Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Giác Đẳng
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 25/5/2020
Ba bài kinh mang số 132, 133, 134 của Trung Bộ đều mang ý nghĩa của “nhất
dạ hiền”. Duyên sự có khác nhưng giáo nghĩa giống nhau do vậy gom chung thành một
bài học. Theo một số học giả thì cụm từ bhaddekaratta có lẽ do Đức Phật dùng lần
đầu tiên trong lịch sử nhân loại thời hiện tại (…) mặc dù chư Phật quá khứ đã
dùng. Từ vựng nầy là chứa đựng ý nghĩa gần nhất với tâm thái “như nhiên” mà một
vị thành tựu tuệ quán minh sát nhìn hiện tượng giới bao gồm cả năm uẩn.
Do sự tương đồng về ý nghĩa nên
bài học hôm nay chỉ đọc các duyên sự của ba bài kinh.
132. Kinh
A-Nan Nhất Dạ Hiền Giả
(Anandabhaddekaratta
Sutta)
1131. Lời trùng tuyên của thị giả Phật
Tôn giả Ananda đã giảng dạy ý nghĩa của “nhất dạ hiền” trong bối cảnh
thích hợp khiến Tăng chúng hoan hỷ:
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà lâm), tại
tinh xá ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ Tôn giả Ānanda (A-nan)
tại hội trường thuyết thị, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan
hỷ các Tỷ-kheo với bài thuyết pháp. (Tôn giả) giảng Nhứt Dạ Hiền Giả,
tổng thuyết và biệt thuyết. Rồi Thế Tôn vào buổi chiều, từ Thiền
tịnh độc cư đứng dậy đi đến hội trường, sau khi đến, ngồi trên chỗ
đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
-- Này các Tỷ-kheo, ai tại hội trường đã thuyết thị, khích lệ,
làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các Tỷ-kheo với bài thuyết pháp. Ai đã
giảng Nhứt Dạ Hiền Giả, tổng thuyết và biệt thuyết?
-- Bạch Thế Tôn, Tôn giả Ananda tại hội trường đã thuyết thị,
khích lệ, làm cho thích thú, làm cho hoan hỷ các Tỷ-kheo với bài thuyết
pháp. (Tôn giả) đã giảng Nhứt Dạ Hiền Giả, tổng thuyết và biệt
thuyết.
Rồi Thế Tôn bảo Tôn giả Ananda:
-- Nhưng như thế nào, này Ananda, Ông đã thuyết thị, khích lệ, làm
cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các Tỷ-kheo với bài thuyết pháp? Ông có
phải đã giảng Nhứt Dạ Hiền Giả, tổng thuyết và biệt thuyết?
-- Ðúng vậy, bạch Thế Tôn, con đã thuyết thị, khích lệ, làm cho
phấn khởi, làm cho hoan hỷ các Tỷ- kheo với bài thuyết pháp. Con đã
giảng Nhứt Dạ Hiền Giả, tổng thuyết và biệt thuyết:
Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng.
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến,
Chỉ có pháp hiện tại
Tuệ quán chính ở đây.
Không động, không rung chuyển
Biết vậy, nên tu tập,
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai?
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết,
Trú như vậy nhiệt tâm,
Ðêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ Hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.
133. Kinh
Ðại Ca-Chiên-Diên Nhất Dạ Hiền Giả
(Mahàkaccànabhaddekaratta
Sutta)
1132. Lời quảng diễn của một bậc đại đệ tử với khả năng giảng rõ những
Phật ngôn cô đọng
Tôn giả Samiddhi được nghe Phật ngôn như ẩn ngữ từ một vị thiên. Sau nầy
được Tôn giả Mahàkaccàna giảng giải rộng rãi:
Một thời Thế Tôn trú ở Rājagaha (Vương Xá), tại Tinh xá Tapoda.
Lúc bấy giờ, Tôn giả Samiddhi, thức dậy vừa lúc bình minh đi đến Tapoda
để tắm rửa tay chân. Tắm rửa tay chân ở Tapoda xong, sau khi lên khỏi
(nước), vị ấy đứng mặc một y để tay chân cho khô. Rồi sau khi đêm vừa
mãn, một Thiên thần, chói sáng với dung sắc thù thắng cả vùng Tapoda, đi
đến Tôn giả Samiddhi, sau khi đến, liền đứng một bên. Ðứng một bên,
Thiên Thần ấy thưa Tôn giả Samiddhi:
-- Này Tỷ-kheo, Ngài có thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết về
Nhứt Dạ Hiền Giả không?
-- Này Hiền giả, tôi không có thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết
về Nhứt Dạ Hiền Giả. Nhưng này Hiền giả, Hiền giả có thọ trì tổng
thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền Giả không?
-- Này Tỷ-kheo, tôi cũng không có thọ trì tổng thuyết và biệt
thuyết về Nhứt Dạ Hiền Giả. Nhưng này Tỷ-kheo, Ngài có thọ trì bài kệ
về Nhứt Dạ Hiền Giả không?
-- Này Hiền giả, tôi không có thọ trì bài kệ về Nhứt Dạ Hiền
Giả. Nhưng này Hiền giả, Hiền giả có thọ trì bài kệ về Nhứt Dạ Hiền
Giả không?
-- Này Tỷ-kheo, tôi không có thọ trì bài kệ về Nhứt Dạ Hiền Giả.
Này Tỷ-kheo, hãy học tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền Giả.
Này Tỷ-kheo, hãy học cho thuần thục tổng thuyết và biệt thuyết về
Nhứt Dạ Hiền Giả. Này Tỷ-kheo hãy thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết
về Nhứt Dạ Hiền Giả. Vì rằng, này Tỷ-kheo, tổng thuyết và biệt
thuyết về Nhứt Dạ Hiền Giả là liên hệ đến mục đích và căn bản của
Phạm hạnh.
Thiên thần ấy nói như vậy. Sau khi nói vậy, vị ấy biến mất ở
đấy. Rồi Tôn giả Samiddhi sau khi đêm ấy đã mãn, liền đi đến Thế Tôn,
sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một
bên Tôn giả Samiddhi bạch Thế Tôn :
-- Ở đây, bạch Thế Tôn, con thức dậy vừa lúc bình mình đi đến
Tapoda để tắm rửa tay chân. Tắm rửa tay chân ở Tapoda xong, sau khi lên
khỏi (nước), con đứng mặc một y để tay chân cho khô. Rồi bạch Thế
Tôn, sau khi đêm vừa mãn một Thiên thần, chói sáng với dung sắc thù thắng
cả vùng Tapoda, ... và là căn bản Phạm hạnh". Thiên thần ấy nói
như vậy. Sau khi nói như vậy, vị ấy biến mất ở đấy. Lành thay, bạch
Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết giảng cho tổng thuyết và biệt thuyết về
Nhứt Dạ Hiền Giả!
-- Vậy này Tỷ-kheo, hãy nghe và suy nghiệm kỹ Ta sẽ nói.
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Samiddhi vâng đáp Thế Tôn. Thế
Tôn nói như sau :
Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng.
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến,
Chỉ có pháp hiện tại
Tuệ quán chính ở đây.
Không động, không rung chuyển
Biết vậy, nên tu tập,
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai?
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết,
Trú như vậy nhiệt tâm,
Ðêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ Hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.
Thế Tôn nói như vậy. Sau khi nói như vậy, Thiện Thệ từ chỗ
ngồi đứng dậy và đi vào tinh xá, Rồi các Tỷ-kheo ấy, sau khi Thế Tôn đi
không bao lâu, liền suy nghĩ: "Này chư Hiền, Thế Tôn sau khi thuyết
giảng phần tổng thuyết một cách vắn tắt cho chúng ta không giải nghĩa
một cách rộng rãi, từ chỗ ngồi đứng dậy và đi vào tịnh xá .
Nay không biết ai có thể giải nghĩa một cách rộng rãi tổng
thuyết này, phần này chỉ được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không
được giải nghĩa một cách rộng rãi".
Rồi các Tỷ-kheo ấy suy nghĩ như sau: "Tôn giả Mahākaccāna (Ðại
Ca-chiên-diên) này đã được Thế Tôn tán thán và được các đồng Phạm hạnh
có trí kính trọng; Tôn giả Mahakaccana có thể giải nghĩa một cách rộng
rãi tổng thuyết này, phần này chỉ được Thế Tôn nói lên một cách vắn
tắt, không giải nghĩa một cách rộng rãi. Vậy chúng ta hãy đến Tôn giả
Mahākaccāna, sau khi đến chúng ta hãy hỏi Tôn giả Mahākaccāna về ý nghĩa
này".
134. Kinh
Lomasakaṅgiya Nhất Dạ Hiền Giả
(Lomasakaṅgiyabhaddekaratta
Sutta)
133. Rời quê hương Phật để cầu Phật
Tôn giả Lomasakaṅgiya khi trú ở giữa dòng họ Sakya (Thích-ca), tại
Kapilavatthu (Ca-tỳ-la- vệ), ở tinh xá Nigrodha (Ni Câu Luật) được nghe về
“nhất dạ hiền” đã tìm đến Sàvatthi (Xá Vệ) để cầu đạo giải thoát:
Một thời Thế Tôn trú ở Sāvatthā (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm),
tại tinh xá ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ, Tôn giả
Lomasakangiya trú ở giữa dòng họ Sakya (Thích-ca), tại Kapilavatthu
(Ca-tỳ-la- vệ), ở tinh xá Nigrodha (Ni Câu Luật). Rồi Thiên tử Candana
sau khi đêm vừa mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng cả vùng tinh xá
Nigrodha, đi đến Tôn giả Lomasakaṅgiya, sau khi đến liền đứng một bên.
Ðứng một bên, Thiên tử Candana thưa với Tôn giả Lomasakaṅgiya:
-- Này Tỷ-kheo, Ngài có thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết về
Nhứt Dạ Hiền Giả không?
-- Này Hiền giả, tôi không thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết về
Nhứt Dạ Hiền Giả. Này Hiền giả, Hiền giả có thọ trì tổng thuyết và
biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền Giả không?
-- Này Tỷ-kheo, tôi cũng không thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết
về Nhứt Dạ Hiền Giả. Nhưng này Tỷ- kheo, Ngài có thọ trì bài kệ về
Nhứt Dạ Hiền Giả không?
-- Này Hiền giả, tôi không thọ trì bài kệ về Nhứt Dạ Hiền Giả.
Này Hiền giả, Hiền giả có thọ trì bài kệ về Nhứt Dạ Hiền Giả không?
-- Này Tỷ-kheo, tôi có thọ trì bài kệ về Nhứt Dạ Hiền Giả.
-- Này Hiền giả, Hiền giả thọ trì như thế nào bài kệ về Nhứt
Dạ Hiền Giả?
-- Một thời này Tỷ-kheo, Thế Tôn trú giữa chư Thiên Tam thập tam
thiên, dưới cây Pāricchattaka (Trú độ thọ), trên hòn đá Paṇḍukambala (Vô
cấu bạch thạch). Tại đấy Thế Tôn đọc lên tổng thuyết và biệt thuyết
về Nhứt Dạ Hiền Giả cho chư Thiên ở Tam thập tam thiên:
Rồi các Tỷ-kheo ấy đi đến Tôn giả
Mahākaccāna, sau khi đến nói lên với Tôn giả Mahākaccāna những lời chào
đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi
ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy thưa với Tôn
giả Mahākaccāna.
(Anandabhaddekaratta
Sutta)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn ở Savatthi
(Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà lâm), tại tinh xá ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc).
Lúc bấy giờ Tôn giả Ānanda (A-nan) tại hội trường thuyết thị, khích lệ,
làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các Tỷ-kheo với bài thuyết pháp. (Tôn
giả) giảng Nhứt Dạ Hiền Giả, tổng thuyết và biệt thuyết. Rồi Thế
Tôn vào buổi chiều, từ Thiền tịnh độc cư đứng dậy đi đến hội
trường, sau khi đến, ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn
gọi các Tỷ-kheo:
-- Này các Tỷ-kheo, ai tại hội
trường đã thuyết thị, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các
Tỷ-kheo với bài thuyết pháp. Ai đã giảng Nhứt Dạ Hiền Giả, tổng
thuyết và biệt thuyết?
-- Bạch Thế Tôn, Tôn giả
Ananda tại hội trường đã thuyết thị, khích lệ, làm cho thích thú, làm
cho hoan hỷ các Tỷ-kheo với bài thuyết pháp. (Tôn giả) đã giảng Nhứt Dạ
Hiền Giả, tổng thuyết và biệt thuyết.
Rồi Thế Tôn bảo Tôn giả
Ananda:
-- Nhưng như thế nào, này
Ananda, Ông đã thuyết thị, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ
các Tỷ-kheo với bài thuyết pháp? Ông có phải đã giảng Nhứt Dạ Hiền
Giả, tổng thuyết và biệt thuyết?
-- Ðúng vậy, bạch Thế Tôn, con
đã thuyết thị, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các Tỷ- kheo
với bài thuyết pháp. Con đã giảng Nhứt Dạ Hiền Giả, tổng thuyết và biệt
thuyết:
Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng.
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến,
Chỉ có pháp hiện tại
Tuệ quán chính ở đây.
Không động, không rung chuyển
Biết vậy, nên tu tập,
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai?
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết,
Trú như vậy nhiệt tâm,
Ðêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ Hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.
Này các Hiền giả,
thế nào là truy tìm quá khứ? Vị ấy nghĩ: "Như vậy là sắc của tôi
trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy; "Như vậy là
thọ của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy;
"Như vậy là tưởng của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân
hoan trong ấy; "Như vậy là hành của tôi trong quá khứ", và truy
tìm sự hân hoan trong ấy, "Như vậy, là thức của tôi trong quá
khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này các Hiền giả,
là truy tìm quá khứ.
Và này các Hiền
giả, thế nào là không truy tìm quá khứ? Vị ấy nghĩ: "Như vậy là
sắc của tôi trong quá khứ", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy;
"Như vậy là thọ của tôi trong quá khứ", và không truy tìm sự
hân hoan trong ấy; "Như vậy là tưởng của tôi... Như vậy là hành
của tôi... Như vậy là thức của tôi trong quá khứ"; và không truy tìm
sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này các Hiền giả, là không truy tìm quá
khứ.
Và này các Hiền
giả, thế nào ước vọng tương lai? Vị ấy nghĩ: "Mong rằng như vậy
sẽ là sắc của tôi trong tương lai", và truy tìm sự hân hoan trong
ấy; "Mong rằng như vậy sẽ là thọ của tôi trong tương lai",
và truy tìm sự hân hoan trong ấy; "Mong rằng như vậy là tưởng của
tôi... là hành của tôi... Như vậy là thức của tôi trong tương lai",
và truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này các Hiền giả, là ước
vọng trong tương lai.
Và này các Hiền
giả, thế nào là không ước vọng trong tương lai? Vị ấy nghĩ:
"Mong rằng như vậy sẽ là sắc của tôi trong tương lai", và
không truy tìm hân hoan trong ấy; "Mong rằng như vậy sẽ là thọ của
tôi trong tương lai", và không truy tìm hân hoan trong ấy; "Mong
rằng như vậy sẽ là tưởng... sẽ là hành... sẽ là thức của tôi trong
tương lai, "và không truy tìm hân hoan trong ấy. Như vậy, này các
Hiền giả, là ước vọng trong tương lai.
Và này các Hiền
giả, như thế nào là bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại? Ở đây, này các
Hiền giả, có kẻ vô văn phàm phu không đi đến các bậc Thánh, không thuần
thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh; không đi đến các
bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp
các bậc Chân nhân; quán sắc là tự ngã, hay quán tự ngã là có sắc, hay quán
sắc là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong sắc, hay vị ấy quán thọ là
tự ngã, hay quán tự ngã là có thọ; hay quán thọ là trong tự ngã, hay quán
tự ngã là trong thọ, hay vị ấy quán tưởng là trong tự ngã, hay quán tự
ngã là có tưởng, hay vị ấy quán tưởng là tự ngã, hay quán tự ngã là có
tưởng, hay vị ấy quán hành là tự ngã, hay vị ấy quán tự ngã là có hành,
hay vị ấy quán hành là trong tự ngã, hay vị ấy quán tự ngã là trong hành;
hay vị ấy quán thức là tự ngã, hay quán tự ngã là có thức, hay quán thức
là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong thức. Như vậy, này các Hiền
giả, là bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.
Và này các Hiền
giả, thế nào là không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại? Ở đây, này
các Hiền giả, có vị Ða văn Thánh đệ tử đi đến các bậc Thánh, thuần
thục pháp các bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, đi đến các bậc Chân
nhân, thuần thục pháp các bậc Chân nhân, tu tập pháp các bậc Chân nhân.
Vị này không quán sắc là tự ngã, không quán tự ngã là có sắc, không quán
sắc là trong tự ngã, không quán tự ngã trong sắc; không quán thọ... không
quán tưởng... không quán hành... không quán thức là tự ngã, không quán tự
ngã là có thức, không quán thức trong tự ngã, không quán tự ngã trong
thức. Như vậy, này các Hiền giả, là không bị lôi cuốn trong các pháp hiện
tại.
Quá khứ không truy
tìm
Tương lai không
ước vọng.
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại
chưa đến,
Chỉ có pháp hiện
tại
Tuệ quán chính ở
đây.
Không động, không
rung chuyển
Biết vậy, nên tu tập,
Hôm nay nhiệt tâm
làm,
Ai biết chết ngày
mai?
Không ai điều đình
được,
Với đại quân thần
chết,
Trú như vậy nhiệt
tâm,
Ðêm ngày không mệt
mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ
Hiền,
Bậc an tịnh, trầm
lặng.
Như vậy, bạch Thế
Tôn, con đã thuyết thị, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các
Tỷ-kheo. Con đã giảng Nhứt Dạ Hiền Giả, tổng thuyết và biệt thuyết.
-- Lành thay, lành
thay, này Ānanda! Lành thay, này Ānanda! Ông đã thuyết thị, khích lệ, làm
cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các Tỷ-kheo với bài thuyết pháp. Ông đã
giảng Nhứt Dạ Hiền Giả, tổng thuyết và biệt thuyết.
Quá khứ không truy
tìm
Tương lai không
ước vọng.
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại
chưa đến,
Chỉ có pháp hiện
tại
Tuệ quán chính ở
đây.
Không động, không
rung chuyển
Biết vậy, nên tu tập,
Hôm nay nhiệt tâm
làm,
Ai biết chết ngày
mai?
Không ai điều đình
được,
Với đại quân thần
chết,
Trú như vậy nhiệt
tâm,
Ðêm ngày không mệt
mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ
Hiền,
Bậc an tịnh, trầm
lặng.
-- Và thế nào, này Ānanda,
thế nào là truy tìm quá khứ? Vị ấy nghĩ: "Như vậy là sắc của tôi
trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy; "Như vậy là
thọ của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy;
"Như vậy là tưởng của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân
hoan trong ấy; "Như vậy là hành của tôi trong quá khứ", và truy
tìm sự hân hoan trong ấy, "Như vậy, là thức của tôi trong quá
khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này Ananda, là truy
tìm quá khứ.
Và này Ānanda, thế
nào là không truy tìm quá khứ? Vị ấy nghĩ: "Như vậy là sắc của tôi
trong quá khứ", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy; "Như vậy
là thọ của tôi trong quá khứ", và không truy tìm sự hân hoan trong
ấy; "Như vậy là tưởng của tôi... Như vậy là hành của tôi... Như
vậy là thức của tôi trong quá khứ"; và không truy tìm sự hân hoan
trong ấy. Như vậy, này Ānanda, là không truy tìm quá khứ.
Và này Ānanda, thế
nào ước vọng tương lai? Vị ấy nghĩ: "Mong rằng như vậy sẽ là
sắc của tôi trong tương lai", và truy tìm sự hân hoan trong ấy;
"Mong rằng như vậy sẽ là thọ của tôi trong tương lai", và
truy tìm sự hân hoan trong ấy; "Mong rằng như vậy là tưởng của
tôi... là hành của tôi... Như vậy là thức của tôi trong tương lai",
và truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này Ānanda, là ước vọng trong
tương lai.
Và này Ānanda, thế
nào là không ước vọng trong tương lai? Vị ấy nghĩ: "Mong rằng
như vậy sẽ là sắc của tôi trong tương lai", và không truy tìm hân
hoan trong ấy; "Mong rằng như vậy sẽ là thọ của tôi trong tương
lai", và không truy tìm hân hoan trong ấy; "Mong rằng như vậy sẽ
là tưởng... sẽ là hành... sẽ là thức của tôi trong tương lai, "và
không truy tìm hân hoan trong ấy. Như vậy, này Ānanda, là ước vọng trong
tương lai.
Và này Ānanda, như
thế nào là bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại? Ở đây, này Ānanda, có kẻ
vô văn phàm phu không đi đến các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc
Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh; không đi đến các bậc Chân nhân,
không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân
nhân; quán sắc là tự ngã, hay quán tự ngã là có sắc, hay quán sắc là trong
tự ngã, hay quán tự ngã là trong sắc, hay vị ấy quán thọ là tự ngã, hay
quán tự ngã là có thọ; hay quán thọ là trong tự ngã, hay quán tự ngã là
trong thọ, hay vị ấy quán tưởng là trong tự ngã, hay quán tự ngã là có
tưởng, hay vị ấy quán tưởng là tự ngã, hay quán tự ngã là có tưởng,
hay vị ấy quán hành là tự ngã, hay vị ấy quán tự ngã là có hành, hay vị
ấy quán hành là trong tự ngã, hay vị ấy quán tự ngã là trong hành; hay vị
ấy quán thức là tự ngã, hay quán tự ngã là có thức, hay quán thức là
trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong thức. Như vậy, này Ānanda, là bị
lôi cuốn trong các pháp hiện tại.
Và này Ānanda, thế
nào là không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại? Ở đây, này Ānanda, có
vị Ða văn Thánh đệ tử đi đến các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc
Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, đi đến các bậc Chân nhân, thuần thục
pháp các bậc Chân nhân, tu tập pháp các bậc Chân nhân. Vị này không quán
sắc là tự ngã, không quán tự ngã là có sắc, không quán sắc là trong tự
ngã, không quán tự ngã trong sắc; không quán thọ... không quán tưởng...
không quán hành... không quán thức là tự ngã, không quán tự ngã là có thức,
không quán thức trong tự ngã, không quán tự ngã trong thức. Như vậy, này Ānanda,
là không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.
Quá khứ không truy
tìm
Tương lai không
ước vọng.
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa
đến,
Chỉ có pháp hiện
tại
Tuệ quán chính ở
đây.
Không động, không
rung chuyển
Biết vậy, nên tu tập,
Hôm nay nhiệt tâm
làm,
Ai biết chết ngày
mai?
Không ai điều đình
được,
Với đại quân thần
chết,
Trú như vậy nhiệt
tâm,
Ðêm ngày không mệt
mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ
Hiền,
Bậc an tịnh, trầm
lặng.
Thế Tôn thuyết
giảng như vậy. Tôn giả Ānanda hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ Kheo
Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 132 [tóm tắt]
A-Nan Nhứt
Dạ Hiền Giả Kinh
(Ānandabhaddekaratta
Sutta)
(M.iii, 189)
Kinh này nhắc lại
kinh số 131, nhưng thay vì đức Phật thuyết, thì ở đây lại do Tôn giả
Ānanda thuyết cho chúng Tỷ-kheo, làm cho chúng Tỷ-kheo phấn khởi, hoan
hỷ với bài thuyết pháp. Khi đức Thế Tôn biết Tôn giả Ānanda đã thuyết
giảng kinh này cho chúng Tỷ-kheo, Ngài tỏ lời tán thán và nhắc lại giải
thích của Ngài về truy tầm quá khứ, ước vọng tương lai và bị lôi
cuốn trong hiện tại, như ở kinh 131. Thế Tôn giảng xong, Tôn giả
Ānanda hoan hỷ tín thọ.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 132 [dàn
ý]
A-Nan Nhứt
Dạ Hiền Giả Kinh
(Ānandabhaddekaratta
Sutta)
(M.iii, 189)
A. Duyên khởi:
Tôn giả Ānanda tại hội
trường thuyết pháp, khích lệ, sách tấn các Tỷ-kheo với bài kinh nhất dạ hiền giả.
Thế Tôn đến hỏi Tôn giả Ānanda đã thuyết giảng như thế nào.
B. Chánh kinh:
I. Tôn giả nanda trả lời là đã thuyết
về tổng thuyết và biệt thuyết đề tài này.
II. Thế Tôn giảng cho Ānanda bài
kinh này:
1.Tổng thuyết.
2.Biệt thuyết:
a.
Thế nào là truy tìm
quá khứ.
b.
Thế nào là không truy
tìm quá khứ.
c.
Thế nào là ước vọng
tương lai.
d.
Thế nào là không ước
vọng tương lai.
e.
Thế nào là bị lôi cuốn
trong các pháp hiện tại.
f.
Thế nào là không bị
lôi cuốn trong các pháp hiện tại.
C. Kết luận:
Tôn già Ānanda hoan hỷ tín thọ lời
dạy của Thế Tôn.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 132 [toát
yếu]
A-Nan Nhứt
Dạ Hiền Giả Kinh
(Ānandabhaddekaratta
Sutta)
(M.iii, 189)
I.
Toát yếu
II.
Tóm tắt
III.
Chú giải
(Toát
yếu, Tóm tắt và Chú giải như kinh số 131)
IV.
Pháp số
(không
có)
V.
Kệ tụng
Kinh
này giống kinh trên
Do
A-nan trùng tuyên
Cho
tỷ kheo tăng chúng
Những
gì Phật đã dạ
132.
Ānandabhaddekarattasuttaṃ [Mūla]
276. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ samayaṃ Bhagavā
sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Tena kho pana samayena
āyasmā ānando upaṭṭhānasālāyaṃ bhikkhūnaṃ dhammiyā kathāya sandasseti
samādapeti samuttejeti sampahaṃseti,
bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca bhāsati. Atha kho Bhagavā sāyanhasamayaṃ
paṭisallānā vuṭṭhito yenupaṭṭhānasālā tenupasaṅkami upasaṅkamitvā paññatte
āsane nisīdi. Nisajja kho Bhagavā bhikkhū āmantesi : ''ko nu kho,
bhikkhave, upaṭṭhānasālāyaṃ bhikkhūnaṃ dhammiyā kathāya sandassesi samādapesi
samuttejesi sampahaṃsesi, bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca abhāsīti?
''āyasmā, bhante, ānando upaṭṭhānasālāyaṃ bhikkhūnaṃ dhammiyā kathāya
sandassesi samādapesi samuttejesi sampahaṃsesi, bhaddekarattassa uddesañca
vibhaṅgañca abhāsīti. Atha kho Bhagavā āyasmantaṃ ānandaṃ āmantesi :
''yathā kathaṃ pana tvaṃ, ānanda, bhikkhūnaṃ dhammiyā kathāya sandassesi
samādapesi samuttejesi sampahaṃsesi , bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca
abhāsīti? ''evaṃ kho ahaṃ, bhante, bhikkhūnaṃ dhammiyā kathāya sandassesiṃ
samādapesiṃ samuttejesiṃ sampahaṃsesiṃ, bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca
abhāsiṃ :
''Atītaṃ
nānvāgameyya, nappaṭikaṅkhe anāgataṃ.
Yadatītaṃ pahīnaṃ taṃ, appattañca anāgataṃ..
''Paccuppannañca yo dhammaṃ, tattha tattha vipassati.
Asaṃhīraṃ asaṃkuppaṃ, taṃ vidvā manubrūhaye..
''Ajjeva
kiccamātappaṃ, ko jaññā maraṇaṃ suve.
Na hi no saṅgaraṃ tena, mahāsenena maccunā..
''Evaṃ vihāriṃ ātāpiṃ, ahorattamatanditaṃ.
Taṃ ve bhaddekarattoti, santo ācikkhate muni..
277. ''Kathañca, āvuso, atītaṃ anvāgameti? evaṃrūpo ahosiṃ atītamaddhānanti
tattha nandiṃ samanvāneti, evaṃvedano ahosiṃ atītamaddhānanti tattha nandiṃ
samanvāneti, evaṃsañño ahosiṃ atītamaddhānanti tattha nandiṃ samanvāneti, evaṃsaṅkhāro
ahosiṃ atītamaddhānanti tattha nandiṃ samanvāneti, evaṃviññāṇo ahosiṃ atītamaddhānanti
tattha nandiṃ samanvāneti : evaṃ kho, āvuso, atītaṃ anvāgameti. ''Kathañca,
āvuso, atītaṃ nānvāgameti? evaṃrūpo ahosiṃ atītamaddhānanti tattha nandiṃ na
samanvāneti, evaṃvedano ahosiṃ atītamaddhānanti tattha nandiṃ na samanvāneti,
evaṃsañño ahosiṃ atītamaddhānanti tattha nandiṃ na samanvāneti, evaṃsaṅkhāro
ahosiṃ atītamaddhānanti tattha nandiṃ na samanvāneti, evaṃviññāṇo ahosiṃ atītamaddhānanti tattha nandiṃ na samanvāneti
: evaṃ kho, āvuso, atītaṃ nānvāgameti. ''Kathañca, āvuso, anāgataṃ paṭikaṅkhati?
evaṃrūpo siyaṃ anāgatamaddhānanti tattha nandiṃ samanvāneti, evaṃvedano siyaṃ -
pe - evaṃsañño siyaṃ... evaṃsaṅkhāro
siyaṃ... evaṃviññāṇo siyaṃ anāgatamaddhānanti tattha nandiṃ samanvāneti
: evaṃ kho, āvuso, anāgataṃ paṭikaṅkhati. ''Kathañca, āvuso, anāgataṃ nappaṭikaṅkhati?
evaṃrūpo siyaṃ anāgatamaddhānanti tattha nandiṃ na samanvāneti, evaṃvedano siyaṃ
- pe - evaṃsañño siyaṃ... evaṃsaṅkhāro siyaṃ... evaṃviññāṇo siyaṃ
anāgatamaddhānanti tattha nandiṃ na samanvāneti : evaṃ kho, āvuso, anāgataṃ
nappaṭikaṅkhati. ''Kathañca, āvuso, paccuppannesu dhammesu saṃhīrati? idha,
āvuso, assutavā puthujjano ariyānaṃ adassāvī ariyadhammassa akovido ariyadhamme
avinīto sappurisānaṃ adassāvī sappurisadhammassa akovido sappurisadhamme avinīto rūpaṃ attato
samanupassati, rūpavantaṃ vā attānaṃ, attani vā rūpaṃ, rūpasmiṃ vā attānaṃ
vedanaṃ... saññaṃ... saṅkhāre... viññāṇaṃ attato samanupassati, viññāṇavantaṃ
vā attānaṃ, attani vā viññāṇaṃ, viññāṇasmiṃ vā attānaṃ : evaṃ kho, āvuso,
paccuppannesu dhammesu saṃhīrati. ''Kathañca , āvuso, paccuppannesu dhammesu na
saṃhīrati? idha, āvuso, sutavā ariyasāvako ariyānaṃ dassāvī ariyadhammassa
kovido ariyadhamme suvinīto sappurisānaṃ dassāvī sappurisadhammassa kovido
sappurisadhamme suvinīto na rūpaṃ attato samanupassati, na rūpavantaṃ vā attānaṃ,
na attani vā rūpaṃ, na rūpasmiṃ vā attānaṃ na vedanaṃ... na saññaṃ... na saṅkhāre...
na viññāṇaṃ attato samanupassati, na viññāṇavantaṃ vā attānaṃ, na attani vā
viññāṇaṃ, na viññāṇasmiṃ vā attānaṃ : evaṃ kho, āvuso, paccuppannesu dhammesu
na saṃhīrati.
''Atītaṃ
nānvāgameyya, nappaṭikaṅkhe anāgataṃ.
Yadatītaṃ pahīnaṃ taṃ, appattañca anāgataṃ..
''Paccuppannañca yo dhammaṃ, tattha tattha vipassati.
Asaṃhīraṃ asaṃkuppaṃ, taṃ vidvā manubrūhaye..
''Ajjeva kiccamātappaṃ, ko jaññā maraṇaṃ suve.
Na hi no saṅgaraṃ tena, mahāsenena maccunā..
''Evaṃ vihāriṃ ātāpiṃ, ahorattamatanditaṃ.
Taṃ ve bhaddekarattoti, santo ācikkhate munīti.. ''Evaṃ kho ahaṃ, bhante, bhikkhūnaṃ dhammiyā kathāya
sandassesiṃ samādapesiṃ samuttejesiṃ sampahaṃsesiṃ, bhaddekarattassa uddesañca
vibhaṅgañca abhāsinti.
278. ''Sādhu , sādhu, ānanda! sādhu
kho tvaṃ, ānanda, bhikkhūnaṃ dhammiyā kathāya sandassesi samādapesi samuttejesi
sampahaṃsesi, bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca abhāsi :
''Atītaṃ nānvāgameyya - pe -
Taṃ ve bhaddekarattoti, santo ācikkhate munīti..
''Kathañca, ānanda, atītaṃ anvāgameti - pe - evaṃ kho, ānanda, atītaṃ
anvāgameti. Kathañca, ānanda, atītaṃ nānvāgameti - pe - evaṃ kho, ānanda, atītaṃ
nānvāgameti. Kathañca, ānanda, anāgataṃ paṭikaṅkhati - pe - evaṃ kho, ānanda,
anāgataṃ paṭikaṅkhati. Kathañca, ānanda, anāgataṃ nappaṭikaṅkhati - pe - evaṃ
kho, ānanda, anāgataṃ nappaṭikaṅkhati. Kathañca, ānanda, paccuppannesu dhammesu
saṃhīrati - pe - evaṃ kho, ānanda, paccuppannesu dhammesu saṃhīrati. Kathañca,
ānanda, paccuppannesu dhammesu na saṃhīrati - pe - evaṃ kho, ānanda,
paccuppannesu dhammesu na saṃhīrati.
''Atītaṃ nānvāgameyya - pe -
Taṃ ve bhaddekarattoti, santo ācikkhate munīti..
Idamavoca Bhagavā. Attamano āyasmā ānando bhagavato bhāsitaṃ
abhinandīti.
Ānandabhaddekarattasuttaṃ niṭṭhitaṃ dutiyaṃ.
-ooOoo-
132. Ānandabhaddekarattasuttavaṇṇanā
[Atthakathā]
276. Evaṃ me
sutanti ānandabhaddekarattasuttaṃ. Tattha paṭisallānā vuṭṭhitoti
phalasamāpattito vuṭṭhito. Ko nu kho, bhikkhaveti jānantova kathāsamuṭṭhāpanatthaṃ
pucchi.
278. Sādhu sādhūti
therassa sādhukāramadāsi. Sādhu kho tvanti parimaṇḍalehi padabyañjanehi
parisuddhehi kathitattā desanaṃ pasaṃsanto āha. Sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Ānandabhaddekarattasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
-ooOoo-
Lớp Phật Pháp Buddhadhamma
Giáo trình TRUNG BỘ KINH – MAJJHIMÀ NIKÀYA
Bài
học ngày 27.5.2020 /
Phân đoạn [113..- 113…]
(Mahàkaccànabhaddekaratta
Sutta)
Như vầy tôi nghe.
-- Này Tỷ-kheo, Ngài có thọ trì
tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền Giả không?
-- Này Hiền giả, tôi không có
thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền Giả. Nhưng này
Hiền giả, Hiền giả có thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ
Hiền Giả không?
-- Này Tỷ-kheo, tôi cũng không
có thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền Giả. Nhưng này
Tỷ-kheo, Ngài có thọ trì bài kệ về Nhứt Dạ Hiền Giả không?
-- Này Hiền giả, tôi không có
thọ trì bài kệ về Nhứt Dạ Hiền Giả. Nhưng này Hiền giả, Hiền giả có
thọ trì bài kệ về Nhứt Dạ Hiền Giả không?
-- Này Tỷ-kheo, tôi không có
thọ trì bài kệ về Nhứt Dạ Hiền Giả. Này Tỷ-kheo, hãy học tổng thuyết
và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền Giả. Này Tỷ-kheo, hãy học cho thuần
thục tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền Giả. Này Tỷ-kheo hãy
thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền Giả. Vì rằng, này
Tỷ-kheo, tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền Giả là liên hệ
đến mục đích và căn bản của Phạm hạnh.
Thiên thần ấy nói như vậy.
Sau khi nói vậy, vị ấy biến mất ở đấy. Rồi Tôn giả Samiddhi sau khi
đêm ấy đã mãn, liền đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi
ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên Tôn giả Samiddhi bạch Thế Tôn :
-- Ở đây, bạch Thế Tôn, con
thức dậy vừa lúc bình mình đi đến Tapoda để tắm rửa tay chân. Tắm rửa
tay chân ở Tapoda xong, sau khi lên khỏi (nước), con đứng mặc một y để
tay chân cho khô. Rồi bạch Thế Tôn, sau khi đêm vừa mãn một Thiên thần,
chói sáng với dung sắc thù thắng cả vùng Tapoda, ... và là căn bản Phạm
hạnh". Thiên thần ấy nói như vậy. Sau khi nói như vậy, vị ấy
biến mất ở đấy. Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết giảng cho
tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền Giả!
-- Vậy này Tỷ-kheo, hãy nghe và
suy nghiệm kỹ Ta sẽ nói.
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Samiddhi vâng đáp Thế
Tôn. Thế Tôn nói như sau :
Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng.
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến,
Chỉ có pháp hiện tại
Tuệ quán chính ở đây.
Không động, không rung chuyển
Biết vậy, nên tu tập,
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai?
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết,
Trú như vậy nhiệt tâm,
Ðêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ Hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.
Thế Tôn nói như vậy. Sau khi
nói như vậy, Thiện Thệ từ chỗ ngồi đứng dậy và đi vào tinh xá, Rồi
các Tỷ-kheo ấy, sau khi Thế Tôn đi không bao lâu, liền suy nghĩ: "Này
chư Hiền, Thế Tôn sau khi thuyết giảng phần tổng thuyết một cách vắn
tắt cho chúng ta không giải nghĩa một cách rộng rãi, từ chỗ ngồi đứng
dậy và đi vào tịnh xá :
Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng.
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến,
Chỉ có pháp hiện tại
Tuệ quán chính ở đây.
Không động, không rung chuyển
Biết vậy, nên tu tập,
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai?
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết,
Trú như vậy nhiệt tâm,
Ðêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ Hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.
Nay không biết ai có thể giải
nghĩa một cách rộng rãi tổng thuyết này, phần này chỉ được Thế Tôn
nói lên một cách vắn tắt, không được giải nghĩa một cách rộng
rãi".
Rồi các Tỷ-kheo ấy suy nghĩ
như sau: "Tôn giả Mahākaccāna (Ðại Ca-chiên-diên) này đã được Thế
Tôn tán thán và được các đồng Phạm hạnh có trí kính trọng; Tôn giả
Mahakaccana có thể giải nghĩa một cách rộng rãi tổng thuyết này, phần
này chỉ được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không giải nghĩa một
cách rộng rãi. Vậy chúng ta hãy đến Tôn giả Mahākaccāna, sau khi đến chúng
ta hãy hỏi Tôn giả Mahākaccāna về ý nghĩa này".
Rồi các Tỷ-kheo ấy đi đến Tôn
giả Mahākaccāna, sau khi đến nói lên với Tôn giả Mahākaccāna những lời
chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu,
rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy thưa với
Tôn giả Mahākaccāna :
-- Thưa Hiền giả Kaccāna,
Thế Tôn sau khi đọc tổng thuyết này, không giải nghĩa một cách rộng
rãi, từ chỗ ngồi đứng dậy và đi vào tinh xá :
Quá khứ không truy
tìm
Tương lai không
ước vọng.
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại
chưa đến,
Chỉ có pháp hiện
tại
Tuệ quán chính ở
đây.
Không động, không
rung chuyển
Biết vậy, nên tu tập,
Hôm nay nhiệt tâm
làm,
Ai biết chết ngày
mai?
Không ai điều đình
được,
Với đại quân thần
chết,
Trú như vậy nhiệt
tâm,
Ðêm ngày không mệt
mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ
Hiền,
Bậc an tịnh, trầm
lặng.
Nay không biết ai có
thể giải nghĩa một cách rộng rãi tổng thuyết này, phần này chỉ được
Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không được giải nghĩa một cách rộng
rãi. Rồi này Hiền giả Kaccana, chúng tôi suy nghĩ như sau: "Tôn giả
Mahākaccāna này đã được Thế Tôn tán thán ... chúng ta hãy hỏi Tôn giả Mahākaccāna
về ý nghĩa này". Tôn giả Mahākaccāna hãy giải thích cho.
-- Này chư Hiền, ví
như một người cần thiết lõi cây, tìm cầu lõi cây, đang đi tìm cầu lõi
cây, đứng trước một cây lớn có lõi cây. Người ấy bỏ rễ, bỏ thân cây,
nghĩ rằng lõi cây cần phải tìm trong các nhánh cây, lá cây. Cũng vậy, là
việc làm của chư Tôn giả... Chư Tôn giả đứng trước mặt Thế Tôn, chư
Tôn giả lại vượt qua Thế Tôn, và nghĩ rằng cần phải hỏi tôi về ý
nghĩa này. Nhưng này chư Hiền, Thế Tôn biết những gì cần biết, thấy
những gì cần thấy, bậc có mắt, bậc Trí giả, bậc Pháp giả, bậc Phạm
thiên, bậc Thuyết giả, bậc Tuyên thuyết giả, bậc dẫn đến mục đích, bậc
đem cho bất tử, bậc Pháp chủ, bậc Như Lai. Nay đã đến thời chư Hiền
hãy đến hỏi Thế Tôn về ý nghĩa này. Thế Tôn giải thích cho chư Hiền
như thế nào, chư Hiền hãy như vậy thọ trì.
-- Thưa Hiền giả
Kaccāna, chắc chắn Thế Tôn biết những gì cần biết, thấy những gì cần
thấy, bậc có mắt, bậc Trí giả, bậc Pháp giả, bậc Phạm thiên, bậc
Thuyết giả, bậc Tuyên thuyết giả, bậc dẫn đến mục đích, bậc đem cho
bất tử, bậc Pháp chủ, bậc Như Lai.. Nay đã đến thời chúng tôi đến hỏi
Thế Tôn về ý nghĩa này. Thế Tôn giải thích cho chúng tôi như thế nào,
chúng tôi sẽ như vậy thọ trì. Nhưng Tôn giả Mahākaccāna được Thế Tôn
tán thán, được các vị đồng Phạm hạnh kính trọng. Tôn giả Mahākaccāna có
thể giải thích một cách rộng rãi tổng thuyết này, phần này chỉ được
Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không được giải nghĩa một cách rộng
rãi. Mong Tôn giả Mahākaccāna giải thích cho nếu Tôn giả không cảm thấy
phiền phức.
-- Vậy chư hiền,
hãy nghe và suy nghiệm kỹ, tôi sẽ nói.
-- Thưa vâng, Hiền
giả.
Các Tỷ-kheo ấy vâng
đáp Tôn giả Māhakaccāna. Tôn giả Mahākaccāna nói như sau :
-- Này Hiền giả,
phần tổng thuyết Thế Tôn đọc lên một cách vắn tắt, không giải nghĩa một
cách rộng rãi, từ chỗ ngồi đứng dậy và đã đi vào trong tinh xá:
Quá khứ không truy
tìm
Tương lai không
ước vọng.
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại
chưa đến,
Chỉ có pháp hiện
tại
Tuệ quán chính ở
đây.
Không động, không
rung chuyển
Biết vậy, nên tu tập,
Hôm nay nhiệt tâm
làm,
Ai biết chết ngày
mai?
Không ai điều đình
được,
Với đại quân thần
chết,
Trú như vậy nhiệt
tâm,
Ðêm ngày không mệt
mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ
Hiền,
Bậc an tịnh, trầm
lặng.
Về phần tổng
thuyết này chỉ được Thế Tôn đọc lên một cách vắn tắt, không được
giải nghĩa một cách rộng rãi, này chư Hiền, tôi hiểu ý nghĩa một cách
rộng rãi như sau :
Này chư Hiền, thế
nào là truy tìm quá khứ? "Mắt của tôi trong thời quá khứ là như vậy,
các sắc pháp là như vậy", và thức ở đây bị ái và dục trói chặt. Vì
thức bị dục và ái trói chặt, vị ấy hân hoan trong ấy. Vì hân hoan trong
ấy, vị ấy truy tìm quá khứ. "Tai của tôi trong quá khứ là như vậy,
các tiếng là như vậy"... "Mũi của tôi trong quá khứ là như vậy,
các hương là như vậy"... "Lưỡi của tôi trong quá khứ là như
vậy, các vị là như vậy"... "Thân của tôi trong quá khứ là như
vậy, các xúc là như vậy"... "Ý của tôi trong quá khứ là như vậy,
các pháp là như vậy", và thức ở đây, bị dục và ái trói chặt. Vì
rằng thức bị dục và ái trói chặt, vị ấy hân hoan trong ấy. Vì hân hoan
trong ấy, vị ấy truy tìm quá khứ.
Và này chư Hiền,
thế nào là không truy tìm quá khứ? "Mắt của tôi trong thời quá khứ
là như vậy, các sắc pháp là như vậy", và thức ở đây không bị dục
và ái trói chặt. Vì thức không bị dục và ái trói chặt, vị ấy không hân
hoan trong ấy. Vì không hân hoan trong ấy, vị ấy không truy tìm quá khứ.
"Tai của tôi trong quá khứ là như vậy, các tiếng là như vậy",...
"Mũi của tôi trong quá khứ là như vậy, các hương là như vậy",...
"Lưỡi của tôi trong quá khứ là như vậy, các vị là như vậy",...
"Thân của tôi trong quá khứ là như vậy, các xúc là như vậy",
... "Ý của tôi trong quá khứ là như vậy. các pháp là như vậy",
và thức ở đây không bị dục và ái trói chặt. Vì thức không bị dục và ái
trói chặt, vị ấy không hân hoan trong ấy. Vì không hân hoan trong ấy, vị
ấy không truy tìm quá khứ. Như vậy, này chư Hiền, là không truy tìm quá
khứ.
Và này chư Hiền,
thế nào là ước vọng tương lai? "Mong rằng mắt của tôi trong
tương lai sẽ là như vậy, các sắc pháp là như vậy", và vị ấy
hướng tâm lấy cho được cái gì chưa được. Vì duyên hướng tâm như vậy,
vị ấy hân hoan trong ấy. Do hân hoan trong ấy, vị ấy ước vọng tương
lai. "Mong rằng tai của tôi trong tương lai sẽ là như vậy, các
tiếng là như vậy",... "Mong rằng mũi của tôi trong tương lai
sẽ là như vậy, các hương là như vậy",... "Mong rằng lưỡi
của tôi trong tương lai sẽ là như vậy, các vị là như vậy",...
"Mong rằng thân của tôi trong tương lai sẽ là như vậy, các xúc là
như vậy",... "Mong rằng ý của tôi trong tương lai sẽ là như vậy,
các pháp là như vậy", và vị ấy hướng tâm lấy cho được cái gì
chưa được. Vì duyên hướng tâm như vậy, vị ấy hân hoan trong ấy. Do
hân hoan trong ấy, vị ấy ước vọng tương lai. Như vậy, này chư Hiền
là ước vọng tương lai.
Và này chư Hiền,
thế nào là không ước vọng tương lai? "Mong rằng mắt của tôi trong
tương lai sẽ là như vậy, các sắc pháp là như vậy", vị ấy không
hướng tâm lấy cho được cái gì chưa được. Do duyên không hướng tâm,
vị ấy không hân hoan trong ấy, vị ấy không có ước vọng tương lai.
"Mong rằng tai của tôi trong tương lai sẽ là như vậy, các tiếng là
như vậy",... "Mong rằng mũi của tôi trong tương lai sẽ là
như vậy, các hương là như vậy", ... "Mong rằng lưỡi của tôi
trong tương lai sẽ là như vậy, các vị là như vậy",... "Mong
rằng thân của tôi trong tương lai sẽ là như vậy, các xúc là như vậy",
... "Mong rằng ý của tôi trong tương lai sẽ là như vậy, các pháp là
như vậy", vị ấy không hướng tâm lấy cho được cái gì chưa được.
Do duyên không hướng tâm, vị ấy không hân hoan trong ấy. Do không hân hoan
trong ấy, vị ấy không có ước vọng tương lai. Như vậy, này chư Hiền,
là không ước vọng tương lai.
Và này chư Hiền,
thế nào là bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại? Này chư Hiền, nếu mắt
và các sắc pháp, cả hai đều có mặt trong hiện tại này, và thức của vị
ấy bị dục và ái trói chặt cũng trong hiện tại này. Vì thức của vị ấy
bị dục và ái trói chặt, vị ấy hân hoan trong ấy. Do hân hoan trong ấy,
vị ấy bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại. Này chư Hiền, nếu tai và
các tiếng... nếu mũi và các hương ... nếu lưỡi và các vị... nếu thân
và các xúc... Này chư Hiền nếu ý và các pháp, cả hai đều có mặt trong hiện
tại này, và thức của vị ấy bị dục và ái trói chặt cũng trong hiện
tại này. Vì thức của vị ấy bị dục và ái trói chặt, vị ấy hân hoan
trong ấy. Do hân hoan trong ấy, vị ấy bị lôi cuốn trong các pháp hiện
tại. Như vậy, này chư Hiền, là bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.
Và này chư Hiền,
thế nào là không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại? Này chư Hiền, nếu
mắt và các sắc pháp, cả hai đều có mặt trong hiện tại này, và thức của
vị ấy không bị dục và ái trói chặt cũng trong hiện tại này. Vì thức
của vị ấy không bị dục và ái trói chặt, vị ấy không hân hoan trong ấy.
Do không hân hoan trong ấy, vị ấy không bị lôi cuốn trong các pháp hiện
tại. Này chư Hiền, nếu tai và các tiếng... Này chư Hiền, nếu mũi và
các hương... Này chư Hiền, nếu lưỡi và các vị... Này chư Hiền, nếu
thân và các xúc... Này chư Hiền, nếu ý và các pháp, cả hai đều có mặt
trong hiện tại này, và thức của vị ấy không bị dục và ái trói chặt
cũng trong hiện tại này. Vì thức của vị ấy không bị dục và ái trói chặt,
vị ấy không hân hoan trong ấy. Do không hân hoan trong ấy, vị ấy không
bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại. Như vậy, này chư Hiền là không bị
lôi cuốn trong các pháp hiện tại.
Này chư Hiền, phần
tổng thuyết Thế Tôn đọc lên một cách vắn tắt, không giải nghĩa một
cách rộng rãi, từ chỗ ngồi đứng dậy và đã đi vào trong tinh xá :
Quá khứ không truy
tìm
Tương lai không
ước vọng.
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại
chưa đến,
Chỉ có pháp hiện
tại
Tuệ quán chính ở
đây.
Không động, không
rung chuyển
Biết vậy, nên tu tập,
Hôm nay nhiệt tâm
làm,
Ai biết chết ngày
mai?
Không ai điều đình
được,
Với đại quân thần
chết,
Trú như vậy nhiệt
tâm,
Ðêm ngày không mệt
mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ
Hiền,
Bậc an tịnh, trầm
lặng.
Phần tổng thuyết
này, này chư Hiền, được Thế Tôn đọc lên một cách vắn tắt, không được
giải nghĩa một cách rộng rãi; này chư Hiền, tôi hiểu ý nghĩa một cách
rộng rãi như vậy. Và nếu chư Tôn giả muốn, hãy đi đến Thế Tôn và hỏi
ý nghĩa này. Thế Tôn giải thích các Tôn giả như thế nào, hãy như vậy
thọ trì.
Rồi các Tỷ-kheo
ấy, sau khi hoan hỷ tín thọ lời Tôn giả Mahākaccāna giảng, từ chỗ ngồi
đứng dậy đi đến Thế Tôn; sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống
một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn :
-- Bạch Thế Tôn,
Thế Tôn sau khi đọc phần tổng thuyết một cách vắn tắt cho chúng con,
không giải nghĩa một cách rộng rãi, từ chỗ ngồi đứng dậy, và đi vào tinh
xá :
Quá khứ không truy
tìm
Tương lai không
ước vọng.
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại
chưa đến,
Chỉ có pháp hiện
tại
Tuệ quán chính ở
đây.
Không động, không
rung chuyển
Biết vậy, nên tu tập,
Hôm nay nhiệt tâm
làm,
Ai biết chết ngày
mai?
Không ai điều đình
được,
Với đại quân thần
chết,
Trú như vậy nhiệt
tâm,
Ðêm ngày không mệt
mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ
Hiền,
Bậc an tịnh, trầm
lặng.
Bạch Thế Tôn, sau
khi Thế Tôn đi không bao lâu, chúng con suy nghĩ như sau : "Thế Tôn
sau khi đọc phần tổng thuyết một cách vắn tắt cho chúng con, không giải
nghĩa một cách rộng rãi, và đã đi vào tinh xá :
Quá khứ không truy
tìm
Tương lai không
ước vọng.
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại
chưa đến,
Chỉ có pháp hiện
tại
Tuệ quán chính ở
đây.
Không động, không
rung chuyển
Biết vậy, nên tu tập,
Hôm nay nhiệt tâm
làm,
Ai biết chết ngày
mai?
Không ai điều đình
được,
Với đại quân thần
chết,
Trú như vậy nhiệt
tâm,
Ðêm ngày không mệt
mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ
Hiền,
Bậc an tịnh, trầm
lặng.
Nay không biết ai có
thể giải nghĩa một cách rộng rãi tổng thuyết này, phần này chỉ được
Thế Tôn đọc lên một cách vắn tắt, không được giải nghĩa một cách rộng
rãi".
Rồi bạch Thế Tôn,
chúng con suy nghĩ như sau : "Tôn giả Mahākaccāna (Ðại Ca chiên diên)
này... chúng ta hãy hỏi Tôn giả Mahākaccāna về ý nghĩa này. "Rồi
bạch Thế Tôn, chúng con đi đến Tôn giả Mahākaccāna, sau khi đến chúng con
hỏi Tôn giả Mahākaccāna về ý nghĩa này. Ý nghĩa của những (chữ) ấy đã
được Tôn giả Mahakaccana giải thích cho chúng con với những phương pháp
này, các những câu này, với những chữ này.
-- Này các Tỷ-kheo, Mahākaccāna
là bậc Hiền trí. Này các Tỷ-kheo, Mahākaccāna là bậc Ðại trí tuệ. Này các
Tỷ-kheo nếu các Ông hỏi Ta về ý nghĩa này, Ta cũng giải thích cho các
Ông như vậy, như Mahākaccāna đã giải thích. Thật sự ý nghĩa ấy là vậy,
và các Ông hãy thọ trì như vậy.
Thế Tôn thuyết
giảng như vậy. Các Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ Kheo
Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 133 [tóm tắt]
Kinh Đại
Ca-Chiên-Diên Nhứt Dạ Hiền Giả
(Mahākaccānabhaddekaratta
Sutta)
(M.iii, 192)
Tôn giả Samiddhi
được một vị Thiên thần xuất hiện khuyên hãy học kỹ và thọ trì tổng
thuyết và biệt thuyết về Nhứt dạ hiền giả, khuyên xong thì biến mất.
Tôn giả đi đến Thế Tôn xin Ngài giảng giải. Thế Tôn nói lên một bài kệ
vắn tắt, đại ý bảo người tinh cần tu tập “Quá khứ không truy tầm,
tương lai không ước vọng; tuệ quán pháp hiện tại”, an trú ngày đêm như
vậy thì được bất động, xứng đáng bậc hiền giả. Thế Tôn dạy xong bài
kệ vắn tắt liền đi vào tịnh xá.
Các Tỷ-kheo tìm tới
Tôn giả Ca-chiên-diên, thỉnh cầu Tôn giả giải thích rộng rãi ý nghĩa bài
kệ. Tôn giả giải thích như sau:
Truy tầm quá khứ là
khi vị ấy nghĩ: “Mắt của tôi như vậy trong quá khứ, các sắc pháp như
vậy” và thức bị ái dục trói chặt, sinh ra hân hoan, do hân hoan, nó truy
tầm quá khứ. Đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp và tai, mũi, lưỡi,
thân, ý, cũng vậy, thức vị ấy bị trói buộc bởi ái và dục, sanh ra hân
hoan; do hân hoan, nó truy tầm quá khứ.
Không truy tầm quá
khứ là khi vị ấy nghĩ: “Mắt của tôi trong quá khứ là như vậy, các sắc
pháp như vậy”, nhưng thức không bị trói buộc trong ái và dục, nên không
sanh hân hoan, do đó, không truy tầm quá khứ. Đối với tai và tiếng, mũi
và mùi, lưỡi và vị, thân và xúc, ý và các pháp, vị ấy cũng nghĩ như
trên nhưng thức không bị ái và dục trói buộc nên không hân hoan, do đó,
không truy tầm quá khứ.
Ước vọng tương
lai là khi vị ấy nghĩ: “Mong rằng mắt của tôi trong tương lai sẽ như
vậy, các sắc pháp như vậy” và nó hướng tâm đạt cho được cái gì chưa
được. Do duyên hướng tâm, nó sanh ra hân hoan, do hân hoan nó ước vọng
tương lai. Đối với tai và tiếng, ý và các pháp cũng vậy.
Không ước vọng
tương lai là khi vị ấy chỉ diễn đạt một niềm ước mong như trên,
nhưng không hướng tâm đạt cho được cái gì chưa được nên không hân hoan
ước vọng tương lai.
Bị lôi cuốn vào các
pháp hiện tại là khi vị ấy mắt thấy sắc, tai nghe tiếng... hiện tại
thức bị trói buộc bởi ái và dục, sanh tâm hân hoan, do đó bị lôi cuốn
trong các pháp hiện tại. Không bị lôi cuốn là khi mắt thấy sắc, tai nghe
tiếng... mà thức không bị ái và dục chi phối, không hân hoan trong ấy.
Sau khi Tôn giả
giảng rộng ý nghĩa bài kệ như trên, các vị Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ và
đến thuật lại với Thế Tôn. Thế Tôn ấn khả những lời giải thích ấy
là đúng như chính Ngài giải thích, và khuyên các Tỷ-kheo thọ trì như vậy.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 133 [dàn
ý]
Kinh Đại
Ca-Chiên-Diên Nhứt Dạ Hiền Giả
(Mahākaccānabhaddekaratta
Sutta)
(M.iii, 192)
A. Duyên khởi:
Một thiên nhân khuyên
Tỷ-kheo Samiddhi nên thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt dạ hiền giả.
Tôn giả đi đến hỏi Thế Tôn, và Thế Tôn nói lên bài kệ ấy rồi đi vào tinh xá.
B. Chánh kinh:
I. Các Tỷ-kheo đến mời Tôn giả Kaccāna
giải thích tổng thuyết và biệt thuyết bài kệ ấy. Ban đầu Tôn giả khiêm tốn chối
từ, sau Tôn giả chấp nhận và thuyết giảng.
II. Tôn giả Kaccāna thuyết giảng:
Phần tổng thuyết.
Phần biệt thuyết:
a. Thế nào là quá khứ có truy tầm và
quá khứ không truy tầm.
b. Thế nào là ước vọng tương lai và
không ước vọng tương lai.
c.
Thế nào là bị lôi cuốn
trong hiện tại và không bị lôi cuốn trong hiện tại.
III. Các Tỷ-kheo tường thuật lại lời
thuyết giảng của Tôn giả Kaccāna lên Thế Tôn. Thế Tôn tán thán Tôn giả Kaccāna
và xác nhận lời thuyết giảng đúng với chánh pháp.
C. Kết luận:
Các Tỷ-kheo hoan hỷ
tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 133 [toát
yếu]
Kinh Đại
Ca-Chiên-Diên Nhứt Dạ Hiền Giả
(Mahākaccānabhaddekaratta
Sutta)
(M.iii, 192)
I. Toát yếu
II. Tóm tắt
(Toát yếu và Tóm tắt như kinh số 131)
III. Chú giải
Trong hai kinh
trước (số 131, 132) và kinh tiếp theo kinh này (số 134), Phật dựa
trên năm uẩn để phân tích, nhưng kinh này Phật cốt đưa ra sáu nội
ngoại xứ. Hiểu tôn ý của Phật, tôn giả Ca-chiên-diên đã giảng
rộng theo chiều hướng ấy.
IV. Pháp số
(không có)
V. Kệ tụng
Tôn giả Xa-mi-đi
Ðược một vị thiên nhân
Ðược một vị thiên nhân
Khuyên thọ trì bài kệ
Về kinh Nhất dạ hiền.
Ông liền đến bên Phật
Xin đọc bài kệ trên
Ðược Thế Tôn đọc lên
Ðược Thế Tôn đọc lên
Ca-chiên-diên giảng rộng.
Thay vì nói năm uẩn
Ngài giảng căn trần thức
Cộng thành mười tám xứ:
Khi căn trần tiếp xúc
Mà thức không bị trói
Bởi sợi dây tham ái
Thì không khởi hân hoan
Mà thức không bị trói
Bởi sợi dây tham ái
Thì không khởi hân hoan
Không truy tìm quá khứ
Không ước vọng tương lai
Cũng không bị cuốn lôi
Vào các pháp hiện tại.
Tôn giả Ca-chiên-diên
Ðã khai triển như vậy
Và Ngài được Phật khen
Là bậc đại trí hiền.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí
Hải
-ooOoo-
133. Mahākaccānabhaddekarattasuttaṃ [Mūla]
279. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ samayaṃ Bhagavā
rājagahe viharati tapodārāme. Atha kho āyasmā samiddhi rattiyā paccūsasamayaṃ
paccuṭṭhāya yena tapodo [tapodā (sī.)] tenupasaṅkami gattāni parisiñcituṃ.
Tapode gattāni parisiñcitvā
paccuttaritvā ekacīvaro aṭṭhāsi gattāni pubbāpayamāno [sukkhāpayamāno (ka.)].
Atha kho aññatarā devatā abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ
tapodaṃ obhāsetvā yenāyasmā samiddhi tenupasaṅkami upasaṅkamitvā ekamantaṃ aṭṭhāsi.
Ekamantaṃ ṭhitā kho sā devatā āyasmantaṃ samiddhiṃ etadavoca : ''dhāresi tvaṃ,
bhikkhu, bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañcāti? ''na kho ahaṃ, āvuso,
dhāremi bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca. Tvaṃ panāvuso, dhāresi
bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañcāti? ''ahampi kho, bhikkhu, na dhāremi
bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca. Dhāresi pana tvaṃ, bhikkhu,
bhaddekarattiyo gāthāti? ''na kho ahaṃ, āvuso, dhāremi bhaddekarattiyo gāthāti.
Tvaṃ panāvuso, dhāresi bhaddekarattiyo gāthāti? ''ahampi kho, bhikkhu na
dhāremi bhaddekarattiyo gāthāti. Uggaṇhāhi tvaṃ, bhikkhu, bhaddekarattassa
uddesañca vibhaṅgañca pariyāpuṇāhi tvaṃ, bhikkhu, bhaddekarattassa uddesañca
vibhaṅgañca dhārehi tvaṃ, bhikkhu, bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca.
Atthasaṃhito, bhikkhu, bhaddekarattassa uddeso
ca vibhaṅgo ca ādibrahmacariyakoti. Idamavoca sā devatā idaṃ vatvā
tatthevantaradhāyi.
280. Atha kho āyasmā
samiddhi tassā rattiyā accayena yena Bhagavā tenupasaṅkami upasaṅkamitvā
bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā samiddhi
bhagavantaṃ etadavoca : ''idhāhaṃ, bhante, rattiyā paccūsasamayaṃ paccuṭṭhāya
yena tapodo tenupasaṅkamiṃ gattāni parisiñcituṃ. Tapode gattāni parisiñcitvā paccuttaritvā ekacīvaro
aṭṭhāsiṃ gattāni pubbāpayamāno. Atha kho bhante, aññatarā devatā abhikkantāya
rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ tapodaṃ obhāsetvā yenāhaṃ tenupasaṅkami
upasaṅkamitvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ
ṭhitā kho sā devatā maṃ etadavoca : 'dhāresi tvaṃ, bhikkhu,
bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañcāti? ''evaṃ vutte ahaṃ, bhante, taṃ devataṃ
etadavocaṃ : 'na kho ahaṃ, āvuso, dhāremi bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca.
Tvaṃ panāvuso, dhāresi bhaddekarattassa
uddesañca vibhaṅgañcāti? 'ahampi kho, bhikkhu, na dhāremi bhaddekarattassa
uddesañca vibhaṅgañca. Dhāresi pana tvaṃ, bhikkhu, bhaddekarattiyo gāthāti? 'na
kho ahaṃ, āvuso, dhāremi bhaddekarattiyo gāthāti. Tvaṃ panāvuso, dhāresi
bhaddekarattiyo gāthāti? 'ahampi kho, bhikkhu, na dhāremi bhaddekarattiyo
gāthāti. Uggaṇhāhi tvaṃ, bhikkhu, bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca pariyāpuṇāhi tvaṃ,
bhikkhu, bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca dhārehi tvaṃ, bhikkhu,
bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca. Atthasaṃhito, bhikkhu, bhaddekarattassa
uddeso ca vibhaṅgo ca ādibrahmacariyakoti. Idamavoca, bhante, sā devatā idaṃ
vatvā tatthevantaradhāyi. Sādhu me, bhante, Bhagavā bhaddekarattassa
uddesañca vibhaṅgañca desetūti. ''Tena hi, bhikkhu, suṇāhi, sādhukaṃ manasi
karohi bhāsissāmīti. ''Evaṃ, bhanteti kho āyasmā samiddhi bhagavato paccassosi.
Bhagavā etadavoca :
''Atītaṃ nānvāgameyya, nappaṭikaṅkhe anāgataṃ.
Yadatītaṃ pahīnaṃ taṃ, appattañca anāgataṃ..
''Paccuppannañca yo dhammaṃ, tattha tattha vipassati.
Asaṃhīraṃ asaṃkuppaṃ, taṃ vidvā manubrūhaye..
''Ajjeva kiccamātappaṃ, ko jaññā maraṇaṃ suve.
Na hi no saṅgaraṃ tena, mahāsenena maccunā..
''Evaṃ vihāriṃ ātāpiṃ, ahorattamatanditaṃ.
Taṃ ve bhaddekarattoti, santo ācikkhate munīti..
Idamavoca Bhagavā idaṃ vatvāna sugato uṭṭhāyāsanā vihāraṃ pāvisi. Atha
kho tesaṃ bhikkhūnaṃ , acirapakkantassa bhagavato, etadahosi : ''idaṃ kho no,
āvuso, Bhagavā saṃkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho :
''Atītaṃ nānvāgameyya, nappaṭikaṅkhe anāgataṃ.
Yadatītaṃ pahīnaṃ taṃ, appattañca anāgataṃ..
''Paccuppannañca yo dhammaṃ, tattha tattha vipassati.
Asaṃhīraṃ asaṃkuppaṃ, taṃ vidvā manubrūhaye..
''Ajjeva
kiccamātappaṃ, ko jaññā maraṇaṃ suve.
Na hi no saṅgaraṃ tena, mahāsenena maccunā..
''Evaṃ vihāriṃ ātāpiṃ, ahorattamatanditaṃ.
Taṃ ve bhaddekarattoti, santo ācikkhate munīti.. ''Ko
nu kho imassa bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ
avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajeyyāti? atha kho tesaṃ bhikkhūnaṃ etadahosi : ''ayaṃ kho
āyasmā mahākaccāno satthu ceva saṃvaṇṇito sambhāvito ca viññūnaṃ sabrahmacārīnaṃ
pahoti cāyasmā mahākaccāno imassa bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa
vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajituṃ. Yaṃnūna mayaṃ
yenāyasmā mahākaccāno tenupasaṅkameyyāma upasaṅkamitvā āyasmantaṃ mahākaccānaṃ
etamatthaṃ paṭipuccheyyāmāti.
281. Atha kho te
bhikkhū yenāyasmā mahākaccāno tenupasaṅkamiṃsu upasaṅkamitvā āyasmatā
mahākaccānena saddhiṃ sammodiṃsu. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā
ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā
kho te bhikkhū āyasmantaṃ mahākaccānaṃ etadavocuṃ : ''idaṃ kho no, āvuso kaccāna, Bhagavā
saṃkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ
paviṭṭho :
''Atītaṃ nānvāgameyya - pe -
Taṃ ve bhaddekarattoti, santo ācikkhate munīti..
''Tesaṃ no, āvuso kaccāna, amhākaṃ, acirapakkantassa bhagavato, etadahosi : idaṃ
kho no, āvuso, Bhagavā saṃkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ
avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho :
''Atītaṃ nānvāgameyya - pe -
Taṃ ve bhaddekarattoti, santo ācikkhate munīti..
''Ko nu kho imassa bhagavatā saṃkhittena
uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ
vibhajeyyāti? tesaṃ no , āvuso kaccāna, amhākaṃ etadahosi : 'ayaṃ kho āyasmā
mahākaccāno satthu ceva saṃvaṇṇito sambhāvito ca viññūnaṃ sabrahmacārīnaṃ.
Pahoti cāyasmā mahākaccāno imassa bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa
vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajituṃ. Yaṃnūna mayaṃ
yenāyasmā mahākaccāno tenupasaṅkameyyāma upasaṅkamitvā āyasmantaṃ mahākaccānaṃ
etamatthaṃ paṭipuccheyyāmāti. Vibhajatāyasmā mahākaccānoti. ''Seyyathāpi,
āvuso, puriso sāratthiko sāragavesī sārapariyesanaṃ caramāno mahato rukkhassa tiṭṭhato sāravato
atikkammeva mūlaṃ atikkamma khandhaṃ
sākhāpalāse sāraṃ pariyesitabbaṃ maññeyya evaṃ sampadamidaṃ āyasmantānaṃ
satthari sammukhībhūte taṃ bhagavantaṃ atisitvā amhe etamatthaṃ paṭipucchitabbaṃ
maññatha [maññetha (pī.)]. So hāvuso, Bhagavā jānaṃ jānāti, passaṃ
passati, cakkhubhūto ñāṇabhūto dhammabhūto brahmabhūto vattā pavattā atthassa
ninnetā amatassa dātā dhammassāmī tathāgato. So ceva panetassa kālo ahosi yaṃ
bhagavantaṃyeva etamatthaṃ paṭipuccheyyātha, yathā vo Bhagavā byākareyya
tathā naṃ dhāreyyāthāti. ''Addhāvuso kaccāna, Bhagavā jānaṃ jānāti,
passaṃ passati, cakkhubhūto ñāṇabhūto dhammabhūto brahmabhūto vattā pavattā
atthassa ninnetā amatassa dātā dhammassāmī tathāgato. So ceva panetassa kālo
ahosi yaṃ bhagavantaṃyeva etamatthaṃ paṭipuccheyyāma yathā no Bhagavā
byākareyya tathā naṃ dhāreyyāma. Api cāyasmā mahākaccāno satthuceva saṃvaṇṇito
sambhāvito ca viññūnaṃ sabrahmacārīnaṃ pahoti cāyasmā mahākaccāno imassa
bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa
vitthārena atthaṃ vibhajituṃ. Vibhajatāyasmā mahākaccāno agaruṃ karitvāti
[agarukaritvā (sī. syā. kaṃ. pī.)]. ''Tena hāvuso, suṇātha, sādhukaṃ manasi
karotha bhāsissāmīti. ''Evamāvusoti kho te bhikkhū āyasmato mahākaccānassa
paccassosuṃ. Āyasmā mahākaccāno
etadavoca : ''yaṃ kho no, āvuso, Bhagavā
saṃkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ
paviṭṭho :
''Atītaṃ nānvāgameyya - pe -
Taṃ ve bhaddekarattoti, santo ācikkhate munīti..
Imassa kho ahaṃ, āvuso, bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena
atthaṃ avibhattassa evaṃ vitthārena atthaṃ ājānāmi :
282. ''Kathañca, āvuso,
atītaṃ anvāgameti? iti me cakkhu ahosi
atītamaddhānaṃ iti rūpāti : tattha chandarāgappaṭibaddhaṃ [chandarāgappaṭibandhaṃ
(ka.)] hoti viññāṇaṃ, chandarāgappaṭibaddhattā viññāṇassa tadabhinandati,
tadabhinandanto atītaṃ anvāgameti. Iti me sotaṃ ahosi atītamaddhānaṃ iti
saddāti - pe - iti me ghānaṃ ahosi atītamaddhānaṃ iti gandhāti... iti me jivhā
ahosi atītamaddhānaṃ iti rasāti... iti me kāyo ahosi atītamaddhānaṃ iti phoṭṭhabbāti...
iti me mano ahosi atītamaddhānaṃ iti dhammāti : tattha chandarāgappaṭibaddhaṃ
hoti viññāṇaṃ, chandarāgappaṭibaddhattā viññāṇassa tadabhinandati,
tadabhinandanto atītaṃ anvāgameti : evaṃ kho, āvuso, atītaṃ anvāgameti.
''Kathañca , āvuso, atītaṃ nānvāgameti? iti me cakkhu ahosi atītamaddhānaṃ iti
rūpāti : tattha na chandarāgappaṭibaddhaṃ hoti viññāṇaṃ, na chandarāgappaṭibaddhattā
viññāṇassa na tadabhinandati, na
tadabhinandanto atītaṃ nānvāgameti. Iti me sotaṃ ahosi atītamaddhānaṃ
iti saddāti - pe - iti me ghānaṃ ahosi atītamaddhānaṃ iti gandhāti... iti me
jivhā ahosi atītamaddhānaṃ iti rasāti... iti me kāyo ahosi atītamaddhānaṃ iti
phoṭṭhabbāti... iti me mano ahosi atītamaddhānaṃ iti dhammāti : tattha na
chandarāgappaṭibaddhaṃ hoti viññāṇaṃ, na chandarāgappaṭibaddhattā viññāṇassa,
na tadabhinandati, na tadabhinandanto atītaṃ nānvāgameti : evaṃ kho, āvuso,
atītaṃ nānvāgameti.
283. ''Kathañca ,
āvuso, anāgataṃ paṭikaṅkhati? iti me cakkhu siyā anāgatamaddhānaṃ iti rūpāti :
appaṭiladdhassa paṭilābhāya cittaṃ paṇidahati, cetaso paṇidhānapaccayā
tadabhinandati, tadabhinandanto anāgataṃ paṭikaṅkhati. Iti me sotaṃ siyā
anāgatamaddhānaṃ iti saddāti - pe - iti me ghānaṃ siyā anāgatamaddhānaṃ iti
gandhāti... iti me jivhā siyā anāgatamaddhānaṃ iti rasāti... iti me kāyo siyā
anāgatamaddhānaṃ iti phoṭṭhabbāti... iti me mano siyā anāgatamaddhānaṃ iti dhammāti : appaṭiladdhassa paṭilābhāya cittaṃ
paṇidahati, cetaso paṇidhānapaccayā tadabhinandati, tadabhinandanto anāgataṃ paṭikaṅkhati
: evaṃ kho, āvuso, anāgataṃ paṭikaṅkhati.
''Kathañca, āvuso, anāgataṃ nappaṭikaṅkhati? iti me
cakkhu siyā anāgatamaddhānaṃ iti rūpāti : appaṭiladdhassa paṭilābhāya cittaṃ
nappaṇidahati , cetaso appaṇidhānapaccayā na tadabhinandati, na tadabhinandanto
anāgataṃ nappaṭikaṅkhati. Iti me sotaṃ siyā anāgatamaddhānaṃ iti saddāti - pe -
iti me ghānaṃ siyā anāgatamaddhānaṃ iti gandhāti... iti me jivhā siyā
anāgatamaddhānaṃ iti rasāti... iti me kāyo siyā anāgatamaddhānaṃ iti phoṭṭhabbāti...
iti me mano siyā anāgatamaddhānaṃ iti dhammāti : appaṭiladdhassa paṭilābhāya
cittaṃ nappaṇidahati, cetaso appaṇidhānapaccayā na tadabhinandati, na
tadabhinandanto anāgataṃ nappaṭikaṅkhati : evaṃ kho, āvuso, anāgataṃ nappaṭikaṅkhati.
284. ''Kathañca, āvuso,
paccuppannesu dhammesu saṃhīrati? yañcāvuso, cakkhu ye ca rūpā : ubhayametaṃ paccuppannaṃ. Tasmiṃ ce
paccuppanne chandarāgappaṭibaddhaṃ hoti viññāṇaṃ, chandarāgappaṭibaddhattā
viññāṇassa tadabhinandati, tadabhinandanto paccuppannesu dhammesu saṃhīrati.
Yañcāvuso, sotaṃ ye ca saddā - pe - yañcāvuso, ghānaṃ ye ca gandhā... yā
cāvuso, jivhā ye ca rasā... yo cāvuso, kāyo ye ca phoṭṭhabbā... yo cāvuso, mano
ye ca dhammā : ubhayametaṃ paccuppannaṃ. Tasmiṃ ce paccuppanne chandarāgappaṭibaddhaṃ
hoti viññāṇaṃ, chandarāgappaṭibaddhattā viññāṇassa tadabhinandati,
tadabhinandanto paccuppannesu dhammesu saṃhīrati : evaṃ kho, āvuso,
paccuppannesu dhammesu saṃhīrati. ''Kathañca
, āvuso, paccuppannesu dhammesu na saṃhīrati? yañcāvuso, cakkhu ye ca
rūpā : ubhayametaṃ paccuppannaṃ. Tasmiṃ ce paccuppanne na chandarāgappaṭibaddhaṃ
hoti viññāṇaṃ, na chandarāgappaṭibaddhattā viññāṇassa na tadabhinandati, na
tadabhinandanto paccuppannesu dhammesu na saṃhīrati. Yañcāvuso, sotaṃ ye ca
saddā - pe - yañcāvuso, ghānaṃ ye ca gandhā... yā cāvuso, jivhā ye ca rasā...
yo cāvuso, kāyo ye ca phoṭṭhabbā... yo cāvuso, mano ye ca dhammā : ubhayametaṃ
paccuppannaṃ. Tasmiṃ ce paccuppanne na
chandarāgappaṭibaddhaṃ hoti viññāṇaṃ, na chandarāgappaṭibaddhattā viññāṇassa na
tadabhinandati, na tadabhinandanto paccuppannesu dhammesu na saṃhīrati : evaṃ
kho, āvuso, paccuppannesu dhammesu na saṃhīrati.
285. ''Yaṃ kho no,
āvuso, Bhagavā saṃkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ
avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho :
''Atītaṃ nānvāgameyya - pe -
Taṃ ve bhaddekarattoti, santo ācikkhate munīti..
''Imassa kho ahaṃ, āvuso, bhagavatā saṃkhittena
uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa evaṃ vitthārena atthaṃ
ājānāmi. Ākaṅkhamānā ca pana tumhe āyasmanto bhagavantaṃyeva upasaṅkamitvā
etamatthaṃ paṭipuccheyyātha, yathā vo Bhagavā byākaroti tathā naṃ
dhāreyyāthāti.
Atha kho te
bhikkhū āyasmato mahākaccānassa bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā uṭṭhāyāsanā
yena Bhagavā tenupasaṅkamiṃsu upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā
ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ :
''yaṃ kho no, bhante, Bhagavā saṃkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena
atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho :
''Atītaṃ nānvāgameyya - pe -
Taṃ ve bhaddekarattoti, santo ācikkhate munīti.. Tesaṃ
no, bhante, amhākaṃ, acirapakkantassa bhagavato, etadahosi : ''idaṃ kho no,
āvuso, Bhagavā saṃkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ
avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho :
''Atītaṃ
nānvāgameyya, nappaṭikaṅkhe anāgataṃ.
Yadatītaṃ pahīnaṃ taṃ, appattañca anāgataṃ..
''Paccuppannañca
yo dhammaṃ, tattha tattha vipassati.
Asaṃhīraṃ asaṃkuppaṃ, taṃ vidvā manubrūhaye..
''Ajjeva kiccamātappaṃ, ko jaññā maraṇaṃ suve.
Na hi no saṅgaraṃ tena, mahāsenena maccunā..
''Evaṃ vihāriṃ ātāpiṃ, ahorattamatanditaṃ.
Taṃ ve bhaddekarattoti, santo ācikkhate munīti..
'''Ko nu kho imassa bhagavatā saṃkhittena
uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ
avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajeyyāti? tesaṃ no, bhante, amhākaṃ
etadahosi : 'ayaṃ kho āyasmā mahākaccāno satthu ceva saṃvaṇṇito sambhāvito ca
viññūnaṃ sabrahmacārīnaṃ. Pahoti cāyasmā mahākaccāno imassa bhagavatā saṃkhittena
uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ
vibhajituṃ. Yaṃnūna mayaṃ yenāyasmā mahākaccāno tenupasaṅkameyyāma upasaṅkamitvā
āyasmantaṃ mahākaccānaṃ etamatthaṃ paṭipuccheyyāmāti. Atha kho mayaṃ, bhante,
yenāyasmā mahākaccāno tenupasaṅkamimha upasaṅkamitvā āyasmantaṃ mahākaccānaṃ
etamatthaṃ paṭipucchimha. Tesaṃ no, bhante, āyasmatā mahākaccānena imehi
ākārehi imehi padehi imehi byañjanehi attho vibhattoti. ''Paṇḍito, bhikkhave,
mahākaccāno mahāpañño, bhikkhave mahākaccāno. Maṃ cepi tumhe, bhikkhave,
etamatthaṃ paṭipuccheyyātha, ahampi taṃ evamevaṃ byākareyyaṃ yathā taṃ
mahākaccānena byākataṃ. Eso, cevetassa attho. Evañca naṃ dhārethāti. Idamavoca Bhagavā.
Attamanā te bhikkhū bhagavato bhāsitaṃ abhinandunti.
Mahākaccānabhaddekarattasuttaṃ niṭṭhitaṃ tatiyaṃ.
-ooOoo-
133. Mahākaccānabhaddekarattasuttavaṇṇanā
[Atthakathā]
279. Evaṃ me sutanti
mahākaccānabhaddekarattasuttaṃ. Tattha tapodārāmeti tattodakassa
rahadassa vasena evaṃladdhanāme ārāme. Vebhārapabbatassa kira heṭṭhā bhūmaṭṭhakanāgānaṃ
pañcayojanasatikaṃ nāgabhavanaṃ devalokasadisaṃ maṇimayena talena ārāmauyyānehi
ca samannāgataṃ, tattha nāgānaṃ kīḷanaṭṭhāne mahāudakarahado, tato tapodā nāma
nadī sandati kuthitā uṇhodakā. Kasmā panesā edisā jātā? Rājagahaṃ kira
parivāretvā mahā petaloko, tattha dvinnaṃ mahālohakumbhinirayānaṃ antarena ayaṃ
tapodā āgacchati, tasmā sā kuthitā sandati. Vuttampi cetaṃ – ‘‘yatāyaṃ,
bhikkhave, tapodā sandati, so daho acchodako sītodako sātodako setodako
suppatittho ramaṇīyo pahūtamacchakacchapo, cakkamattāni ca padumāni pupphanti.
Apicāyaṃ, bhikkhave, tapodā dvinnaṃ mahānirayānaṃ antarikāya āgacchati, tenāyaṃ
tapodā kuthitā sandatī’’ti (pārā. 231). Imassa pana ārāmassa abhisammukhaṭṭhāne
tato mahāudakarahado jāto, tassa nāmavasenāyaṃ vihāro tapodārāmoti
vuccati.
280. Samiddhīti tassa
kira therassa attabhāvo samiddho abhirūpo pāsādiko, tasmā samiddhitveva saṅkhaṃ
gato. Ādibrahmacariyakoti maggabrahmacariyassa ādi pubbabhāgappaṭipattibhūto.
Idaṃ vatvāna sugato uṭṭhāyāsanāti madhupiṇḍikasutte (ma. ni. 1.199
ādayo) vuttanayeneva vitthāretabbaṃ.
282. Iti me cakkhunti
imasmiṃ kira sutte bhagavā dvādasāyatanavaseneva mātikaṃ ṭhapesi. Theropi
‘‘bhagavatā heṭṭhā dvīsu, upari catutthe cāti imesu tīsu suttesu
pañcakkhandhavasena mātikā ca vibhaṅgo ca kato, idha pana dvādasāyatanavaseneva
vibhajanatthaṃ mātikā ṭhapitā’’ti nayaṃ paṭilabhitvā evamāha. Imaṃ pana nayaṃ
labhantena therena bhāriyaṃ kataṃ, apade padaṃ dassitaṃ, ākāse padaṃ kataṃ,
tena naṃ bhagavā imameva suttaṃ sandhāya – ‘‘etadaggaṃ, bhikkhave, mama
sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ saṃkhittena bhāsitassa vitthārena atthaṃ vibhajantānaṃ
yadidaṃ mahākaccāno’’ti (a. ni. 1.197) etadagge ṭhapesi. Ettha pana cakkhūti
cakkhupasādo. Rūpāti catusamuṭṭhānikarūpā. Iminā nayena sesāyatanānipi
veditabbāni. Viññāṇanti nikantiviññāṇaṃ. Tadabhinandatīti taṃ
cakkhuñceva rūpañca taṇhādiṭṭhivasena abhinandati. Anvāgametīti taṇhādiṭṭhīhi
anugacchati.
Iti me mano ahosi atītamaddhānaṃ iti dhammāti
ettha pana manoti bhavaṅgacittaṃ. Dhammāti tebhūmakadhammārammaṇaṃ.
283. Paṇidahatīti
patthanāvasena ṭhapesi. Paṇidhānapaccayāti patthanāṭṭhapanakāraṇā. Sesaṃ
sabbattha uttānamevāti.
Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Mahākaccānabhaddekarattasuttavaṇṇanā
niṭṭhitā.
-ooOoo-
Lớp Phật Pháp Buddhadhamma
Giáo trình TRUNG BỘ KINH – MAJJHIMÀ NIKÀYA
Bài
học ngày 28.5.2020 / Phân đoạn [113... – 113…]
(Lomasakaṅgiyabhaddekaratta
Sutta)
Như vầy tôi nghe:
-- Này Tỷ-kheo, Ngài có thọ trì
tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền Giả không?
-- Này Hiền giả, tôi không thọ
trì tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền Giả. Này Hiền giả,
Hiền giả có thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền Giả
không?
-- Này Tỷ-kheo, tôi cũng không
thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền Giả. Nhưng này
Tỷ- kheo, Ngài có thọ trì bài kệ về Nhứt Dạ Hiền Giả không?
-- Này Hiền giả, tôi không thọ
trì bài kệ về Nhứt Dạ Hiền Giả. Này Hiền giả, Hiền giả có thọ trì
bài kệ về Nhứt Dạ Hiền Giả không?
-- Này Tỷ-kheo, tôi có thọ trì
bài kệ về Nhứt Dạ Hiền Giả.
-- Này Hiền giả, Hiền giả
thọ trì như thế nào bài kệ về Nhứt Dạ Hiền Giả?
-- Một thời này Tỷ-kheo, Thế
Tôn trú giữa chư Thiên Tam thập tam thiên, dưới cây Pāricchattaka (Trú độ
thọ), trên hòn đá Paṇḍukambala (Vô cấu bạch thạch). Tại đấy Thế Tôn đọc
lên tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền Giả cho chư Thiên ở
Tam thập tam thiên:
Quá khứ không truy
tìm
Tương lai không
ước vọng.
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại
chưa đến,
Chỉ có pháp hiện
tại
Tuệ quán chính ở
đây.
Không động, không
rung chuyển
Biết vậy, nên tu tập,
Hôm nay nhiệt tâm
làm,
Ai biết chết ngày
mai?
Không ai điều đình
được,
Với đại quân thần
chết,
Trú như vậy nhiệt
tâm,
Ðêm ngày không mệt
mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ
Hiền,
Bậc an tịnh, trầm
lặng.
Này Tỷ-kheo, tôi
thọ trì về bài kệ Nhứt Dạ Hiền Giả như vậy. Này Tỷ-kheo, hãy học
tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền Giả. Này Tỷ-kheo, hãy học
cho thuần thục tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền Giả. Này
Tỷ-kheo, hãy thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền Giả.
Vì rằng này Tỷ- kheo, tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền Giả
liên hệ đến mục đích, là căn bản của Phạm hạnh.
Rồi Tôn giả Lomasakaṅgiya,
sau khi đêm ấy đã mãn, dọn dẹp sàng tọa, lấy y áo và lên đường đi đến
Savatthi. Tuần tự du hành, (Tôn giả) đi đến Savatthi, Jetavana, tinh xá ông
Anāthapiṇḍika, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi
xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Lomasakaṅgiya bạch Thế Tôn :
-- Bạch Thế Tôn, một
thời con trú giữa dòng họ Sakya, tại Kapilavatthu, tinh xá ông
Anathapindika. Rồi bạch Thế Tôn, một Thiên tử, sau khi đêm vừa mãn, với
dung sắc thù thắng chói sáng cả vùng tinh xá Nigrodha, đến con và đứng một
bên. Ðứng một bên, bạch Thế Tôn, Thiên tử ấy thưa với con: "Này
Tỷ- kheo, Ngài có thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền
Giả không?" Ðược nói vậy, bạch Thế Tôn, con nói với Thiên tử ấy:
"Này Hiền giả, tôi không thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết về
Nhứt Dạ Hiền Giả". "-- Này Hiền giả, Hiền giả có thọ trì...
là căn bản của Phạm hạnh.
Bạch Thế Tôn, Thiên
tử ấy nói như vậy. Nói như vậy xong, vị ấy biến mất tại đấy. Lành
thay bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn giảng cho con tổng thuyết và biệt
thuyết về bài kệ Nhứt Dạ Hiền Giả.
-- Này Tỷ-kheo, Ông
có biết Thiên tử ấy không? Bạch Thế Tôn, con không biết Thiên tử ấy.
-- Này Tỷ-kheo,
Thiên tử ấy tên là Candana. Này Tỷ-kheo, Candana là Thiên tử, sau khi chú
tâm, sau khi tác ý, sau khi tập trung nội tâm, lóng tai nghe pháp. Vậy này
Tỷ-kheo, hãy nghe và suy nghiệm kỹ Ta sẽ nói.
-- Thưa vâng, bạch
Thế Tôn, Tôn giả Lomasakaṅgiya vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
Quá khứ không truy
tìm
Tương lai không
ước vọng.
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại
chưa đến,
Chỉ có pháp hiện
tại
Tuệ quán chính ở
đây.
Không động, không
rung chuyển
Biết vậy, nên tu tập,
Hôm nay nhiệt tâm
làm,
Ai biết chết ngày
mai?
Không ai điều đình
được,
Với đại quân thần
chết,
Trú như vậy nhiệt
tâm,
Ðêm ngày không mệt
mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ
Hiền,
Bậc an tịnh, trầm
lặng.
Và này Tỷ-kheo, thế
nào là truy tìm quá khứ? Vị ấy nghĩ: "Như vậy là sắc của tôi trong
quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy; "Như vậy là thọ
của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy; "Như vậy
là tưởng của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy;
"Như vậy là hành của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan
trong ấy, "Như vậy, là thức của tôi trong quá khứ", và truy tìm
sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này Tỷ-kheo, là truy tìm quá khứ.
Và này Tỷ-kheo, thế
nào là không truy tìm quá khứ? Vị ấy nghĩ: "Như vậy là sắc của tôi
trong quá khứ", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy; "Như vậy
là thọ của tôi trong quá khứ", và không truy tìm sự hân hoan trong
ấy; "Như vậy là tưởng của tôi... Như vậy là hành của tôi... Như
vậy là thức của tôi trong quá khứ"; và không truy tìm sự hân hoan
trong ấy. Như vậy, này Tỷ-kheo, là không truy tìm quá khứ.
Và này Tỷ-kheo, thế
nào ước vọng tương lai? Vị ấy nghĩ: "Mong rằng như vậy sẽ là
sắc của tôi trong tương lai", và truy tìm sự hân hoan trong ấy;
"Mong rằng như vậy sẽ là thọ của tôi trong tương lai", và
truy tìm sự hân hoan trong ấy; "Mong rằng như vậy là tưởng của
tôi... là hành của tôi... Như vậy là thức của tôi trong tương lai",
và truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này Tỷ-kheo, là ước vọng
trong tương lai.
Và này Tỷ-kheo, thế
nào là không ước vọng trong tương lai? Vị ấy nghĩ: "Mong rằng
như vậy sẽ là sắc của tôi trong tương lai", và không truy tìm hân
hoan trong ấy; "Mong rằng như vậy sẽ là thọ của tôi trong tương
lai", và không truy tìm hân hoan trong ấy; "Mong rằng như vậy sẽ
là tưởng... sẽ là hành... sẽ là thức của tôi trong tương lai, "và
không truy tìm hân hoan trong ấy. Như vậy, này Tỷ-kheo, là ước vọng
trong tương lai.
Và này Tỷ-kheo, như
thế nào là bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại? Ở đây, này Tỷ-kheo, có
kẻ vô văn phàm phu không đi đến các bậc Thánh, không thuần thục pháp các
bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh; không đi đến các bậc Chân
nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc
Chân nhân; quán sắc là tự ngã, hay quán tự ngã là có sắc, hay quán sắc là
trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong sắc; hay vị ấy quán thọ là tự
ngã, hay quán tự ngã là có thọ, hay quán thọ là trong tự ngã, hay quán tự
ngã là trong thọ; hay vị ấy quán tưởng là tự ngã, hay quán tự ngã là có
tưởng, hay vị ấy quán tưởng là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong
tưởng; hay vị ấy quán hành là tự ngã, hay vị ấy quán tự ngã là có hành,
hay vị ấy quán hành là trong tự ngã, hay vị ấy quán tự ngã là trong hành;
hay vị ấy quán thức là tự ngã, hay quán tự ngã là có thức, hay quán thức
là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong thức. Như vậy, này Tỷ-kheo, là
bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.
Và này Tỷ-kheo, thế
nào là không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại? Ở đây, này Tỷ-kheo, có
vị Ða văn Thánh đệ tử đi đến các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc
Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, đi đến các bậc Chân nhân, thuần thục
pháp các bậc Chân nhân, tu tập pháp các bậc Chân nhân. Vị này không quán
sắc là tự ngã, không quán tự ngã là có sắc, không quán sắc là trong tự
ngã, không quán tự ngã trong sắc; không quán thọ... không quán tưởng...
không quán hành... không quán thức là tự ngã, không quán tự ngã là có thức,
không quán thức trong tự ngã, không quán tự ngã trong thức. Như vậy, này
Tỷ- kheo, là không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.
Quá khứ không truy
tìm
Tương lai không
ước vọng.
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại
chưa đến,
Chỉ có pháp hiện
tại
Tuệ quán chính ở
đây.
Không động, không
rung chuyển
Biết vậy, nên tu tập,
Hôm nay nhiệt tâm
làm,
Ai biết chết ngày
mai?
Không ai điều đình
được,
Với đại quân thần
chết,
Trú như vậy nhiệt
tâm,
Ðêm ngày không mệt
mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ
Hiền,
Bậc an tịnh, trầm
lặng.
Thế Tôn thuyết
giảng như vậy. Tôn giả Lomasakaṅgiya hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ Kheo
Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 134 [tóm tắt]
Kinh
Lomasakaṅgiya Nhứt Dạ Hiền Giả
(Lomasakangiyabhaddekaratta
Sutta)
(M.iii, 199)
Tôn giả Lomasakaṅgiya
một hôm được một vị Thiên tử xuất hiện hỏi là Tôn giả có thọ trì
tổng thuyết, biệt thuyết về Nhứt dạ hiền giả và bài kệ về Nhứt Dạ
hiền giả không. Được đáp là không, vị Thiên tử bèn kể rằng Thế Tôn có
nói lên bài kệ tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt dạ hiền giả cho
chư Thiên ở Tam thập tam thiên: “Quá khứ không truy tìm, tương lai không
ước vọng... chỉ có pháp hiện tại, tuệ quán chính ở đây...”. Vị Thiên
tử khuyên Tôn giả hãy thọ trì bài kệ, học cho thuần thục tổng thuyết
và biệt thuyết về Nhứt dạ hiền giả, vì nó liên hệ đến mục đích và là
căn bản của Phạm hạnh.
Tôn giả
Lomasakangiya đi đến Thế Tôn thuật lại câu chuyện trên và được Thế Tôn
giảng rộng ý nghĩa của bài kệ như đã giảng ở các kinh từ 131 – 133.
Tôn giả hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 134 [dàn
ý]
Kinh
Lomasakaṅgiya Nhứt Dạ Hiền Giả
(Lomasakangiyabhaddekaratta
Sutta)
(M.iii, 199)
A. Duyên khởi:
Thiên tử Candana đến
gặp Tôn giả Lomasakaṅgiya và câu chuyện sau đây được khởi lên giữa 2 vị này.
B. Chánh kinh:
I. Thiên tử Candana hỏi Tôn giả có
thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết, có thọ trì bài kệ Nhứt dạ hiền giả không.
Tôn giả trả lời là không.
II. Tôn giả Lomasakangiya hỏi Thiên
tử có thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết, có thọ trì bài kệ Nhứt dạ hiền giả
không. Thiên tử trả lời là không có thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết, nhưng một
thời có nghe Thế Tôn đọc lên bài kệ về Nhứt dạ hiền giả cho chư thiên Tam Thập
tam Thiên. Rồi Thiên tử đọc lên bài kệ và khuyên Tôn giả nên học tổng thuyết và
biệt thuyết, nên học cho thuần thục, nên thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết, vì
bài kệ ấy liên hệ đến mục đích và là căn bản của Phạm hạnh.
III. Tôn giả Lomasakaṅgiya đến yết kiến
Thế Tôn và thuật lại cuộc gặp gỡ với Thiên tử Candana. Nhân dịp này Thế Tôn
thuyết cho Tôn giả về tổng thuyết và biệt thuyết bài kệ Nhất dạ hiền giả.
C. Kết luận:
Tôn giả Lomasakaṅgiya
hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 134 [toát
yếu]
Kinh
Lomasakaṅgiya Nhứt Dạ Hiền Giả
(Lomasakaṅgiyabhaddekaratta
Sutta)
(M.iii, 199)
I. Toát yếu
II. Tóm tắt
(Toát yếu và Tóm tắt như kinh số 131)
III. Chú giải
Theo chú giải Trưởng
lão kệ, thì tôn giả Lomasakaṅgiya vào thời Phật Ca-diếp đã xuất gia
làm tỷ kheo. Sau khi nghe Phật Ca-diếp dạy kinh Bhaddekaratta này, một
tỷ kheo nói về kinh ấy cho Lomasakangiya nhưng ông không hiểu và đã
kêu lên: Mong rằng trong đời sau, tôi có thể giảng cho ông về kinh
này. Vị tỷ kheo kia nói: Tôi cũng mong mỏi sẽ hỏi ông về kinh ấy.
Do lời nguyện ấy mà trong kiếp này, Lomasakangiya tái sinh vào một gia
đình họ Thích Ca ở Ca-tỳ-la-vệ, trong khi vị tỷ kheo kia đã làm một
vị trời tên Candana.
Theo Sớ giải, Kinh này
được giảng vào lúc đức Thế Tôn thành đạo đã được bảy năm. Khi
ấy Ngài đang trải qua ba tháng an cư mùa mưa tại cung trời 33, giảng
Abhidhamma cho chư thiên quy tụ lại từ mười ngàn thế giới hệ.
IV. Pháp số
(không có)
V. Kệ tụng
Tỷ kheo Lô-ma-xa
Ðược thiên nhân khuyến khích
Ðược thiên nhân khuyến khích
Nên thọ trì bài kệ
Về Nhất dạ hiền giả.
Về Nhất dạ hiền giả.
Vị trời này được nghe
Phật giảng bài kệ ấy
Tại Tam thập tam thiên:
Tại Tam thập tam thiên:
Quá khứ không truy tầm...
Tương lai lại chưa đến.
Bài Kệ Nhất dạ hiền
Liên hệ đến mục đích
Là căn bản Phạm hạnh.
Tôn giả đến bên Phật
Tường thuật hết sự tình
Phật giảng lại kệ này
Ðại cương và chi tiết.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
134. Lomasakaṅgiyabhaddekarattasuttaṃ
[Mūla]
286. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ samayaṃ Bhagavā
sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Tena kho pana samayena
āyasmā lomasakaṅgiyo [lomasakakaṅgiyo (ṭīkā)] sakkesu viharati kapilavatthusmiṃ
nigrodhārāme. Atha kho candano devaputto abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇo
kevalakappaṃ nigrodhārāmaṃ obhāsetvā yenāyasmā lomasakaṅgiyo tenupasaṅkami
upasaṅkamitvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho candano devaputto
āyasmantaṃ lomasakaṅgiyaṃ etadavoca : ''dhāresi tvaṃ, bhikkhu, bhaddekarattassa
uddesañca vibhaṅgañcāti? ''na kho ahaṃ,
āvuso, dhāremi bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca. Tvaṃ panāvuso, dhāresi
bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañcāti? ''ahampi kho, bhikkhu, na dhāremi
bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca. Dhāresi pana tvaṃ, bhikkhu,
bhaddekarattiyo gāthāti? ''na kho ahaṃ, āvuso, dhāremi bhaddekarattiyo gāthā.
Tvaṃ panāvuso, dhāresi bhaddekarattiyo gāthāti? ''dhāremi kho ahaṃ, bhikkhu,
bhaddekarattiyo gāthāti. ''Yathā kathaṃ pana tvaṃ, āvuso, dhāresi
bhaddekarattiyo gāthāti? ''ekamidaṃ, bhikkhu, samayaṃ Bhagavā devesu
tāvatiṃsesu viharati pāricchattakamūle paṇḍukambalasilāyaṃ. Tatra Bhagavā
devānaṃ tāvatiṃsānaṃ bhaddekarattassa
uddesañca vibhaṅgañca abhāsi :
''Atītaṃ nānvāgameyya, nappaṭikaṅkhe anāgataṃ.
Yadatītaṃ pahīnaṃ taṃ, appattañca anāgataṃ..
''Paccuppannañca yo dhammaṃ, tattha tattha vipassati.
Asaṃhīraṃ asaṃkuppaṃ, taṃ vidvā manubrūhaye..
''Ajjeva kiccamātappaṃ, ko jaññā maraṇaṃ suve.
Na hi no saṅgaraṃ tena, mahāsenena maccunā..
''Evaṃ vihāriṃ
ātāpiṃ, ahorattamatanditaṃ.
Taṃ ve bhaddekarattoti, santo ācikkhate munīti.. ''Evaṃ
kho ahaṃ, bhikkhu, dhāremi bhaddekarattiyo gāthā. Uggaṇhāhi tvaṃ, bhikkhu,
bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca pariyāpuṇāhi tvaṃ , bhikkhu,
bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca dhārehi tvaṃ, bhikkhu, bhaddekarattassa
uddesañca vibhaṅgañca. Atthasaṃhito, bhikkhu, bhaddekarattassa uddeso ca vibhaṅgo
ca ādibrahmacariyakoti. Idamavoca candano devaputto. Idaṃ vatvā
tatthevantaradhāyi.
287. Atha kho āyasmā lomasakaṅgiyo tassā
rattiyā accayena senāsanaṃ saṃsāmetvā pattacīvaramādāya yena sāvatthi tena cārikaṃ pakkāmi. Anupubbena cārikaṃ caramāno
yena sāvatthi jetavanaṃ anāthapiṇḍikassa ārāmo yena Bhagavā tenupasaṅkami
upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā
ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā lomasakaṅgiyo bhagavantaṃ
etadavoca :
''Ekamidāhaṃ, bhante, samayaṃ sakkesu viharāmi
kapilavatthusmiṃ nigrodhārāme. Atha kho, bhante, aññataro devaputto
abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇo kevalakappaṃ nigrodhārāmaṃ obhāsetvā
yenāhaṃ tenupasaṅkami upasaṅkamitvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho,
bhante, so devaputto maṃ etadavoca : 'dhāresi tvaṃ, bhikkhu, bhaddekarattassa
uddesañca vibhaṅgañcāti? evaṃ vutte ahaṃ, bhante, taṃ devaputtaṃ etadavocaṃ :
'na kho ahaṃ, āvuso, dhāremi bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca. Tvaṃ
panāvuso, dhāresi bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañcāti? 'ahampi kho,
bhikkhu, na dhāremi bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca. Dhāresi pana tvaṃ,
bhikkhu, bhaddekarattiyo gāthāti? 'na kho ahaṃ, āvuso, dhāremi bhaddekarattiyo
gāthā. Tvaṃ panāvuso, dhāresi bhaddekarattiyo gāthāti? 'dhāremi kho ahaṃ,
bhikkhu, bhaddekarattiyo gāthāti. 'Yathā kathaṃ pana tvaṃ, āvuso, dhāresi
bhaddekarattiyo gāthāti? ekamidaṃ, bhikkhu, samayaṃ Bhagavā devesu
tāvatiṃsesu viharati pāricchattakamūle paṇḍukambalasilāyaṃ . Tatra kho Bhagavā
devānaṃ tāvatiṃsānaṃ bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca abhāsi :
''Atītaṃ nānvāgameyya - pe -
Taṃ ve bhaddekarattoti, santo ācikkhate munīti..
''Evaṃ kho ahaṃ,
bhikkhu, dhāremi bhaddekarattiyo gāthā. Uggaṇhāhi tvaṃ, bhikkhu, bhaddekarattassa
uddesañca vibhaṅgañca pariyāpuṇāhi tvaṃ, bhikkhu, bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca dhārehi tvaṃ, bhikkhu,
bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca. Atthasaṃhito, bhikkhu, bhaddekarattassa
uddeso ca vibhaṅgo ca ādibrahmacariyakoti. Idamavoca, bhante, so devaputto idaṃ
vatvā tatthevantaradhāyi. Sādhu me, bhante, Bhagavā bhaddekarattassa
uddesañca vibhaṅgañca desetūti.
288. ''Jānāsi pana tvaṃ, bhikkhu, taṃ
devaputtanti? ''na kho ahaṃ, bhante, jānāmi taṃ devaputtanti. ''Candano nāma
so, bhikkhu, devaputto. Candano, bhikkhu, devaputto aṭṭhiṃ katvā [aṭṭhikatvā
(sī. syā. kaṃ. pī.)] manasikatvā sabbacetasā [sabbaṃ cetaso (sī. syā. kaṃ.
pī.), sabbaṃ cetasā (ka.)] samannāharitvā ohitasoto dhammaṃ suṇāti. Tena hi,
bhikkhu, suṇāhi, sādhukaṃ manasi karohi bhāsissāmīti. ''Evaṃ, bhanteti kho
āyasmā lomasakaṅgiyo bhagavato paccassosi. Bhagavā etadavoca :
''Atītaṃ
nānvāgameyya, nappaṭikaṅkhe anāgataṃ.
Yadatītaṃ pahīnaṃ taṃ, appattañca anāgataṃ..
''Paccuppannañca yo dhammaṃ, tattha tattha vipassati.
Asaṃhīraṃ asaṃkuppaṃ, taṃ vidvā manubrūhaye..
''Ajjeva kiccamātappaṃ, ko jaññā maraṇaṃ suve.
Na hi no saṅgaraṃ
tena, mahāsenena maccunā.
''Evaṃ vihāriṃ ātāpiṃ, ahorattamatanditaṃ.
Taṃ ve bhaddekarattoti, santo ācikkhate muni..
''Kathañca, bhikkhu, atītaṃ anvāgameti - pe - evaṃ
kho, bhikkhu, atītaṃ anvāgameti. Kathañca , bhikkhu, atītaṃ nānvāgameti - pe -
evaṃ kho, bhikkhu, atītaṃ nānvāgameti. Kathañca, bhikkhu, anāgataṃ paṭikaṅkhati
- pe - evaṃ kho, bhikkhu, anāgataṃ paṭikaṅkhati. Kathañca, bhikkhu, anāgataṃ
nappaṭikaṅkhati - pe - evaṃ kho,
bhikkhu, anāgataṃ nappaṭikaṅkhati. Kathañca, bhikkhu, paccuppannesu dhammesu saṃhīrati
- pe - evaṃ kho, bhikkhu, paccuppannesu dhammesu saṃhīrati. Kathañca, bhikkhu,
paccuppannesu dhammesu na saṃhīrati - pe - evaṃ kho, bhikkhu, paccuppannesu
dhammesu na saṃhīrati.
''Atītaṃ
nānvāgameyya, nappaṭikaṅkhe anāgataṃ.
Yadatītaṃ pahīnaṃ taṃ, appattañca anāgataṃ..
''Paccuppannañca
yo dhammaṃ, tattha tattha vipassati.
Asaṃhīraṃ asaṃkuppaṃ, taṃ vidvā manubrūhaye..
''Ajjeva
kiccamātappaṃ, ko jaññā maraṇaṃ suve.
Na hi no saṅgaraṃ tena, mahāsenena maccunā..
''Evaṃ vihāriṃ ātāpiṃ, ahorattamatanditaṃ.
Taṃ ve bhaddekarattoti, santo ācikkhate munīti..
Idamavoca Bhagavā. Attamano āyasmā lomasakaṅgiyo bhagavato bhāsitaṃ abhinandīti.
Lomasakaṅgiyabhaddekarattasuttaṃ niṭṭhitaṃ catutthaṃ.
134. Lomasakaṅgiyabhaddekarattasuttavaṇṇanā
[Atthakathā]
286. Evaṃ me
sutanti lomasakaṅgiyabhaddekarattasuttaṃ. Tattha lomasakaṅgiyoti aṅgathero
kira nāmesa, kāyassa pana īsakalomasākāratāya lomasakaṅgiyoti pākaṭo jāto. Candano
devaputtoti kassapasammāsambuddhakāle kiresa candano nāma upāsako aḍḍho
mahaddhano tīṇi ratanāni catūhi paccayehi pūjetvā devaloke nibbatto,
purimanāmena candano devaputtotveva saṅkhaṃ gato. Paṇḍukambalasilāyanti
rattakambalasilāyaṃ. Tassā kira rattakambalasseva jayasumanapuppharāsi viya vaṇṇo,
tasmā ‘‘paṇḍukambalasilā’’ti vuccati.
Kadā pana tattha bhagavā vihāsīti? Bodhipattito
sattame saṃvacchare sāvatthiyaṃ āsāḷhīmāsapuṇṇamāya dvādasayojanāya parisāya
majjhe yamakapāṭihāriyaṃ katvā oruyha kaṇḍambamūle paññattavarabuddhāsane
nisīditvā dhammadesanāya mahājanaṃ mahāviduggato uddharitvā buddhā nāma yasmā
pāṭihāriyaṃ katvā manussapathe na vasanti, tasmā passamānasseva tassa janassa
padavīkkamaṃ katvā tāvatiṃsabhavane pāricchattakamūle paṇḍukambalasilāyaṃ vassaṃ
upagato, tasmiṃ samaye vihāsi.
Tatra bhagavāti tatra
viharanto bhagavā yebhuyyena dasahi cakkavāḷasahassehi sannipatitāhi devatāhi
parivuto mātaraṃ kāyasakkhiṃ katvā abhidhammapiṭakaṃ kathento gambhīraṃ
nipuṇaṃ tilakkhaṇāhataṃ rūpārūpaparicchedakathaṃ paṭivijjhituṃ asakkontānaṃ
devānaṃ saṃvegajananatthaṃ antarantarā bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca
abhāsi. Tatrāyaṃ devaputto uggaṇhanto imā gāthā saddhiṃ vibhaṅgena uggaṇhi,
devattassa pana pamādādhiṭṭhānattā dibbehi ārammaṇehi nippīḷiyamāno anupubbena
suttaṃ sammuṭṭho gāthāmattameva dhāresi. Tenāha ‘‘evaṃ kho ahaṃ bhikkhu dhāremi
bhaddekarattiyo gāthā’’ti.
Uggaṇhāhi tvantiādīsu
tuṇhībhūto nisīditvā suṇanto uggaṇhāti nāma, vācāya sajjhāyaṃ karonto pariyāpuṇāti
nāma, aññesaṃ vācento dhāreti nāma. Sesamettha uttānamevāti.
Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Lomasakaṅgiyabhaddekarattasuttavaṇṇanā
niṭṭhitā.
-ooOoo-
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 1. Sống thực tế có hẳn là sống trong hiện tại theo Kinh Nhất Dạ Hiền? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 2. Sống trọn vẹn với hiện tại có làm chúng ta an tâm về tương lai chăng? - TT Tuệ Quyền
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment