởi lên nơi
Tỷ-kheo. Trong khi ấy, khinh an giác chi được Tỷ-kheo tu tập. Trong khi
ấy, khinh an giác chi được Tỷ-kheo làm cho đi đến sung mãn.
Một vị có thân
khinh an, an lạc, tâm vị ấy được định tĩnh. Này các Tỷ-kheo, trong khi
Tỷ-kheo có thân khinh an, an lạc, tâm vị ấy được định tĩnh, trong khi
ấy định giác chi bắt đầu khởi lên nơi Tỷ-kheo. Trong khi ấy định giác
chi được Tỷ-kheo tu tập. Trong khi ấy định giác chi được Tỷ-kheo làm
cho đi đến sung mãn.
Vị ấy với tâm
định tĩnh như vậy, khéo nhìn (sự vật) với ý niệm xả ly. Này các
Tỷ-kheo, trong khi Tỷ- kheo với tâm định tĩnh như vậy, khéo nhìn (sự vật)
với ý niệm xả ly, trong khi ấy xả giác chi bắt đầu khởi lên nơi
Tỷ-kheo . Trong khi ấy xả giác chi được Tỷ-kheo tu tập. Trong khi ấy
xả giác chi được Tỷ- kheo làm cho đến sung mãn.
Này các Tỷ-kheo,
trong khi quán thọ trên các cảm thọ...
Này các Tỷ-kheo,
trong khi quán tâm trên tâm...
Này các Tỷ-kheo,
trong khi quán pháp trên các pháp, Tỷ-kheo an trú, nhiệt tâm, tỉnh giác,
chánh niệm với mục đích điều phục tham ưu ở đời, trong khi ấy niệm
của vị ấy được an trú, không có hôn mê. Này các Tỷ-kheo, trong khi niệm
của Tỷ-kheo được an trú, không có hôn mê, niệm giác chi trong khi ấy
được bắt đầu khởi lên nơi Tỷ-kheo. Niệm giác chi trong khi ấy được
Tỷ-kheo tu tập. Niệm giác chi trong khi ấy, được Tỷ-kheo làm cho đi đến
sung mãn. Vị ấy an trú với chánh niệm như vậy, suy tư, tư duy, thẩm
sát pháp ấy với trí tuệ. Này các Tỷ-kheo, trong khi an trú với chánh niệm
như vậy, vị ấy suy tư, tư duy, thẩm sát pháp ấy với trí tuệ. Trạch
pháp giác chi trong khi ấy được bắt đầu khởi lên nơi Tỷ-kheo. Trạch
pháp giác chi trong khi ấy được Tỷ-kheo tu tập. Trạch pháp giác chi trong
khi ấy đi đến sung mãn, tinh tấn không thụ động bắt đầu khởi lên nơi
vị ấy. Này các Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo suy tư, tư duy, thẩm sát pháp
ấy với trí tuệ, và tinh tấn không thụ động bắt đầu khởi lên nơi vị
ấy, tinh tấn giác chi trong khi ấy bắt đầu khởi lên nơi vị Tỷ-kheo.
Tinh tấn giác chi được Tỷ-kheo tu tập. Tinh tấn giác chi được Tỷ-kheo
làm cho đi đến sung mãn. Ðối với vị ấy tinh cần tinh tấn, hỷ không liên
hệ đến vật chất khởi lên. Này các Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo tinh cần
tinh tấn và hỷ không liên hệ đến vật chất khởi lên, hỷ giác chi trong
khi ấy bắt đầu được khởi lên nơi Tỷ-kheo. Hỷ giác chi trong khi ấy
được Tỷ-kheo tu tập. Hỷ giác chi trong khi ấy được Tỷ-kheo làm cho đi
đến sung mãn. Thân của vị ấy được tâm hoan hỷ trở thành khinh an, tâm
cũng được khinh an. Này các Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo với ý hoan hỷ
được thân khinh an, được tâm cũng khinh an, trong khi ấy khinh an giác
chi bắt đầu khởi lên nơi Tỷ-kheo. Trong khi ấy khinh an giác chi được
Tỷ-kheo tu tập. Trong khi ấy khinh an giác chi được Tỷ-kheo làm cho đi
đến sung mãn. Một vị có tâm khinh an, an lạc, tâm vị ấy được định
tĩnh. Này các Tỷ-kheo, trong khi vị ấy có thân khinh an, an lạc, tâm vị
ấy được định tĩnh, trong khi ấy định giác chi bắt đầu khởi lên nơi
Tỷ- kheo. Trong khi ấy định giác chi được Tỷ-kheo tu tập. Trong khi ấy
định giác chi được Tỷ-kheo làm cho đi đến sung mãn. Vị ấy với tâm định
tĩnh như vậy khéo nhìn (sự vật) với ý niệm xả ly. Này các Tỷ-kheo,
trong khi Tỷ-kheo với tâm định tĩnh như vậy, khéo nhìn (sự vật) với ý
niệm xả ly, trong khi ấy xả giác chi bắt đầu khởi lên nơi Tỷ-kheo.
Trong khi ấy xả giác chi được Tỷ-kheo tu tập. Trong khi ấy xả giác chi
được Tỷ-kheo làm cho đi đến sung mãn.
Này các Tỷ-kheo,
bốn niệm xứ được tu tập như vậy, được làm cho sung mãn như vậy
khiến cho bảy giác chi được sung mãn.
1081. Minh giải thoát được
viên mãn
Và này các Tỷ-kheo,
bảy giác chi tu tập như thế nào, làm cho sung mãn như thế nào, khiến cho
minh giải thoát được viên mãn?
Ở đây, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập niệm giác chi, liên hệ đến viễn ly, liên hệ
đến ly tham, liên hệ đến diệt, hướng đến xả ly; tu tập trạch pháp
giác chi... tu tập tinh tấn giác chi... tu tập hỷ giác chi... tu tập khinh
an giác chi... tu tập định giác chi... tu tập xả giác chi, liên hệ đến
viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến diệt, hướng đến xả ly. Này
các Tỷ-kheo, bảy giác chi được tu tập như vậy, được làm cho sung mãn
như vậy, khiến cho minh giải thoát được viên mãn.
Thế Tôn thuyết
giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ Kheo
Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 118 [tóm tắt]
Kinh Nhập Tức Xuất Tức Niệm
(Ānāpānasati Sutta)
(M.iii,
78)
Vào đêm trăng tròn
sau ngày tự tứ tại Sāvatthī, Thế Tôn ngồi giữa trời cùng với chúng
Tỷ-kheo đoanh vây. Ngài ngỏ lời khen ngợi hội chúng Tỷ-kheo thanh tịnh,
xứng đáng, trong đó có nhiều vị đã chứng A-la-hán, có những vị là bậc
Bất lai, Nhất lai, có những vị chứng Dự lưu quả. Có những vị chuyên
tu bốn niệm xứ, có những vị chuyên tu Bốn chánh cần, Bốn như ý túc,
Năm căn, Năm lực, Bảy giác chi, Thánh đạo tám ngành. Có những vị chuyên
tu tập về từ tâm, về bi tâm, về hỷ tâm, về xả tâm. Có những vị chuyên
tu quán bất tịnh, chuyên tu vô thường tưởng. Có những vị chuyên tu tập
nhập tức xuất tức niệm. Và Thế Tôn dạy, nhập tức xuất tức niệm
được tu tập, được làm cho sung mãn, sẽ đem lại quả lớn, công đức
lớn, khiến cho Bốn niệm xứ được viên mãn, do tu tập Bốn niệm xứ viên
mãn, Bảy giác chi được viên mãn, do Bảy giác chi viên mãn, minh giải thoát
được viên mãn.
I. Thế nào là tu tập nhập tức
xuất tức niệm, làm cho sung mãn, khiến Bốn niệm xứ được viên mãn?
1/ Quán thân trên thân:
- Khi thở vô dài, vị
ấy biết “tôi thở vô dài”. - Khi thở ra dài, vị ấy biết “tôi thở ra
dài”. - Thở vô ngắn, vị ấy biết “tôi thở vô ngắn”. - Thở ra ngắn, vị
ấy biết “tôi thở ra ngắn”.
- Cảm giác toàn
thân, tôi thở vô, vị ấy tập. - Cảm giác toàn thân, tôi thở ra, vị ấy tập.
- An tịnh thân hành,
tôi thở vô, vị ấy tập. - An tịnh thân hành, tôi thở ra, vị ấy tập.
2/ Quán thọ trên
các cảm thọ:
- Cảm giác hỷ, tôi sẽ thở vô,
vị ấy tập.
- Cảm giác hỷ, tôi sẽ thở ra,
vị ấy tập.
- Cảm giác lạc, tôi sẽ thở
vô, vị ấy tập.
- Cảm giác lạc, tôi sẽ thở
ra, vị ấy tập.
- Cảm giác tâm hành, tôi sẽ
thở vô, vị ấy tập.
- Cảm giác tâm hành, tôi sẽ
thở ra, vị ấy tập.
- An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở
vô, vị ấy tập.
- An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở
ra, vị ấy tập.
3/ Quán tâm trên tâm:
- Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở
vô, vị ấy tập.
- Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở
ra, vị ấy tập.
- Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở
vô, vị ấy tập.
- Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở
ra, vị ấy tập.
- Với tâm định tĩnh, tôi sẽ
thở vô, vị ấy tập.
- Với tâm định tĩnh, tôi sẽ
thở ra, vị ấy tập.
- Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở vô, vị
ấy tập.
- Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở ra, vị
ấy tập.
4/ Quán
pháp trên các pháp:
- Quán vô thường, tôi sẽ thở
vô, vị ấy tập.
- Quán vô thường, tôi sẽ thở
ra, vị ấy tập.
- Quán ly dục, tôi sẽ thở vô,
vị ấy tập.
- Quán ly dục, tôi sẽ thở ra,
vị ấy tập.
- Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở
vô, vị ấy tập.
- Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở
ra, vị ấy tập.
- Quán xả ly, tôi sẽ thở vô,
vị ấy tập.
- Quán xả ly, tôi sẽ thở ra,
vị ấy tập.
Trong khi tùy quán
thân trên thân, thọ trên các thọ, tâm trên tâm, pháp trên các pháp, vị
Tỷ-kheo an trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở
đời. Do đoạn trừ tham ưu, thấy với trí tuệ, vị ấy nhìn sự vật với
niệm xả ly. Nhập tức xuất tức niệm được tu tập như vậy làm cho Bốn
niệm xứ được viên mãn.
II. Thế nào là bốn Niệm xứ
được tu tập làm cho Bảy giác chi viên mãn?
Ấy là, trong khi vị
Tỷ-kheo trú nhiệt tâm tỉnh giác, vị ấy không hôn mê, niệm giác chi khởi
lên, được vị ấy tu tập đi đến viên mãn. Trong khi an trú chánh niệm, vị
Tỷ-kheo với trí tuệ tư duy thẩm sát pháp, trạch pháp giác chi khởi lên,
được tu tập đi đến viên mãn. Khi vị ấy với trí tuệ tư duy thẩm sát
pháp, sự tinh tấn không thụ động khởi lên và được tu tập đến viên mãn:
đó là tinh tấn giác chi. Nhờ tinh tấn, hỷ giác chi không liên hệ đến vật
chất khởi lên. Tâm vị ấy hoan hỷ khiến thân được khinh an, đó là khinh
an giác chi. Nhờ khinh an, tâm vị ấy được định tĩnh. Định giác chi
khởi lên, được tu tập đi đến viên mãn. Với tâm định tĩnh, vị ấy khéo
nhìn sự vật với ý niệm xả ly. Xả giác chi khởi lên nơi vị ấy.
III. Bảy giác chi được tu tập
khiến Minh giải thoát viên mãn, vì khi vị Tỷ-kheo tu tập niệm giác chi,
trạch pháp giác chi... liên hệ đến viễn ly, ly tham, đoạn diệt, hướng
đến xả ly, những pháp ấy được làm cho sung mãn đưa đến Minh giải
thoát.
Thế Tôn thuyết
giảng như vậy, các vị Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Kinh số 118 [dàn ý]
Kinh Nhập Tức Xuất Tức Niệm
(Ānāpānasati Sutta)
(M.iii,
78)
A. Duyên khởi:
Thế Tôn ở tại Svatthỵ
cho đến ngày lễ Komudi, thấy các Tỷ-kheo khích lệ nhau tu học, Tỷ-kheo dạy cho
tân học Tỷ-kheo, rất lấy làm hoan hỷ nên nói kinh này để tán thán chúng Tỷ-kheo.
B. Chánh kinh:
Thế Tôn tán thán
chúng Tỷ-kheo và giải thích pháp môn niệm hơi thở vô hơi thở ra.
I. Thế Tôn tán thán các Tỷ-kheo là
không có lời dư thừa, an trú trong lõi cây thanh tịnh, là phước điền vô thưỡng ở
đời. Trong hội chúng này có những vị đã chứng được 4 quả, đã tu tập 14 pháp môn
trong ấy có pháp môn niệm hơi thở vô hơi thở ra.
II. Thế Tôn định nghĩa pháp môn niệm
hơi thở vô hơi thở ra và giải thích sự liên hệ giữa pháp môn niệm hơi thở vô
hơi thở ra với 4 niệm xứ, bảy giác chi, minh và giải thoát:
1. Định nghĩa pháp
môn niệm hơi thở vô hơi thở ra.
2. Niệm hơi thở vô
hơi thở ra được tu tập làm cho 4 niệm xứ được sung mãn.
3. Bốn niệm xứ được
tu tập làm cho bảy giác chi được viên mãn.
4. Bảy giác chi được
tu tập làm cho minh giải thoát được viên mãn.
C. Kết luận:
Các vị Tỷ-kheo hoan hỷ
tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Kinh số 118 [toát
yếu]
Kinh Nhập Tức Xuất Tức Niệm
(Ānāpānasati Sutta)
(M.iii,
78)
Nhập tức xuất tức niệm
I. Toát yếu
Ānāpānasati Sutta
- Mindfulness of Breathing.
An exposition of
sixteen steps in mindfulness of breathing and of the relation of this
meditation to the four foundations of mindfulness and the seven enlightenment factors.
Quán niệm hơi
thở.
Trình bày 16 bước
trong pháp niệm hơi thở, tương quan giữa thiền pháp này với Bốn
niệm xứ và Bảy giác chi.
II. Tóm tắt
Vào lễ tự tứ [1]
đêm rằm, Phật ngồi giữa trời được vây quanh bởi một đại chúng gồm
những vị thượng thủ danh tiếng. Ngài đưa mắt nhìn quanh rồi khen
hội chúng này thật toàn hảo, đã đắc quả từ Dự lưu đến A-la-hán, hoặc
là những vị chuyên tu thiền bốn niệm xứ cho đến bát thánh đạo.
Ngài tuyên bố sẽ ở lại đấy (Xá vệ) cho đến tháng tư lễ Komudi [2].
Những tỷ kheo tại địa phương đến quy tụ để hành thiền. Họ chuyên
tâm tu tập bốn phạm trú, tu tưởng bất tịnh, tưởng vô thường,
hoặc tu niệm hơi thở vô ra.
Pháp môn niệm hơi
thở này, nếu được tu tập viên mãn, sẽ đưa đến kết quả lớn là
viên mãn bốn niệm xứ. Do viên mãn bốn niệm xứ mà bảy giác chi
được viên mãn. Do bảy giác chi viên mãn mà minh giải thoát được
viên mãn.
Như thế nào tu
niệm hơi thở được viên mãn sẽ có kết quả lớn, công đức lớn? Vị
tỷ kheo đi đến chỗ trống, ngồi kiết già lưng thẳng an trú chánh
niệm trước mặt.Chánh niệm, vị ấy thở vô, chánh niệm vị ấy thở
ra.
Thở vô dài, vị
ấy biết tôi thở vô dài. Hay thở ra dài, vị ấy biết tôi thở ra
dài. Hay thở vô ngắn, vị ấy biết tôi thở vô ngắn. Hay thở ra ngắn,
vị ấy biết tôi thở ra ngắn. Vị ấy tập: Cảm giác toàn thân, tôi
sẽ thở vô. Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra. Vị ấy tập: An tịnh
thân hành, tôi sẽ thở vô. An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra. [3]
Vị ấy tập: Cảm
giác hỷ thọ [4], tôi sẽ thở vô. Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở ra.
Vị ấy tập: Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở vô. Cảm giác lạc thọ
[5], tôi sẽ thở ra. Vị ấy tập: Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở vô.
Cảm giác tâm hành [5], tôi sẽ thở ra. Vị ấy tập: An tịnh tâm hành,
tôi sẽ thở vô. An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở ra.
Vị ấy tập: Cảm
giác về tâm [6], tôi sẽ thở vô. Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở ra.
Vị ấy tập: Với tâm hân hoan [6], tôi sẽ thở vô. Với tâm hân hoan,
tôi sẽ thở ra. Vị ấy tập: Với tâm định tĩnh [6], tôi sẽ thở vô.
Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở ra. Vị ấy tập: Với tâm giải thoát
[6], tôi sẽ thở vô. Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở ra.
Vị ấy tập: Tùy
quán vô thường, tôi sẽ thở vô [7]. Tùy quán vô thường, tôi
sẽ thở ra. Vị ấy tập: Tùy quán ly dục, tôi sẽ thở vô. Tùy
quán ly dục, tôi sẽ thở ra. Vị ấy tập: Tùy quán tịch diệt,
tôi sẽ thở vô. Tùy quán tịch diệt, tôi sẽ thở ra. Vị ấy tập: Tùy
quán xả ly, tôi sẽ thở vô. Tùy quán xả ly, tôi sẽ thở ra.
Bốn pháp đầu,
trong khi quán thân thể [8] như là thân thể, vị tỷ kheo nhiệt tâm,
tỉnh giác, chánh niệm để điều phục tham ưu ở đời. Khi quán cảm thọ
[9] như là cảm thọ với bốn pháp tiếp theo, vị tỷ kheo nhiệt tâm,
tỉnh giác, chánh niệm để điều phục tham ưu ở đời. Với nhóm bốn pháp
thứ ba, trong khi quán tâm trên tâm [10], vị tỷ kheo nhiệt tâm, tỉnh
giác, chánh niệm để điều phục tham ưu [11] ở đời. Trong khi quán
pháp trên các pháp với nhóm bốn pháp thứ tư cũng vậy. Như vậy là
bốn niệm xứ được viên mãn nhờ quán hơi thở vô ra.
Bảy giác chi [12]:
Trong khi tỷ kheo tùy quán thân trên thân, niệm giác chi phát
sinh và đi đến viên mãn. Nhờ tư duy thẩm sát trong khi có chánh niệm
[13] trạch pháp giác chi sinh khởi và đi đến viên mãn. Trong khi
thẩm sát pháp ấy, sự tinh tấn không thụ động khởi lên gọi là tinh
tấn giác chi, và khi tinh tấn giác chi viên mãn thì hỷ phi
vật chất sinh khởi. Tâm hoan hỷ đi đến viên mãn sẽ khiến thân tâm khinh
an, là khinh an giác chi. Khi tâm được khinh an, an lạc, sẽ đưa
đến định giác chi, và với tâm định tĩnh thì dễ nhìn sự vật
với thái độ xả, đấy là xả giác chi. Ðối với ba nhóm còn lại
là thọ, tâm, pháp cũng thế.
Minh giải thoát:
Bảy giác chi được tu tập viên mãn khiến cho minh giải thoát được
viên mãn là vì cả bảy giác chi đều liên hệ đến viễn ly, ly tham,
diệt, xả ly.
III. Chú giải
1. Pavāranā -
lễ tự tứ, là lễ kết thúc an cư mùa mưa, trong lễ này các tỷ kheo
thỉnh cầu lẫn nhau giáo giới, chỉ lỗi cho mình.
2. Komudì là
ngày rằm tháng Kattika, tháng thứ tư mùa mưa; nó được gọi như vậy
vì vào mùa mưa ấy hoa kumuda (hoa súng) nở.
3. Ðoạn bốn pháp
đầu được giải thích trong kinh số 10, chỉ khác đoạn này ở chỗ thêm
ví dụ. Vì đã giải thích bốn niệm xứ quán về hơi thở trong Thanh
Tịnh Đạo nên ở MA, Luận sư Buddhaghosa chỉ nói độc giả tham khảo
luận TTĐ. Bốn chú thích sau đều rút từ TTĐ VII.
4. Người ta kinh
nghiệm hỷ thọ theo hai cách: nhờ đạt hai thiền đầu trong đó có mặt
hỷ, hành giả cảm thọ hỷ theo kiểu khinh khoái. Cách thứ hai là nhờ
xuất khỏi thiền ấy và quán sát hỷ cũng phải bị hoại diệt, như vậy
hành giả được hỷ theo kiểu tuệ giác.
5. Cũng phương
pháp giải thích ấy áp dụng cho mệnh đề hai và ba, ngoại trừ mệnh
đề hai bao hàm ba thiền dưới còn mệnh đề ba bao hàm cả bốn thiền.
Tâm hành là tưởng và thọ được an tịnh nhờ tuần tự phát triển
các tầng mức cao hơn về tịnh chỉ và tuệ quán.
6. Cảm thọ về tâm
cần hiểu là nhờ bốn thiền. Khiến tâm hân hoan là hoặc đắc hai
thiền đầu có hỷ hoặc đi sâu và hai thiền bằng tuệ quán để thấy
chúng vô thường, vân vân. Khiến tâm định tĩnh ám chỉ hoặc định
chứng thuộc thiền, hoặc sự tập trung chốc lát (sát-na định) khởi
lên cùng với tuệ quán. Khiến tâm giải thoát có nghĩa là giải
thoát tâm khỏi các chướng ngại và các thiền chi thô nhờ các định
chứng cao dần, và khỏi các nhận thức sai lầm nhờ tri kiến thuộc
tuệ.
7. Ðoạn bốn pháp
này hoàn toàn đề cập tuệ giác, không giống ba đoạn trước đề cập
cả chỉ lẫn quán. Quán ly tham
và quán đoạn diệt
có thể hiểu là tuệ quán đi sâu vào tính vô thường của các hành,
và là đạo lô siệu thế chứng Niết- bàn ly dục (virāga) và
chấm dứt khổ đau. Quán từ bỏ là sự từ bỏ nhiễm ô nhờ tuệ và sự
thể nhập Niết-bàn nhờ đạo.
8. Hơi thở ra vào
cần được xem như phong đại làm nên thân thể trong bốn đại. Nó cũng
cần được hiểu là xúc xứ trong các pháp thuộc về thân (vì đối
tượng chú ý là sự chạm xúc của hơi gió ra vào nơi cửa mũi).
9. MA giải thích sādhuka
manasikāra (tác ý một cách sát nút) tự nó không phải là cảm
giác thực, mà đây chỉ nói ẩn dụ. Trong đoạn bốn pháp thứ hai, cảm
thọ thực thụ là lạc thọ nói trong câu hai và cảm giác bao hàm trong
chữ tâm hành trong câu ba và bốn.
10.
MA: Mặc dù thiền giả lấy tướng hơi thở vô ra làm đề mục tu, vị
ấy vẫn được xem là đang quán tâm như là tâm, vì đang duy trì tâm mình
trên đối tượng bằng cách đánh
thức
hai tâm pháp là chánh niệm và tỉnh giác.
11.
MA: Tham và ưu là hai triền cái đầu tức dục và sân, và do vậy tiêu
biểu sự quán các tâm pháp khởi đầu bằng năm triền cái. Vị ấy từ
bỏ được triền cái nhờ quán vô thường, ly tham, đoạn diệt, từ bỏ,
và đi đến kết quả là nhìn đối tượng với tâm xả.
12.
MA nói đoạn kinh này hiển thị các giác phần cùng hiện hữu trong
từng sát-na tâm khi tu thiền quán.
13.
MA: Chánh niệm theo dõi hơi thở là thuộc thế gian; chánh niệm thế
gian này làm hoàn hảo nền tảng chánh niệm thế gian; nền tảng chánh
niệm thế gian kiện toàn các đại chi siêu thế; và các đại chi siêu
thế làm viên mãn chính trí và giải thoát, nghĩa là quả và
Niết-bàn.
IV. Pháp số
(không có)
V. Kệ tụng
‘Ðêm
trăng rằm tự tứ
Ðức Phật ngồi giữa trời
Với đại chúng vây quanh Toàn thượng thủ danh tiếng.
Ðức Phật ngồi giữa trời
Với đại chúng vây quanh Toàn thượng thủ danh tiếng.
‘Ngài
đưa mắt nhìn quanh
Khen hội chúng
toàn hảo
Gồm nhiều vị
La-hán
Tối thiểu cũng Dự lưu.
Tối thiểu cũng Dự lưu.
‘Ngài
cho đại chúng biết
Như Lai sẽ lưu
lại
Tại thành Xá-vệ này
Ðến rằm tháng tư sau.
‘Khi
được biết tin ấy
Những tỷ kheo địa
phương
Quy tụ lại hành
thiền
Theo lời Phật chỉ dạy.
Theo lời Phật chỉ dạy.
‘Hoặc
tu bốn phạm trú
Hoặc tu tưởng bất
tịnh
Hoặc tu tưởng vô
thường
Hoặc tu niệm hơi
thở.
‘Phật
dạy pháp môn này
Nếu tu tập viên mãn
Sẽ có kết quả lớn:
Viên mãn bốn niệm xứ
Sẽ có kết quả lớn:
Viên mãn bốn niệm xứ
Kiện toàn bảy giác chi
Cho đến minh giải thoát.
Pháp quán niệm hơi thở
Gồm mười sáu đề mục
‘Về thân thọ tâm pháp
Cách tu tập như sau.
Tỷ kheo chọn chỗ vắng
Ngồi kiết già
lưng thẳng
An trú niệm trước
mặt
Tỉnh giác, thở vô
ra.
‘Hơi
vô dài, rõ biết
Hơi ra dài, rõ biết
Hơi thở ngắn cũng vậy
Hơi ra dài, rõ biết
Hơi thở ngắn cũng vậy
Cảm giác toàn thân, Tôi sẽ thở vô,
Cảm giác toàn thân, Tôi sẽ thở ra.
Cảm giác toàn thân, Tôi sẽ thở ra.
An tịnh thân hành, Tôi sẽ thở vô
An tịnh thân hành, Tôi sẽ thở ra.
An tịnh thân hành, Tôi sẽ thở ra.
Như vậy vị ấy tập
Bốn quán niệm về Thân.
Bốn quán niệm về Thân.
‘Cảm giác hỷ thọ,
Tôi sẽ thở vô.
Cảm giác hỷ thọ,
Tôi sẽ thở ra.
Cảm giác lạc thọ,
Cảm giác lạc thọ,
Tôi sẽ thở vô.
Cảm giác lạc thọ,
Cảm giác lạc thọ,
Tôi sẽ thở ra.
Cảm giác tâm hành,
Cảm giác tâm hành,
Tôi sẽ thở
vô
Cảm giác tâm hành
Cảm giác tâm hành
Tôi sẽ thở ra.
An tịnh tâm hành
An tịnh tâm hành
Tôi sẽ thở vô
‘An
tịnh tâm hành
Tôi sẽ thở ra.
Như vậy vị ấy tập
Bốn quán niệm về Thọ.
Tôi sẽ thở ra.
Như vậy vị ấy tập
Bốn quán niệm về Thọ.
‘Cảm giác về tâm
Tôi sẽ thở vô
Cảm giác về tâm
Tôi sẽ thở ra.
Với tâm hân hoan
Với tâm hân hoan
Tôi sẽ thở vô
Với tâm hân hoan
Tôi sẽ thở ra.
Với tâm định tĩnh
Với tâm định tĩnh
Tôi sẽ thở vô
Với tâm định tĩnh
Tôi sẽ thở ra.
Với tâm giải thoát
Với tâm giải thoát
Tôi sẽ thở vô
Với tâm giải thoát
Tôi sẽ thở ra.
Như vậy vị ấy tập
Bốn quán niệm về Tâm.
Bốn quán niệm về Tâm.
‘Tùy
quán vô thường
Tôi sẽ thở vô
Tùy quán vô thường
Tùy quán vô thường
Tôi sẽ thở ra.
Tùy quán ly dục
Tôi sẽ thở vô
Tùy quán ly dục
Tôi sẽ thở ra.
‘Tùy
quán tịch diệt
Tôi sẽ thở vô
Tùy quán tịch diệt
Tùy quán tịch diệt
Tôi sẽ thở ra.
Tùy quán xả ly
Tôi sẽ thở vô
Tùy quán xả ly
Tôi sẽ thở ra.
Như vậy vị ấy tập
Bốn quán niệm về Pháp.
Như vậy vị ấy tập
Bốn quán niệm về Pháp.
‘Trong khi quán thân thể
Chỉ như là thân thể
Tỷ kheo trú nhiệt tâm
Tỷ kheo trú nhiệt tâm
Tỉnh giác và có niệm
Ðể điều phục tham ưu
Ðối với mọi sự đời.
Trong khi quán cảm thọ
Quán tâm và các pháp
Qua mười sáu đề mục
Tỷ kheo trú nhiệt tâm
Với niệm và tỉnh giác
Ðể điều phục tham ưu
Ðối với mọi sự đời.
Như vậy bốn niệm xứ
Ðược tu tập viên mãn
Nhờ quán thở vô ra.
‘Trong
khi tùy quán thân
Và quán thọ, tâm,
pháp
Niệm giác chi phát sinh
Và đi đến viên
mãn.
‘Bảy
giác chi tu tập
Ði đến chỗ viên mãn
Ði đến chỗ viên mãn
Minh giải thoát
phát sinh
Vì cả bảy giác
chi
Ðều liên hệ viễn ly
Ly tham, diệt, giải thoát.
Ðều liên hệ viễn ly
Ly tham, diệt, giải thoát.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm
tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
118. Ānāpānassatisuttaṃ
[Mūla]
144.
Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ samayaṃ Bhagavā
sāvatthiyaṃ viharati pubbārāme migāramātupāsāde sambahulehi abhiññātehi
abhiññātehi therehi sāvakehi saddhiṃ : āyasmatā ca sāriputtena āyasmatā ca
mahāmoggallānena [mahāmoggalānena (ka.)] āyasmatā ca mahākassapena āyasmatā ca
mahākaccāyanena āyasmatā ca mahākoṭṭhikena āyasmatā ca mahākappinena āyasmatā
ca mahācundena āyasmatā ca anuruddhena āyasmatā ca revatena āyasmatā ca ānandena,
aññehi ca abhiññātehi abhiññātehi therehi sāvakehi saddhiṃ. Tena kho pana
samayena therā bhikkhū nave bhikkhū ovadanti anusāsanti. Appekacce therā
bhikkhū dasapi bhikkhū ovadanti anusāsanti, appekacce therā bhikkhū vīsampi
bhikkhū ovadanti anusāsanti, appekacce therā bhikkhū tiṃsampi bhikkhū ovadanti
anusāsanti, appekacce therā bhikkhū cattārīsampi bhikkhū ovadanti anusāsanti.
Te ca navā bhikkhū therehi bhikkhūhi ovadiyamānā anusāsiyamānā uḷāraṃ
pubbenāparaṃ visesaṃ jānanti [pajānanti (syā. kaṃ.), sañjānanti (ka.)].
145.
Tena kho pana samayena Bhagavā tadahuposathe pannarase pavāraṇāya puṇṇāya
puṇṇamāya rattiyā bhikkhusaṅghaparivuto abbhokāse nisinno hoti. Atha kho Bhagavā
tuṇhībhūtaṃ tuṇhībhūtaṃ bhikkhusaṅghaṃ anuviloketvā bhikkhū āmantesi : ''āraddhosmi, bhikkhave,
imāya paṭipadāya āraddhacittosmi, bhikkhave, imāya paṭipadāya. Tasmātiha,
bhikkhave, bhiyyosomattāya vīriyaṃ ārabhatha appattassa pattiyā, anadhigatassa
adhigamāya , asacchikatassa sacchikiriyāya. Idhevāhaṃ
sāvatthiyaṃ komudiṃ cātumāsiniṃ āgamessāmīti. Assosuṃ kho jānapadā bhikkhū : ''Bhagavā
kira tattheva sāvatthiyaṃ komudiṃ cātumāsiniṃ āgamessatīti. Te jānapadā bhikkhū
sāvatthiṃ [sāvatthiyaṃ (syā. kaṃ. pī. ka.)] osaranti bhagavantaṃ dassanāya. Te
ca kho therā bhikkhū bhiyyosomattāya nave bhikkhū ovadanti anusāsanti.
Appekacce therā bhikkhū dasapi bhikkhū ovadanti anusāsanti, appekacce therā
bhikkhū vīsampi bhikkhū ovadanti anusāsanti ,
appekacce therā bhikkhū tiṃsampi bhikkhū ovadanti anusāsanti, appekacce therā
bhikkhū cattārīsampi bhikkhū ovadanti anusāsanti. Te ca navā bhikkhū therehi
bhikkhūhi ovadiyamānā anusāsiyamānā uḷāraṃ pubbenāparaṃ visesaṃ jānanti.
146.
Tena kho pana samayena Bhagavā tadahuposathe pannarase komudiyā
cātumāsiniyā puṇṇāya puṇṇamāya rattiyā bhikkhusaṅghaparivuto abbhokāse nisinno
hoti. Atha kho Bhagavā tuṇhībhūtaṃ tuṇhībhūtaṃ bhikkhusaṅghaṃ
anuviloketvā bhikkhū āmantesi : ''apalāpāyaṃ, bhikkhave, parisā nippalāpāyaṃ,
bhikkhave, parisā suddhā sāre [suddhasāre patiṭṭhitā (syā. kaṃ. pī.)] patiṭṭhitā.
Tathārūpo ayaṃ, bhikkhave, bhikkhusaṅgho tathārūpā ayaṃ, bhikkhave, parisā
yathārūpā parisā
āhuneyyā pāhuneyyā dakkhiṇeyyā añjalikaraṇīyā anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa.
Tathārūpo ayaṃ, bhikkhave, bhikkhusaṅgho tathārūpā ayaṃ, bhikkhave, parisā
yathārūpāya parisāya appaṃ dinnaṃ bahu hoti, bahu dinnaṃ bahutaraṃ. Tathārūpo
ayaṃ, bhikkhave, bhikkhusaṅgho tathārūpā ayaṃ, bhikkhave, parisā yathārūpā
parisā dullabhā dassanāya lokassa. Tathārūpo ayaṃ, bhikkhave, bhikkhusaṅgho
tathārūpā ayaṃ, bhikkhave, parisā yathārūpaṃ parisaṃ alaṃ yojanagaṇanāni
dassanāya gantuṃ puṭosenāpi [puṭosenāpi, tathārūpo ayaṃ bhikkhave bhikkhusaṃgho,
tathārūpā ayaṃ parisā (sī. pī. ka.)].
147.
''Santi, bhikkhave, bhikkhū imasmiṃ bhikkhusaṅghe arahanto khīṇāsavā
vusitavanto katakaraṇīyā ohitabhārā anuppattasadatthā parikkhīṇabhavasaṃyojanā
sammadaññāvimuttā : evarūpāpi, bhikkhave, santi bhikkhū imasmiṃ bhikkhusaṅghe .
Santi, bhikkhave, bhikkhū imasmiṃ bhikkhusaṅghe pañcannaṃ orambhāgiyānaṃ saṃyojanānaṃ
parikkhayā opapātikā tattha parinibbāyino anāvattidhammā tasmā lokā :
evarūpāpi, bhikkhave, santi bhikkhū imasmiṃ bhikkhusaṅghe. Santi, bhikkhave,
bhikkhū imasmiṃ bhikkhusaṅghe tiṇṇaṃ saṃyojanānaṃ parikkhayā rāgadosamohānaṃ
tanuttā sakadāgāmino sakideva [sakiṃ deva (ka.)] imaṃ lokaṃ āgantvā
dukkhassantaṃ karissanti : evarūpāpi, bhikkhave, santi
bhikkhū imasmiṃ bhikkhusaṅghe .
Santi, bhikkhave, bhikkhū imasmiṃ bhikkhusaṅghe tiṇṇaṃ saṃyojanānaṃ parikkhayā
sotāpannā avinipātadhammā niyatā sambodhiparāyanā : evarūpāpi, bhikkhave, santi
bhikkhū imasmiṃ bhikkhusaṅghe. ''Santi, bhikkhave, bhikkhū imasmiṃ bhikkhusaṅghe
catunnaṃ satipaṭṭhānānaṃ bhāvanānuyogamanuyuttā viharanti : evarūpāpi, bhikkhave, santi bhikkhū imasmiṃ
bhikkhusaṅghe. Santi, bhikkhave, bhikkhū imasmiṃ bhikkhusaṅghe catunnaṃ
sammappadhānānaṃ bhāvanānuyogamanuyuttā viharanti - pe - catunnaṃ iddhipādānaṃ...
pañcannaṃ indriyānaṃ... pañcannaṃ balānaṃ... sattannaṃ bojjhaṅgānaṃ... ariyassa
aṭṭhaṅgikassa maggassa bhāvanānuyogamanuyuttā viharanti : evarūpāpi, bhikkhave,
santi bhikkhū imasmiṃ bhikkhusaṅghe. Santi, bhikkhave, bhikkhū imasmiṃ
bhikkhusaṅghe mettābhāvanānuyogamanuyuttā viharanti... karuṇābhāvanānuyogamanuyuttā
viharanti... muditābhāvanānuyogamanuyuttā
viharanti... upekkhābhāvanānuyogamanuyuttā viharanti...
asubhabhāvanānuyogamanuyuttā viharanti... aniccasaññābhāvanānuyogamanuyuttā
viharanti : evarūpāpi, bhikkhave, santi bhikkhū imasmiṃ bhikkhusaṅghe. Santi,
bhikkhave, bhikkhū imasmiṃ bhikkhusaṅghe ānāpānassatibhāvanānuyogamanuyuttā
viharanti. Ānāpānassati, bhikkhave, bhāvitā bahulīkatā mahapphalā hoti mahānisaṃsā.
Ānāpānassati, bhikkhave, bhāvitā bahulīkatā cattāro satipaṭṭhāne paripūreti.
Cattāro satipaṭṭhānā bhāvitā bahulīkatā satta bojjhaṅge
paripūrenti. Satta bojjhaṅgā bhāvitā bahulīkatā vijjāvimuttiṃ paripūrenti.
148.
''Kathaṃ bhāvitā ca, bhikkhave, ānāpānassati kathaṃ bahulīkatā mahapphalā hoti
mahānisaṃsā? idha, bhikkhave, bhikkhu araññagato vā rukkhamūlagato vā
suññāgāragato vā nisīdati pallaṅkaṃ ābhujitvā ujuṃ kāyaṃ paṇidhāya parimukhaṃ satiṃ upaṭṭhapetvā.
So satova assasati satova [sato (sī. syā. kaṃ. pī.)] passasati. ''Dīghaṃ vā
assasanto 'dīghaṃ assasāmīti pajānāti, dīghaṃ vā passasanto 'dīghaṃ passasāmīti
pajānāti rassaṃ vā assasanto 'rassaṃ assasāmīti pajānāti, rassaṃ vā passasanto
'rassaṃ passasāmīti pajānāti 'sabbakāyapaṭisaṃvedī assasissāmīti sikkhati,
'sabbakāyapaṭisaṃvedī passasissāmīti sikkhati 'passambhayaṃ kāyasaṅkhāraṃ
assasissāmīti sikkhati, 'passambhayaṃ kāyasaṅkhāraṃ passasissāmīti sikkhati.
'''Pītipaṭisaṃvedī assasissāmīti sikkhati, 'pītipaṭisaṃvedī passasissāmīti
sikkhati 'sukhapaṭisaṃvedī assasissāmīti sikkhati, 'sukhapaṭisaṃvedī passasissāmīti
sikkhati 'cittasaṅkhārapaṭisaṃvedī assasissāmīti sikkhati, 'cittasaṅkhārapaṭisaṃvedī
passasissāmīti sikkhati 'passambhayaṃ cittasaṅkhāraṃ
assasissāmīti sikkhati, 'passambhayaṃ cittasaṅkhāraṃ passasissāmīti sikkhati.
'''Cittapaṭisaṃvedī assasissāmīti sikkhati, 'cittapaṭisaṃvedī passasissāmīti
sikkhati 'abhippamodayaṃ cittaṃ assasissāmīti sikkhati, 'abhippamodayaṃ cittaṃ
passasissāmīti sikkhati 'samādahaṃ cittaṃ assasissāmīti sikkhati,
'samādahaṃ cittaṃ passasissāmīti sikkhati 'vimocayaṃ cittaṃ assasissāmīti
sikkhati, 'vimocayaṃ cittaṃ passasissāmīti sikkhati. '''Aniccānupassī
assasissāmīti sikkhati, 'aniccānupassī passasissāmīti sikkhati 'virāgānupassī
assasissāmīti sikkhati, 'virāgānupassī passasissāmīti sikkhati 'nirodhānupassī
assasissāmīti sikkhati, 'nirodhānupassī passasissāmīti sikkhati 'paṭinissaggānupassī
assasissāmīti sikkhati, 'paṭinissaggānupassī passasissāmīti sikkhati. Evaṃ
bhāvitā kho, bhikkhave, ānāpānassati evaṃ bahulīkatā mahapphalā hoti mahānisaṃsā.
149.
''Kathaṃ bhāvitā ca, bhikkhave, ānāpānassati kathaṃ
bahulīkatā cattāro satipaṭṭhāne paripūreti? yasmiṃ samaye, bhikkhave, bhikkhu
dīghaṃ vā assasanto 'dīghaṃ assasāmīti pajānāti, dīghaṃ vā passasanto 'dīghaṃ
passasāmīti pajānāti rassaṃ vā assasanto 'rassaṃ assasāmīti pajānāti, rassaṃ vā
passasanto 'rassaṃ passasāmīti pajānāti 'sabbakāyapaṭisaṃvedī assasissāmīti
sikkhati, 'sabbakāyapaṭisaṃvedī passasissāmīti sikkhati 'passambhayaṃ kāyasaṅkhāraṃ
assasissāmīti sikkhati, 'passambhayaṃ kāyasaṅkhāraṃ passasissāmīti sikkhati
kāye kāyānupassī, bhikkhave, tasmiṃ samaye bhikkhu viharati ātāpī sampajāno
satimā vineyya loke abhijjhādomanassaṃ. Kāyesu kāyaññatarāhaṃ, bhikkhave, evaṃ
vadāmi yadidaṃ : assāsapassāsā. Tasmātiha, bhikkhave, kāye kāyānupassī tasmiṃ samaye bhikkhu viharati
ātāpī sampajāno satimā vineyya loke abhijjhādomanassaṃ. ''Yasmiṃ samaye,
bhikkhave, bhikkhu 'pītipaṭisaṃvedī assasissāmīti sikkhati,
'pītipaṭisaṃvedī passasissāmīti sikkhati 'sukhapaṭisaṃvedī
assasissāmīti sikkhati, 'sukhapaṭisaṃvedī passasissāmīti sikkhati 'cittasaṅkhārapaṭisaṃvedī
assasissāmīti sikkhati, 'cittasaṅkhārapaṭisaṃvedī passasissāmīti sikkhati
'passambhayaṃ cittasaṅkhāraṃ assasissāmīti sikkhati, 'passambhayaṃ cittasaṅkhāraṃ
passasissāmīti sikkhati vedanāsu vedanānupassī, bhikkhave, tasmiṃ samaye
bhikkhu viharati ātāpī sampajāno satimā vineyya loke abhijjhādomanassaṃ.
Vedanāsu vedanāññatarāhaṃ, bhikkhave, evaṃ vadāmi yadidaṃ : assāsapassāsānaṃ
sādhukaṃ manasikāraṃ. Tasmātiha, bhikkhave, vedanāsu vedanānupassī tasmiṃ
samaye bhikkhu viharati ātāpī sampajāno satimā vineyya loke abhijjhādomanassaṃ.
''Yasmiṃ samaye, bhikkhave, bhikkhu 'cittapaṭisaṃvedī assasissāmīti sikkhati,
'cittapaṭisaṃvedī passasissāmīti sikkhati 'abhippamodayaṃ cittaṃ assasissāmīti
sikkhati, 'abhippamodayaṃ cittaṃ passasissāmīti sikkhati 'samādahaṃ cittaṃ
assasissāmīti sikkhati, 'samādahaṃ cittaṃ passasissāmīti sikkhati 'vimocayaṃ
cittaṃ assasissāmīti sikkhati, 'vimocayaṃ cittaṃ passasissāmīti sikkhati citte
cittānupassī, bhikkhave, tasmiṃ samaye bhikkhu viharati ātāpī sampajāno satimā
vineyya loke abhijjhādomanassaṃ. Nāhaṃ, bhikkhave, muṭṭhassatissa asampajānassa
ānāpānassatiṃ vadāmi. Tasmātiha, bhikkhave,
citte cittānupassī tasmiṃ samaye bhikkhu viharati ātāpī sampajāno satimā
vineyya loke abhijjhādomanassaṃ. ''Yasmiṃ samaye, bhikkhave, bhikkhu 'aniccānupassī
assasissāmīti sikkhati, 'aniccānupassī passasissāmīti sikkhati 'virāgānupassī
assasissāmīti sikkhati, 'virāgānupassī passasissāmīti sikkhati 'nirodhānupassī
assasissāmīti sikkhati, 'nirodhānupassī passasissāmīti sikkhati 'paṭinissaggānupassī
assasissāmīti sikkhati, 'paṭinissaggānupassī passasissāmīti sikkhati dhammesu
dhammānupassī, bhikkhave, tasmiṃ samaye bhikkhu viharati ātāpī sampajāno satimā
vineyya loke abhijjhādomanassaṃ. So yaṃ taṃ abhijjhādomanassānaṃ pahānaṃ taṃ paññāya disvā sādhukaṃ
ajjhupekkhitā hoti. Tasmātiha, bhikkhave, dhammesu dhammānupassī tasmiṃ samaye
bhikkhu viharati ātāpī sampajāno satimā vineyya loke abhijjhādomanassaṃ. ''Evaṃ
bhāvitā kho, bhikkhave, ānāpānassati evaṃ
bahulīkatā cattāro satipaṭṭhāne paripūreti.
150.
''Kathaṃ bhāvitā ca, bhikkhave, cattāro satipaṭṭhānā kathaṃ bahulīkatā satta
bojjhaṅge paripūrenti? yasmiṃ samaye, bhikkhave, bhikkhu kāye kāyānupassī
viharati ātāpī sampajāno satimā vineyya loke abhijjhādomanassaṃ, upaṭṭhitāssa
tasmiṃ samaye sati hoti asammuṭṭhā [appammuṭṭhā (syā. kaṃ.)]. Yasmiṃ samaye,
bhikkhave, bhikkhuno upaṭṭhitā sati hoti asammuṭṭhā, satisambojjhaṅgo tasmiṃ samaye
bhikkhuno āraddho hoti. Satisambojjhaṅgaṃ tasmiṃ samaye bhikkhu bhāveti,
satisambojjhaṅgo tasmiṃ samaye bhikkhuno bhāvanāpāripūriṃ gacchati. ''So
tathāsato viharanto taṃ dhammaṃ paññāya pavicinati pavicayati [pavicarati (sī.
syā. kaṃ. pī.)] parivīmaṃsaṃ āpajjati. Yasmiṃ samaye, bhikkhave, bhikkhu
tathāsato viharanto taṃ dhammaṃ paññāya pavicinati pavicayati
parivīmaṃsaṃ āpajjati, dhammavicayasambojjhaṅgo tasmiṃ samaye bhikkhuno āraddho
hoti, dhammavicayasambojjhaṅgaṃ tasmiṃ samaye bhikkhu bhāveti,
dhammavicayasambojjhaṅgo tasmiṃ samaye bhikkhuno bhāvanāpāripūriṃ gacchati.
''Tassa taṃ dhammaṃ paññāya pavicinato pavicayato parivīmaṃsaṃ āpajjato āraddhaṃ
hoti vīriyaṃ asallīnaṃ. Yasmiṃ samaye, bhikkhave, bhikkhuno taṃ dhammaṃ paññāya
pavicinato pavicayato parivīmaṃsaṃ āpajjato āraddhaṃ hoti vīriyaṃ asallīnaṃ,
vīriyasambojjhaṅgo tasmiṃ samaye bhikkhuno āraddho hoti, vīriyasambojjhaṅgaṃ
tasmiṃ samaye bhikkhu bhāveti, vīriyasambojjhaṅgo tasmiṃ samaye bhikkhuno
bhāvanāpāripūriṃ gacchati. ''Āraddhavīriyassa uppajjati pīti nirāmisā. Yasmiṃ
samaye, bhikkhave, bhikkhuno āraddhavīriyassa uppajjati pīti nirāmisā, pītisambojjhaṅgo tasmiṃ samaye
bhikkhuno āraddho hoti, pītisambojjhaṅgaṃ tasmiṃ samaye bhikkhu bhāveti,
pītisambojjhaṅgo tasmiṃ samaye bhikkhuno bhāvanāpāripūriṃ gacchati. ''Pītimanassa
kāyopi passambhati, cittampi passambhati. Yasmiṃ samaye, bhikkhave, bhikkhuno pītimanassa kāyopi passambhati, cittampi
passambhati, passaddhisambojjhaṅgo tasmiṃ samaye bhikkhuno āraddho hoti,
passaddhisambojjhaṅgaṃ tasmiṃ samaye bhikkhu bhāveti, passaddhisambojjhaṅgo
tasmiṃ samaye bhikkhuno bhāvanāpāripūriṃ gacchati. ''Passaddhakāyassa sukhino
cittaṃ samādhiyati. Yasmiṃ samaye, bhikkhave, bhikkhuno passaddhakāyassa
sukhino cittaṃ samādhiyati, samādhisambojjhaṅgo tasmiṃ samaye bhikkhuno āraddho
hoti, samādhisambojjhaṅgaṃ tasmiṃ samaye bhikkhu bhāveti, samādhisambojjhaṅgo
tasmiṃ samaye bhikkhuno bhāvanāpāripūriṃ gacchati. ''So tathāsamāhitaṃ cittaṃ
sādhukaṃ ajjhupekkhitā hoti. Yasmiṃ samaye, bhikkhave, bhikkhu tathāsamāhitaṃ
cittaṃ sādhukaṃ ajjhupekkhitā hoti, upekkhāsambojjhaṅgo tasmiṃ samaye bhikkhuno
āraddho hoti, upekkhāsambojjhaṅgaṃ tasmiṃ samaye bhikkhu bhāveti,
upekkhāsambojjhaṅgo tasmiṃ samaye bhikkhuno bhāvanāpāripūriṃ gacchati.
151.
''Yasmiṃ samaye, bhikkhave, bhikkhu vedanāsu - pe -
citte... dhammesu dhammānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā vineyya loke
abhijjhādomanassaṃ, upaṭṭhitāssa tasmiṃ samaye sati hoti asammuṭṭhā. Yasmiṃ
samaye, bhikkhave, bhikkhuno upaṭṭhitā sati hoti asammuṭṭhā, satisambojjhaṅgo
tasmiṃ samaye bhikkhuno āraddho hoti, satisambojjhaṅgaṃ tasmiṃ samaye bhikkhu
bhāveti, satisambojjhaṅgo tasmiṃ samaye bhikkhuno bhāvanāpāripūriṃ gacchati.
''So tathāsato viharanto taṃ dhammaṃ paññāya
pavicinati pavicayati parivīmaṃsaṃ āpajjati. Yasmiṃ samaye, bhikkhave, bhikkhu
tathāsato viharanto taṃ dhammaṃ paññāya pavicinati pavicayati parivīmaṃsaṃ
āpajjati, dhammavicayasambojjhaṅgo tasmiṃ samaye bhikkhuno āraddho hoti,
dhammavicayasambojjhaṅgaṃ tasmiṃ samaye bhikkhu bhāveti,
dhammavicayasambojjhaṅgo tasmiṃ samaye bhikkhuno bhāvanāpāripūriṃ gacchati.
''Tassa taṃ
dhammaṃ paññāya pavicinato pavicayato parivīmaṃsaṃ āpajjato āraddhaṃ hoti
vīriyaṃ asallīnaṃ. Yasmiṃ samaye, bhikkhave, bhikkhuno taṃ dhammaṃ paññāya
pavicinato pavicayato parivīmaṃsaṃ āpajjato āraddhaṃ hoti vīriyaṃ asallīnaṃ,
vīriyasambojjhaṅgo tasmiṃ samaye bhikkhuno āraddho hoti, vīriyasambojjhaṅgaṃ
tasmiṃ samaye bhikkhu bhāveti, vīriyasambojjhaṅgo tasmiṃ samaye bhikkhuno
bhāvanāpāripūriṃ gacchati. ''Āraddhavīriyassa uppajjati pīti nirāmisā. Yasmiṃ
samaye, bhikkhave, bhikkhuno āraddhavīriyassa uppajjati pīti nirāmisā,
pītisambojjhaṅgo tasmiṃ samaye bhikkhuno āraddho hoti, pītisambojjhaṅgaṃ tasmiṃ
samaye bhikkhu bhāveti, pītisambojjhaṅgo tasmiṃ samaye bhikkhuno
bhāvanāpāripūriṃ gacchati. ''Pītimanassa kāyopi passambhati, cittampi
passambhati. Yasmiṃ samaye, bhikkhave, bhikkhuno pītimanassa kāyopi passambhati,
cittampi passambhati, passaddhisambojjhaṅgo tasmiṃ samaye bhikkhuno āraddho
hoti, passaddhisambojjhaṅgaṃ tasmiṃ samaye bhikkhu bhāveti, passaddhisambojjhaṅgo tasmiṃ
samaye bhikkhuno bhāvanāpāripūriṃ gacchati. ''Passaddhakāyassa sukhino cittaṃ samādhiyati. Yasmiṃ samaye,
bhikkhave, bhikkhuno passaddhakāyassa sukhino cittaṃ samādhiyati,
samādhisambojjhaṅgo tasmiṃ samaye bhikkhuno āraddho hoti, samādhisambojjhaṅgaṃ
tasmiṃ samaye bhikkhu bhāveti, samādhisambojjhaṅgo tasmiṃ samaye bhikkhuno
bhāvanāpāripūriṃ gacchati. ''So tathāsamāhitaṃ cittaṃ sādhukaṃ ajjhupekkhitā
hoti. Yasmiṃ samaye, bhikkhave, bhikkhu tathāsamāhitaṃ cittaṃ sādhukaṃ
ajjhupekkhitā hoti, upekkhāsambojjhaṅgo tasmiṃ samaye bhikkhuno āraddho hoti,
upekkhāsambojjhaṅgaṃ tasmiṃ samaye bhikkhu bhāveti, upekkhāsambojjhaṅgo tasmiṃ
samaye bhikkhuno bhāvanāpāripūriṃ gacchati. Evaṃ bhāvitā kho, bhikkhave,
cattāro satipaṭṭhānā evaṃ bahulīkatā satta sambojjhaṅge paripūrenti.
152.
''Kathaṃ bhāvitā ca, bhikkhave, satta bojjhaṅgā kathaṃ
bahulīkatā vijjāvimuttiṃ paripūrenti ?
idha, bhikkhave, bhikkhu satisambojjhaṅgaṃ bhāveti vivekanissitaṃ virāganissitaṃ
nirodhanissitaṃ vossaggapariṇāmiṃ. Dhammavicayasambojjhaṅgaṃ bhāveti - pe -
vīriyasambojjhaṅgaṃ bhāveti... pītisambojjhaṅgaṃ bhāveti... passaddhisambojjhaṅgaṃ
bhāveti... samādhisambojjhaṅgaṃ bhāveti... upekkhāsambojjhaṅgaṃ bhāveti
vivekanissitaṃ virāganissitaṃ nirodhanissitaṃ vossaggapariṇāmiṃ. Evaṃ bhāvitā
kho, bhikkhave, satta bojjhaṅgā evaṃ bahulīkatā vijjāvimuttiṃ paripūrentīti.
Idamavoca Bhagavā.
Attamanā te bhikkhū bhagavato bhāsitaṃ abhinandunti.
Ānāpānassatisuttaṃ niṭṭhitaṃ
aṭṭhamaṃ.
-ooOoo-
118. Ānāpānassatisuttavaṇṇanā [Atthakathā]
144. Evaṃ
me sutanti ānāpānassatisuttaṃ. Tattha aññehi cāti
ṭhapetvā pāḷiyaṃ āgate dasa there aññehipi abhiññātehi bahūhi sāvakehi
saddhiṃ. Tadā kira mahā bhikkhusaṅgho ahosi aparicchinnagaṇano.
Ovadanti
anusāsantīti
āmisasaṅgahena dhammasaṅgahena cāti dvīhi saṅgahehi saṅgaṇhitvā
kammaṭṭhānovādānusāsanīhi ovadanti ca anusāsanti ca. Te cāti cakāro
āgamasandhimattaṃ. Uḷāraṃ pubbenāparaṃ visesaṃ jānantīti
sīlaparipūraṇādito pubbavisesato uḷārataraṃ aparaṃ kasiṇaparikammādivisesaṃ
jānantīti attho.
145. Āraddhoti
tuṭṭho. Appattassa pattiyāti appattassa arahattassa pāpuṇanatthaṃ.
Sesapadadvayepi ayameva attho. Komudiṃ cātumāsininti
pacchimakattikacātumāsapuṇṇamaṃ. Sā hi kumudānaṃ atthitāya komudī, catunnaṃ
vassikānaṃ māsānaṃ pariyosānattā cātumāsinīti vuccati. Āgamessāmīti
udikkhissāmi, ajja apavāretvā yāva sā āgacchati, tāva katthaci agantvā idheva
vasissāmīti attho. Iti bhikkhūnaṃ pavāraṇasaṅgahaṃ anujānanto evamāha.
Pavāraṇasaṅgaho
nāma ñattidutiyena kammena diyyati kassa panesa diyyati,
kassa na diyyatīti. Akārakassa tāva bālaputhujjanassa na diyyati, tathā
āraddhavipassakassa ceva ariyasāvakassa ca. Yassa pana samatho vā taruṇo hoti
vipassanā vā, tassa diyyati. Bhagavāpi tadā bhikkhūnaṃ cittācāraṃ
parivīmaṃsanto samathavipassanānaṃ taruṇabhāvaṃ ñatvā – ‘‘mayi ajja pavārente
disāsu vassaṃvuṭṭhā bhikkhū idha osarissanti. Tato ime bhikkhū vuḍḍhatarehi
bhikkhūhi senāsane gahite visesaṃ nibbattetuṃ na sakkhissanti. Sacepi cārikaṃ
pakkamissāmi, imesaṃ vasanaṭṭhānaṃ dullabhameva bhavissati. Mayi pana
apavārente bhikkhūpi imaṃ sāvatthiṃ na osarissanti, ahampi
cārikaṃ na pakkamissāmi, evaṃ imesaṃ bhikkhūnaṃ vasanaṭṭhānaṃ apalibuddhaṃ
bhavissati. Te attano attano vasanaṭṭhāne phāsu viharantā samathavipassanā
thāmajātā katvā visesaṃ nibbattetuṃ sakkhissantī’’ti so taṃdivasaṃ apavāretvā
kattikapuṇṇamāyaṃ pavāressāmīti bhikkhūnaṃ pavāraṇasaṅgahaṃ anujāni.
Pavāraṇasaṅgahasmiñhi laddhe yassa nissayapaṭipannassa ācariyupajjhāyā
pakkamanti, sopi ‘‘sace patirūpo nissayadāyako āgamissati, tassa santike
nissayaṃ gaṇhissāmī’’ti yāva gimhānaṃ pacchimamāsā vasituṃ labhati. Sacepi
saṭṭhivassā bhikkhū āgacchanti, tassa senāsanaṃ gahetuṃ na labhanti. Ayañca
pana pavāraṇasaṅgaho ekassa dinnopi sabbesaṃ dinnoyeva hoti.
Sāvatthiṃ
osarantīti
bhagavatā pavāraṇasaṅgaho dinnoti sutasutaṭṭhāneyeva yathāsabhāvena ekaṃ māsaṃ
vasitvā kattikapuṇṇamāya uposathaṃ katvā osarante sandhāya idaṃ vuttaṃ. Pubbenāparanti
idha taruṇasamathavipassanāsu kammaṃ katvā samathavipassanā
thāmajātā akaṃsu, ayaṃ pubbe viseso nāma. Tato samāhitena cittena saṅkhāre
sammasitvā keci sotāpattiphalaṃ…pe… keci arahattaṃ sacchikariṃsu. Ayaṃ aparo
uḷāro viseso nāma.
146. Alanti
yuttaṃ. Yojanagaṇanānīti ekaṃ yojanaṃ yojanameva, dasapi yojanāni yojanāneva,
tato uddhaṃ yojanagaṇanānīti vuccanti. Idha pana yojanasatampi yojanasahassampi
adhippetaṃ. Puṭosenāpīti puṭosaṃ vuccati pātheyyaṃ. taṃ pātheyyaṃ
gahetvāpi upasaṅkamituṃ yuttamevāti attho. ‘‘Puṭaṃsenā’’tipi pāṭho, tassattho –
puṭo aṃse assāti puṭaṃso, tena puṭaṃsena, aṃse pātheyyapuṭaṃ vahantenāpīti
vuttaṃ hoti.
147.
Idāni evarūpehi caraṇehi samannāgatā ettha bhikkhū atthīti dassetuṃ santi,
bhikkhavetiādimāha. Tattha catunnaṃ satipaṭṭhānānantiādīni tesaṃ
bhikkhūnaṃ abhiniviṭṭhakammaṭṭhānadassanatthaṃ vuttāni. Tattha sattatiṃsa
bodhipakkhiyadhammā lokiyalokuttarā kathitā. Tatra hi ye bhikkhū tasmiṃ khaṇe
maggaṃ bhāventi, tesaṃ lokuttarā honti. Āraddhavipassakānaṃ lokiyā. Aniccasaññābhāvanānuyoganti
ettha saññāsīsena vipassanā kathitā. Yasmā panettha ānāpānakammaṭṭhānavasena
abhiniviṭṭhāva bahū bhikkhū, tasmā sesakammaṭṭhānāni
saṅkhepena kathetvā ānāpānakammaṭṭhānaṃ vitthārena kathento ānāpānassati,
bhikkhavetiādimāha. Idaṃ pana ānāpānakammaṭṭhānaṃ sabbākārena visuddhimagge
vitthāritaṃ, tasmā tattha vuttanayenevassa pāḷittho ca bhāvanānayo ca
veditabbo.
149. Kāyaññataranti
pathavīkāyādīsu catūsu kāyesu aññataraṃ vadāmi, vāyo kāyaṃ
vadāmīti attho. Atha vā rūpāyatanaṃ…pe… kabaḷīkāro āhāroti pañcavīsati
rūpakoṭṭhāsā rūpakāyo nāma. Tesu ānāpānaṃ phoṭṭhabbāyatane saṅgahitattā
kāyaññataraṃ hoti, tasmāpi evamāha. Tasmātihāti yasmā catūsu kāyesu
aññataraṃ vāyokāyaṃ, pañcavīsatirūpakoṭṭhāse vā rūpakāye aññataraṃ ānāpānaṃ
anupassati, tasmā kāye kāyānupassīti attho. Evaṃ sabbattha attho veditabbo. Vedanāññataranti
tīsu vedanāsu aññataraṃ, sukhavedanaṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ. Sādhukaṃ
manasikāranti pītipaṭisaṃveditādivasena uppannaṃ sundaramanasikāraṃ. Kiṃ
pana manasikāro sukhavedanā hotīti. Na hoti, desanāsīsaṃ panetaṃ. Yatheva hi
‘‘aniccasaññābhāvanānuyogamanuyuttā’’ti ettha saññānāmena paññā vuttā,
evamidhāpi manasikāranāmena vedanā vuttāti veditabbā. Etasmiṃ catukke
paṭhamapade pītisīsena vedanā vuttā, dutiyapade sukhanti sarūpeneva vuttā.
Cittasaṅkhārapadadvaye ‘‘saññā ca vedanā ca cetasikā, ete dhammā cittapaṭibaddhā
cittasaṅkhārā’’ti (paṭi. ma. 1.174) vacanato ‘‘vitakkavicāre ṭhapetvā sabbepi
cittasampayuttakā dhammā cittasaṅkhāre saṅgahitā’’ti vacanato
cittasaṅkhāranāmena vedanā vuttā. Taṃ sabbaṃ manasikāranāmena saṅgahetvā idha
‘‘sādhukaṃ manasikāra’’nti āha.
Evaṃ
santepi yasmā esā vedanā ārammaṇaṃ na hoti, tasmā vedanānupassanā na yujjatīti.
No na yujjati, satipaṭṭhānavaṇṇanāyampi hi ‘‘taṃtaṃsukhādīnaṃ vatthuṃ
ārammaṇaṃ katvā vedanāva vedayati, taṃ pana vedanāpavattiṃ upādāya ‘ahaṃ
vedayāmī’ti vohāramattaṃ hotī’’ti vuttaṃ. Apica
pītipaṭisaṃvedītiādīnaṃ atthavaṇṇanāyametassa parihāro vuttoyeva. Vuttañhetaṃ
visuddhimagge –
‘‘Dvīhākārehi
pīti paṭisaṃviditā hoti ārammaṇato ca asammohato ca. Kathaṃ
ārammaṇato pīti paṭisaṃviditā hoti? Sappītike dve jhāne samāpajjati, tassa
samāpattikkhaṇe jhānapaṭilābhena ārammaṇato pīti paṭisaṃviditā hoti ārammaṇassa
paṭisaṃviditattā. Kathaṃ asammohato (pīti paṭisaṃviditā hoti)? Sappītike dve
jhāne samāpajjitvā vuṭṭhāya jhānasampayuttaṃ pītiṃ khayato vayato sammasati,
tassa vipassanākkhaṇe lakkhaṇapaṭivedhā asammohato pīti paṭisaṃviditā hoti.
Vuttampi cetaṃ paṭisambhidāyaṃ ‘dīghaṃ assāsavasena cittassa ekaggataṃ
avikkhepaṃ pajānato sati upaṭṭhitā hoti, tāya satiyā, tena ñāṇena sā pīti
paṭisaṃviditā hotī’ti. Eteneva nayena avasesapadānipi atthato veditabbānī’’ti.
Iti
yatheva jhānapaṭilābhena ārammaṇato pītisukhacittasaṅkhārā paṭisaṃviditā honti,
evaṃ imināpi jhānasampayuttena vedanāsaṅkhātamanasikārapaṭilābhena ārammaṇato
vedanā paṭisaṃviditā hoti. Tasmā suvuttametaṃ hoti ‘‘vedanāsu vedanānupassī
tasmiṃ samaye bhikkhu viharatī’’ti.
Nāhaṃ,
bhikkhave, muṭṭhassatissa asampajānassāti ettha ayamadhippāyo –
yasmā cittapaṭisaṃvedī assasissāmītiādinā nayena pavatto bhikkhu kiñcāpi
assāsapassāsanimittaṃ ārammaṇaṃ karoti, tassa pana cittassa ārammaṇe satiñca
sampajaññañca upaṭṭhapetvā pavattanato citte cittānupassīyeva nāmesa hoti. Na
hi muṭṭhassatissa asampajānassa ānāpānassatibhāvanā atthi.
Tasmā ārammaṇato cittapaṭisaṃviditādivasena citte cittānupassī tasmiṃ samaye
bhikkhu viharatīti. So yaṃ taṃ abhijjhādomanassānaṃ pahānaṃ, taṃ paññāya
disvā sādhukaṃ ajjhupekkhitā hotīti ettha abhijjhāya kāmacchandanīvaraṇaṃ,
domanassavasena byāpādanīvaraṇaṃ dassitaṃ. Idañhi catukkaṃ
vipassanāvaseneva vuttaṃ, dhammānupassanā ca nīvaraṇapabbādivasena chabbidhā
hoti, tassā nīvaraṇapabbaṃ ādi, tassapi idaṃ nīvaraṇadvayaṃ ādi, iti
dhammānupassanāya ādiṃ dassetuṃ ‘‘abhijjhādomanassāna’’nti āha. Pahānanti
aniccānupassanāya niccasaññaṃ pajahatīti evaṃ pahānakarañāṇaṃ adhippetaṃ. Taṃ
paññāya disvāti taṃ aniccavirāganirodhapaṭinissaggāñāṇasaṅkhātaṃ
pahānañāṇaṃ aparāya vipassanāpaññāya, tampi aparāyāti evaṃ
vipassanāparamparaṃ dasseti. Ajjhupekkhitā hotīti yañca
samathapaṭipannaṃ ajjhupekkhati, yañca ekato upaṭṭhānaṃ ajjhupekkhatīti dvidhā
ajjhupekkhati nāma. Tattha sahajātānampi ajjhupekkhanā hoti ārammaṇassapi
ajjhupekkhanā, idha ārammaṇaajjhupekkhanā adhippetā. Tasmātiha, bhikkhaveti
yasmā aniccānupassī assasissāmītiādinā nayena pavatto na kevalaṃ
nīvaraṇādidhamme, abhijjhādomanassasīsena pana vuttānaṃ dhammānaṃ pahānañāṇampi
paññāya disvā ajjhupekkhitā hoti, tasmā ‘‘dhammesu dhammānupassī tasmiṃ samaye
bhikkhu viharatī’’ti veditabbo.
150. Pavicinatīti
aniccādivasena pavicinati. Itaraṃ padadvayaṃ etasseva vevacanaṃ. Nirāmisāti
nikkilesā. Passambhatīti
kāyikacetasikadarathapaṭippassaddhiyā kāyopi cittampi passambhati. Samādhiyatīti
sammā ṭhapiyati, appanāpattaṃ viya hoti. Ajjhupekkhitā hotīti
sahajātaajjhupekkhanāya ajjhupekkhitā hoti.
Evaṃ
cuddasavidhena kāyapariggāhakassa bhikkhuno tasmiṃ kāye sati satisambojjhaṅgo,
satiyā sampayuttaṃ ñāṇaṃ dhammavicayasambojjhaṅgo, taṃsampayuttameva
kāyikacetasikavīriyaṃ vīriyasambojjhaṅgo, pīti, passaddhi, cittekaggatā
samādhisambojjhaṅgo, imesaṃ channaṃ sambojjhaṅgānaṃ
anosakkanaanativattanasaṅkhāto majjhattākāro upekkhāsambojjhaṅgo. Yatheva hi
samappavattesu assesu sārathino ‘‘ayaṃ olīyatī’’ti tudanaṃ vā, ‘‘ayaṃ
atidhāvatī’’ti ākaḍḍhanaṃ vā natthi, kevalaṃ evaṃ passamānassa ṭhitākārova
hoti, evameva imesaṃ channaṃ sambojjhaṅgānaṃ anosakkanaanativattanasaṅkhāto majjhattākāro
upekkhāsambojjhaṅgo nāma hoti. Ettāvatā kiṃ kathitaṃ? Ekacittakkhaṇikā
nānārasalakkhaṇā vipassanāsambojjhaṅgā nāma kathitā.
152. Vivekanissitantiādīni
vuttatthāneva. Ettha pana ānāpānapariggāhikā sati lokiyā
hoti, lokiyā ānāpānā lokiyasatipaṭṭhānaṃ paripūrenti, lokiyā satipaṭṭhānā
lokuttarabojjhaṅge paripūrenti, lokuttarā bojjhaṅgā vijjāvimuttiphalanibbānaṃ paripūrenti. Iti lokiyassa āgataṭṭhāne
lokiyaṃ kathitaṃ, lokuttarassa āgataṭṭhāne lokuttaraṃ kathitanti. Thero panāha
‘‘aññattha evaṃ hoti, imasmiṃ pana sutte lokuttaraṃ upari āgataṃ, lokiyā
ānāpānā lokiyasatipaṭṭhāne paripūrenti, lokiyā satipaṭṭhānā lokiye bojjhaṅge
paripūrenti, lokiyā bojjhaṅgā lokuttaraṃ vijjāvimuttiphalanibbānaṃ paripūrenti,
vijjāvimuttipadena hi idha vijjāvimuttiphalanibbānaṃ adhippeta’’nti.
Papañcasūdaniyā
majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Ānāpānassatisuttavaṇṇanā
niṭṭhitā.
-ooOoo-
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 1. ĐĐ Pháp Tín chia sẻ về bài học
Thảo luận 2. TT Giác Đẳng chia sẻ về tình hình đại dịch
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment