Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: ĐĐ Pháp Tín & TT Giác Đẳng
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 1/5/2020
115.
Kinh Ða Giới
(Bahudhàtuka
Sutta)
Giới – dhātu - ở đây có nghĩa là nguyên chất, nguyên
tố. Nội dung bài kinh nói về nền tảng căn bản của chánh trí. Với một người với
tuệ giác đã biết rõ những nguyên tố nầy thì đó phải là bậc thiện trí thật sự. Một
người trí như vậy không còn sợ hãi. Đây là khẳng định về trình độ tu chứng cũng
như nói lên vai trò thượng tôn của trí tuệ thật sự.
1058. Người
trí thì không sợ mà người còn sợ hãi thì chưa thật sự là người trí
Trong một pháp thoại hằng ngày cho chư tăng, Bậc Đạo
Sư đã khẳng định một điều mà chỉ có sự đắc chứng thật sự của các bậc thánh đệ tử
mới thể hiện được đó là sự vô uý ở trình độ cao nhất:
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi (Xá-vệ),
Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại tịnh xá ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Ở đấy,
Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: -- "Này các Tỷ-kheo". -- "Bạch
Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
-- Phàm có những sợ hãi gì sanh khởi,
này các Tỷ-kheo, tất cả những sợ hãi ấy sanh khởi cho người ngu, không
phải cho người hiền trí (pandita). Phàm có những thất vọng gì sanh
khởi, này các Tỷ-kheo, tất cả thất vọng ấy sanh khởi cho người ngu,
không phải cho người hiền trí. Phàm có những hoạn nạn gì sanh khởi, này
các Tỷ-kheo, tất cả hoạn nạn ấy sanh khởi cho người ngu, không phải
cho người hiền trí. Ví như, này các Tỷ-kheo, tia lửa từ ngôi nhà bằng cỏ,
thiêu cháy ngôi nhà có lầu gác được trét trong trét ngoài, được che chở
khỏi gió, có chốt khóa gài kỹ, có cửa sổ đóng kỹ; cũng vậy, này các
Tỷ-kheo, phàm có những xợ hãi gì sanh khởi, này các Tỷ-kheo, tất cả
những sợ hãi ấy sanh khởi cho người ngu, không phải cho người hiền
trí; phàm có những thất vọng gì sanh khởi, này các Tỷ-kheo, tất cả
những thất vọng ấy sanh khởi cho người ngu, không phải cho người
hiền trí; phàm có những hoạn nạn gì sanh khởi, này các Tỷ-kheo, tất cả
những hoạn nạn ấy sanh khởi cho người ngu, không phải cho người hiền
trí. Như vậy, này các Tỷ-kheo, kẻ ngu đầy những sợ hãi, người hiền
trí không có sợ hãi. Kẻ ngu đầy những thất vọng, người hiền trí không
có thất vọng. Kẻ ngu đầ những hoạn nạn, người hiền trí không có hoạn
nạn. Này các Tỷ-kheo, không có sợ hãi cho người hiền trí, không có thất
vọng cho người hiền trí, không có hoạn nạn cho người hiền trí. Do vậy,
này các Tỷ-kheo, "Chúng tôi sẽ thành người hiền trí, biết suy tư
tìm hiểu", như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập.
1059. Thế nào là bậc hiền trí thật sự
Bậc hiền trí thật sự là người hiểu biết những
nguyên lý của cuộc sống:
Khi được nghe nói vậy, Tôn giả Ananda
bạch Thế Tôn:
-- Ðến mức độ nào, bạch Thế Tôn, là
vừa đủ để nói: "Tỷ-kheo là người hiền trí, biết suy tư tìm
hiểu?"
-- Cho đến khi, này Ananda, Tỷ-kheo thiện
xảo về giới, thiện xảo về xứ, thiện xảo về duyên khởi và thiện xảo
về xứ phi xứ đến mức độ như vậy, này Ananda, là vừa đủ để nói:
"Tỷ-kheo là người hiền trí, biết suy tư tìm hiểu".
1060. Những định lý khác nhau về thế giới và siêu
thế
Với lời dạy về các nguyên tố của vạn pháp, Đức Thế Tôn đề cập đến những
biểu đồ mang tính toàn diện đối tượng cùa của tuệ tri:
-- Ðến mức độ nào, bạch Thế Tôn, là
vừa đủ để nói: "Tỷ-kheo thiện xảo về giới?"
-- Này Ananda, có mười tám giới này:
nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới; nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức
giới; tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới; thiệt giới, vị giới, thiệt
thức giới; thân giới, xúc giới, thân thức giới; ý giới, pháp giới, ý
thức giới. Này Ananda, cho đến khi biết được, thấy được mười tám
giới này, cho đến mức độ như vậy, này Ananda, là vừa đủ để nói:
"Tỷ-kheo thiện xảo về giới".
-- Nhưng bạch Thế Tôn, có thể có pháp
môn nào khác là vừa đủ để nói: "Tỷ-kheo thiện xảo về giới?"
-- Có thể có, này Ananda. Này Ananda có
sáu giới này: địa giới, thủy giới, phong giới, hỏa giới, không giới,
thức giới. Này Ananda, cho đến khi biết được, thấy được sáu giới này,
cho đến mực độ như vậy, này Ananda, là vừa đủ để nói: "Tỷ-kheo
thiện xảo về giới".
-- Nhưng bạch Thế Tôn, có thể có pháp
môn nào khác, là vừa đủ để nói: "Tỷ-kheo thiện xảo về giới".
-- Có thể có, này Ananda. Này Ananda có
sáu giới này: lạc giới, khổ giới, hỷ giới, ưu giới, xả giới, vô minh
giới. Này Ananda, cho đến khi biết được, thấy được sáu giới này, cho
đến mức độ như vậy này Ananda, là vừa đủ để nói: "Tỷ-kheo thiện
xảo về giới".
-- Nhưng bạch Thế Tôn, có thể có pháp
môn nào khác, là vừa đủ để nói: "Tỷ-kheo thiện xảo về giới?"
-- Có thể có, này Ananda. Này Ananda, có
sáu giới này: dục giới, ly dục giới, sân giới, vô sân giới, hại giới,
bất hại giới. Này Ananda, cho đến khi biết được, thấy được sáu giới
này, cho đến mức độ như vậy, này Ananda, là vừa đủ để nói:
"Tỷ-kheo thiện xảo về giới".
-- Nhưng bạch Thế Tôn, có thể có pháp
môn nào khác, là vừa đủ để nói: "Tỷ-kheo thiện xảo về giới?"
-- Có thể có, này Ananda. Này Ananda, có
ba giới này: dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Này Ananda, cho đến khi
biết được, thấy được ba giới này, cho đến mức độ như vậy này
Ananda, là vừa đủ để nói: "Tỷ- kheo thiện xảo về giới".
-- Nhưng bạch Thế Tôn, có thể có pháp
môn nào khác, là vừa đủ để nói: "Tỷ-kheo thiện xảo về giới?"
-- Có thể có, này Ananda. Này Ananda, có
hai giới này: hữu vi giới và vô vi giới. Này Ananda, cho đến khi biết
được, thấy được hai giới này, cho đến mức độ như vậy, này Ananda, là
vừa đủ để nói: "Tỷ-kheo thiện xảo về giới"
[còn tiếp]
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ Kheo
Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 115 [tóm tắt]
Kinh Đa Giới
(Bahudhātuka Sutta)
(M.iii,
61)
Đức Thế Tôn phân biệt người ngu với
người hiền ở chỗ kẻ ngu có sợ hãi, thất vọng, hoạn nạn, còn người
hiền thì không, và khuyên các Tỷ-kheo học tập để trở thành người hiền,
biết suy tư tìm hiểu. Tôn giả Ānanda hỏi đức Phật thế nào là người
hiền, và Thế Tôn định nghĩa hiền là vị Tỷ- kheo thiện xảo về giới,
về xứ, về duyên khởi, về xứ phi xứ.
I. Về giới, có sáu phạm trù như sau:
1/ Mười tám giới: sáu căn, sáu trần,
sáu thức.
2/ Sáu giới: Địa, thủy, hỏa, phong,
không, thức.
3/ Sáu giới: Lạc, khổ, hỷ, ưu, xả,
vô minh.
4/ Sáu giới: Dục, vô dục, sân, vô sân,
hại, bất hại.
5/ Ba giới: Dục, sắc và vô sắc.
6/ Hai giới: Hữu vi và vô vi giới.
II. Về xứ, có sáu nội, ngoại xứ là:
Mắt và sắc, tai và tiếng, mũi và mùi, lưỡi và vị, thân và xúc, ý và
pháp.
III. Thiện xảo về duyên khởi là: Biết
rõ cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không, do cái này sanh,
cái kia sanh, do cái này diệt, cái kia diệt. Biết rõ mười hai nhân duyên,
từ vô minh đến lão, tử, là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn, và biết
rõ do vô minh diệt thì hành diệt, cho đến do sanh diệt thì lão, tử, sầu,
bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là sự đoạn diệt hoàn toàn của khổ uẩn
này.
IV. Thiện xảo về xứ phi xứ: Là khi
vị Tỷ-kheo biết rõ những sự kiện có thể xảy ra và không thể xảy ra
như sau:
1/ Một người thành tựu chánh kiến
lại xem các hành là thường, lạc, các pháp là có ngã; sự kiện này không
thể xảy ra. Nhưng một người phàm phu xem các hành là thường, lạc, các
pháp có ngã là điều có thể xảy ra.
2/ Một vị thành tựu chánh kiến còn
phạm năm tội nghịch (giết cha, giết mẹ, giết A- la-hán, phá hòa hợp
Tăng, làm Phật chảy máu) là điều không xảy ra. Phàm phu làm năm tội
nghịch là điều có xảy ra.
3/ Một vị thành tựu chánh kiến có thể
đề cao một vị Đạo sự khác (ngoài Phật) là điều không xảy ra. Phàm phu
thì có.
4/ Trong cùng một thế giới, hai vị
Chánh đẳng giác xuất hiện cùng một lần, sự kiện
ấy không xảy ra. Một vị thì có. Đối
với Chuyển luân vương cũng vậy.
5/ Sự kiện này không xảy ra, là nữ
nhân có thể thành Phật, thành Đế thích, thành Phạm thiên và thành Ma
vương. Nam nhân thì có.
6/ Vị ấy biết rõ sự kiện này không
xảy ra, khi một thân ác hành, khẩu ác hành, ý ác hành có thể sanh ra quả
báo tốt đẹp; người làm thân, khẩu, ý ác hành có thể sanh ra quả báo tốt
đẹp; người làm thân, khẩu, ý ác hành có thể sanh vào cảnh giới tốt
đẹp. Sự kiện này có thể xảy ra, khi một thân, khẩu, ý ác hành sanh quả
báo xấu và người làm ba ác hành ấy sanh vào đọa xứ, địa ngục.
7/ Vị ấy biết rõ sự kiện này không
xảy ra, khi một thân, khẩu, ý thiện hành có thể sanh ra quả báo xấu và
người làm ba thiện hành ấy có thể sanh vào cảnh giới xấu. Ngược lại,
sự kiện có xảy ra là thân, khẩu, ý thiện hành có thể sanh quả báo tốt,
người làm ba thiện hành sẽ được sanh vào thiện thú, thiên giới, cõi
đời này.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy, Tôn
giả Ānanda hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 115 [dàn ý]
Kinh Đa Giới
(Bahudhātuka Sutta)
(M.iii,
61)
A. Duyên khởi:
Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo
về thuyết giảng.
B. Chánh kinh:
I. Thế Tôn dạy sợ
hãi, thất vọng, hoạn nạn chỉ đến với người ngu, không đến với người hiền trí.
Do vậy, các Tỷ-kheo cần phải học tập để trở thành người hiền trí.
II. Thế Tôn giải
thích người hiền trí là người thiện xảo về giới, về xứ, về duyên khởi, về xứ và
phi xứ.
1. Thiện
xảo về giới:
a. 18 giới.
b. 6 giới.
c. 6 giới.
d. 6 giới.
e. 3 giới.
f. 2 giới.
2. Thiện
xảo về xứ: 6 nội ngoại xứ.
3. Thiện
xảo về duyên khởi.
4. Thiện
xảo về xứ và phi xứ, có tất cả là 28 xứ và phi xứ.
III. Tôn giả nanda
tán thán pháp môn Thế Tôn vừa thuyết giảng và hỏi pháp môn ấy tên gì, Thế Tôn
nói lên những tên để gọi cho pháp môn ấy là Đa giới, Bốn chuyển, Pháp kính, Trống
bất tử.
C. Kết luận:
Tôn giả nanda hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 115 [toát
yếu]
Kinh Đa Giới
(Bahudhātuka Sutta)
I.
Toát yếu
Bahudhàtuka Sutta - The Many Kinds of Elements.
The Buddha expounds in detail the elements, the sense
bases, dependent origination, and the kinds of situations that are possible and
impossible in the world.
Nhiều loại yếu tố.
Phật giảng chi tiết về (mười tám) giới,
(mười hai) xứ, duyên khởi, và những trường hợp có thể, không thể
xảy ra ở đời.
II. Tóm tắt
Phật dạy tất cả những sự sợ hãi, thất vọng
và hoạn nạn chỉ sinh khởi cho kẻ ngu, không phải cho người hiền
trí, cũng như lửa lan từ một ngôi nhà cỏ và đốt nó cháy rụi. Bởi
thế, các tỷ kheo hãy phát tâm trở thành người hiền, biết suy tư
tìm hiểu. Tôn giả A-nan hỏi thế nào là hiền. Phật dạy, ấy là khi
tỷ kheo thiện xảo về Giới [1], xứ, duyên khởi và về xứ phi xứ.
- Thiện xảo về Giới là biết rõ mười tám
giới (sáu căn, sáu trần, sáu thức); hoặc sáu giới (bốn đại thêm
không, thức); hoặc sáu giới là lạc, khổ, hỷ, ưu, xả, và vô minh
[2], hoặc dục sân hại, ly dục vô sân bất hại [3]; ba giới là dục,
sắc, vô sắc [4]; hoặc hai giới là hữu vi, vô vi [5].
- Xứ có sáu nội ngoại xứ là mắt và sắc tai
và tiếng... cho đến ý và pháp [6].
- Duyên khởi có 12 nhân duyên.
- Xứ phi xứ là biết rõ chuyện
có thể xảy ra hoặc không thể xảy ra như sau:
Không thể có việc thành tựu
chánh kiến [7] mà lại xem các hành là thường, lạc [8], ngã; phạm
năm tội nghịch; đề cao một đạo sư khác. Phàm phu thì có thể phạm
những sai lầm này, xem một pháp nào đó là ngã [9] và giết cha, giết
mẹ, giết A-la-hán, phá tăng hòa hợp, và làm thân Phật chảy máu
[10] hoặc đề cao một đạo sư khác [11].
Cũng không thể có chuyện trong
một thế giới mà đồng thời xuất hiện hai vị Phật [12], hai vua Chuyển
luân. Cũng không thể có chuyện nữ nhân mà thành Phật [13], Ma
Vương, Ðế thích, Phạm thiên. Không thể có chuyện do nhân duyên [14]
nghĩ, làm, nói ác mà được quả vui và sinh vào cõi lành hay ngược
lại. Những điều ngược lại thì có thể xảy ra.
Khi được hỏi tên pháp môn này
là gì, Phật dạy nên gọi là Ða giới, hoặc Bốn chuyển [15], Pháp
kính, hoặc Trống bất tử, hoặc Vô thượng chiến thắng.
III. Chú giải
1. Mười tám giới được giải
thích chi tiết trong Thanh Tịnh Đạo chương 15. Vắn tắt, ý giới (manodhātu) theo Luận, bao
gồm ngũ môn hướng tâm (pancadvārāvajjana-citta)
và ý thức tiếp thu đối tượng sau khi các giác quan đã nhận biết. Ý thức giới (manovinnānadhātu)
thì bao gồm mọi loại thức trừ năm thân thức và ý giới. Pháp giới
(dhammadhātu) bao gồm các loại vi tế sắc không ở trong tầm
nhận biết của giác quan, ba tâm uẩn thọ tưởng hành, và Niết-bàn.
Nó không gồm các quan niệm, ý tưởng trừu tượng, phán đoán, vv.
Mặc dù những thứ sau này được gồm trong khái niệm về tâm pháp
(đối tượng của tâm), pháp giới chỉ gồm những gì có tự tính,
không bao gồm những gì do tâm tạo nên.
2. Lạc và khổ giới là lạc thọ và khổ thọ
của thân, hỷ và ưu giới là vui khổ của tâm, xả giới là cảm thọ
không vui không khổ. Theo MA, vô minh được đưa vào đây vì nói có
vẻ giống với xả giới.
3. Vibhanga định nghĩa đây là sáu loại
tầm (vitakka) tương ứng, xem Trung bộ 19, đoạn 2.
4. MA giải thích dục là năm uẩn thuộc dục
giới, sắc là năm uẩn thuộc sắc giới, vô sắc là bốn uẩn thuộc vô
sắc giới.
5. MA: hữu vi giới bao gồm mọi pháp do duyên
sinh và là tên gọi ám chỉ năm uẩn. Vô vi giới là Niết-bàn.
6. Mười hai xứ được TTĐ giải thích trong
chương 15. Ý xứ bao gồm mọi loại thức và như vậy nó gồm cả bảy
giới làm nhiệm vụ của thức. Pháp xứ cũng như pháp giới.
7. MA: một người có chánh kiến (ditthisampanno)
là có kiến thuộc đạo, tối thiểu là một thánh đệ tử đã đắc quả
Dự lưu. Hành đây cần hiểu là một hành hữu vi, nghĩa là bất cứ
pháp duyên sinh nào.
8. MA nêu lên rằng một thánh đệ tử chưa chứng
A-la- hán cũng còn có thể xem các hành là lạc với tâm không tương
ưng tà kiến, nhưng vị ấy không thể giữ cái quan
niệm rằng bất cứ hành nào cũng là khả lạc.
Mặc dù tưởng và ý hành khả lạc có khởi lên trong tâm, vị ấy vẫn
phản tỉnh để biết thế là lầm.
9. Trong đoạn nói về tự ngã, chữ hành được
thay bằng chữ pháp. Theo MA, sở dĩ như vậy vì để bao gồm cả những
khái niệm như tướng về Kasina vân vân mà phàm phu dễ xem là tự
ngã. Nhưng xét sự kiện Niết-bàn được mô tả là bất tử và lạc,
và cũng dễ bị tưởng là ngã (xem kinh số 1), nên chữ hành có thể
nói chỉ bao gồm các pháp hữu vi, còn chữ pháp thì gồm cả hữu vi
và vô vi. Nhưng lối giải thích này không có trong luận giải của
luận sư TTÐ.
10. Ðoạn này phân biệt phàm phu
với thánh đệ tử trên phương diện năm tội nghịch. Theo MA, một
thánh đệ tử thì không thể nào cố ý đoạt bất cứ sinh mạng của
chúng sinh nào, nhưng ở đây nêu lên việc giết cha mẹ để nhấn mạnh
khía cạnh nguy hiểm của cương vị phàm phu và năng lực của thánh
đệ tử.
11. Nghĩa là có thể thừa nhận
bất cứ ai ngoài Phật làm Vô thượng sư.
12. MA: Không thể nào có một
vị Phật khác ra đời kể từ thời gian một Bồ-tát nhập thai mẹ lần
cuối cho đến khi giáo lý của Ngài hoàn toàn biến mất.
13. Lời này chỉ xác quyết rằng
một vị Phật toàn giác luôn luôn thuộc nam tánh, nhưng không phủ
nhận một người hiện tại là phụ nữ có thể thành Phật trong tương
lai. Nhưng muốn thế thì trước hết người ấy phải tái sinh thành nam
tử.
14. Trong đoạn này, cái câu do
nhân ấy do duyên ấy (tannidāna tappaccayā) là hết sức quan
trọng. Như Phật sẽ cho thấy trong kinh 136, một người phạm ác hành
có thể tái sinh lên thiên giới và người làm thiện hành có thể
tái sinh vào đọa xứ. Nhưng trong các trường hợp này, sự tái sinh
là do nguyên nhân một nghiệp khác với nghiệp người ấy thường làm.
Sự đúng luật sát sao chỉ áp dụng cho nghiệp và quả của nó.
15. Bốn chuyển là Giới, Xứ,
Duyên sinh và Xứ phi xứ (việc có thể xảy ra, không thể xảy ra)
IV. Pháp số
(không có)
V. Kệ tụng
Tất cả những sợ hãi
Thất vọng và tai ương
Thất vọng và tai ương
Chỉ đến cho kẻ ngu,
Không phải cho người trí.
Như từ căn lều cỏ
Dù đẹp xinh kiên cố
Một đóm lửa nổi lên
Cũng đốt tan tành nó
Bởi thế, hãy quyết tâm
Trở thành một người hiền
Biết suy tư tìm hiểu
Ðây là lời Phật dạy.
Ðây là lời Phật dạy.
Hiền trí là thiện xảo
Về Giới, xứ, duyên khởi
Về Giới, xứ, duyên khởi
Việc có thể xảy ra
Và không thể xảy ra.
Giới là mười tám giới:
Mắt sắc và nhãn thức
Ý, pháp và ý thức
Cộng thành mười tám giới.
Mắt sắc và nhãn thức
Ý, pháp và ý thức
Cộng thành mười tám giới.
Lại có sáu loại giới
Bốn đại thêm không, thức Biết rõ các thứ ấy
Là thiện xảo về giới.
Bốn đại thêm không, thức Biết rõ các thứ ấy
Là thiện xảo về giới.
Lạc khổ hỷ ưu xả
Cuối cùng thêm vô minh
Cuối cùng thêm vô minh
Là sáu giới thuộc tâm
Các tỷ kheo nên biết.
Dục, sắc và vô sắc
Ðây gọi là ba giới
Hữu vi và vô vi
Ðây gọi là hai giới.
Xứ gồm sáu trong ngoài
Con mắt và hình sắc
Lỗ tai và âm thanh
Cho đến ý và pháp.
Lỗ tai và âm thanh
Cho đến ý và pháp.
Thiện xảo về duyên khởi:
Ðây có tức kia có
Ðây sinh thì kia sinh
Ðây sinh thì kia sinh
Ðây không thì kia không
Ðây diệt, kia cũng diệt.
Do vô minh, sinh hành,
Do hành sinh, thức sinh
Do thức, danh thức sinh
Do danh sắc, sáu nhập
Do sáu nhập, có xúc
Do xúc mà có thọ
Do thọ mà có ái
Do thọ mà có ái
Do ái mà có thủ
Do thủ mà có hữu
Do hữu mà có sinh
Do sinh có già chết Sầu bi
khổ não ưu.
Vô minh diệt hành diệt
Hành diệt thì thức diệt
Thức diệt, danh sắc diệt
Cho đến già chết diệt.
Ðây là sinh và diệt
Của toàn đống khổ này.
Của toàn đống khổ này.
Tỷ kheo biết như vậy
Thiện xảo về duyên sinh.
Thiện xảo Xứ phi xứ
Là tỷ kheo biết rõ
Chuyện có thể xảy ra
Và không thể xảy ra:
Thành tựu chính tri kiến
Thì không thể quan niệm
Có thường, lạc, và ngã
Trong các pháp hữu vi;
Hoặc phạm năm tội nghịch;
Ðề cao đạo sư khác.
Cũng không thể có chuyện
Ðồng thời, trên thế giới
Xuất hiện hai vị Phật,
Hai Chuyển luân thánh vương.
Cũng không thể có chuyện
Nữ nhân mà thành Phật,
Thành Ma vương, Ðế thích
Hoặc vua trời Phạm thiên.
Cũng không thể có chuyện
Do nghĩ, nói, làm, ác
Mà được quả an vui
Và sinh vào cõi lành
Mà được quả an vui
Và sinh vào cõi lành
Do nghĩ nói làm thiện
Mà gặp quả đau khổ
Và sinh vào đọa xứ.
Việc có thể xảy ra
Là những điều ngược lại.
Là những điều ngược lại.
Kinh này tên Ða giới
Hoặc Pháp kính, Bốn chuyển
Hoặc Pháp kính, Bốn chuyển
Hoặc tên Trống bất tử
Tỷ kheo hãy thọ trì.
Tỷ kheo hãy thọ trì.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
115. Bahudhātukasuttaṃ [Mūla]
124. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ samayaṃ Bhagavā
sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Tatra kho Bhagavā
bhikkhū āmantesi : ''bhikkhavoti. ''Bhadanteti te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ.
Bhagavā etadavoca : ''yāni kānici, bhikkhave, bhayāni uppajjanti sabbāni tāni
bālato uppajjanti, no paṇḍitato ye keci upaddavā uppajjanti sabbe te bālato
uppajjanti, no paṇḍitato ye keci upasaggā uppajjanti sabbe te bālato
uppajjanti, no paṇḍitato. Seyyathāpi, bhikkhave , naḷāgārā vā tiṇāgārā vā aggi
mutto [aggimukko (sī. pī.)] kūṭāgārānipi dahati ullittāvalittāni nivātāni
phusitaggaḷāni pihitavātapānāni evameva kho, bhikkhave, yāni kānici bhayāni
uppajjanti sabbāni tāni bālato uppajjanti, no paṇḍitato ye keci upaddavā
uppajjanti sabbe te bālato uppajjanti, no paṇḍitato ye keci upasaggā uppajjanti
sabbe te bālato uppajjanti, no paṇḍitato. Iti kho, bhikkhave, sappaṭibhayo
bālo, appaṭibhayo paṇḍito saupaddavo bālo, anupaddavo paṇḍito saupasaggo bālo,
anupasaggo paṇḍito. Natthi, bhikkhave, paṇḍitato bhayaṃ, natthi paṇḍitato
upaddavo, natthi paṇḍitato upasaggo. Tasmātiha, bhikkhave, 'paṇḍitā bhavissāma
vīmaṃsakāti : evañhi vo, bhikkhave, sikkhitabbanti. Evaṃ vutte, āyasmā ānando bhagavantaṃ etadavoca :
''kittāvatā nu kho, bhante, paṇḍito bhikkhu 'vīmaṃsakoti alaṃ vacanāyāti?
''yato kho, ānanda, bhikkhu dhātukusalo ca hoti, āyatanakusalo ca hoti, paṭiccasamuppādakusalo
ca hoti, ṭhānāṭhānakusalo ca hoti : ettāvatā kho, ānanda, paṇḍito bhikkhu 'vīmaṃsakoti
alaṃ vacanāyāti.
125. ''Kittāvatā pana, bhante, 'dhātukusalo bhikkhūti alaṃ
vacanāyāti? ''aṭṭhārasa kho imā, ānanda, dhātuyo : cakkhudhātu,
rūpadhātu, cakkhuviññāṇadhātu sotadhātu, saddadhātu, sotaviññāṇadhātu
ghānadhātu, gandhadhātu, ghānaviññāṇadhātu jivhādhātu, rasadhātu, jivhāviññāṇadhātu
kāyadhātu, phoṭṭhabbadhātu, kāyaviññāṇadhātu manodhātu, dhammadhātu, manoviññāṇadhātu.
Imā kho, ānanda, aṭṭhārasa dhātuyo yato jānāti passati : ettāvatāpi kho,
ānanda, 'dhātukusalo bhikkhūti alaṃ vacanāyāti. ''Siyā pana, bhante, aññopi
pariyāyo, yathā 'dhātukusalo bhikkhūti alaṃ vacanāyāti? ''siyā, ānanda.
Chayimā, ānanda, dhātuyo : pathavīdhātu, āpodhātu, tejodhātu, vāyodhātu,
ākāsadhātu, viññāṇadhātu. Imā kho, ānanda, cha dhātuyo yato jānāti passati : ettāvatāpi kho, ānanda, 'dhātukusalo
bhikkhūti alaṃ vacanāyāti. ''Siyā pana, bhante, aññopi pariyāyo, yathā
'dhātukusalo bhikkhūti alaṃ vacanāyāti? ''siyā, ānanda. Chayimā, ānanda,
dhātuyo : sukhadhātu , dukkhadhātu, somanassadhātu,
domanassadhātu, upekkhādhātu, avijjādhātu. Imā kho, ānanda, cha dhātuyo yato
jānāti passati : ettāvatāpi kho, ānanda, 'dhātukusalo bhikkhūti alaṃ
vacanāyāti. ''Siyā pana, bhante, aññopi pariyāyo, yathā 'dhātukusalo bhikkhūti
alaṃ vacanāyāti? ''siyā, ānanda. Chayimā, ānanda, dhātuyo : kāmadhātu,
nekkhammadhātu, byāpādadhātu, abyāpādadhātu, vihiṃsādhātu , avihiṃsādhātu. Imā kho, ānanda,
cha dhātuyo yato jānāti passati : ettāvatāpi kho, ānanda, 'dhātukusalo
bhikkhūti alaṃ vacanāyāti. ''Siyā pana, bhante, aññopi pariyāyo, yathā
'dhātukusalo bhikkhūti alaṃ vacanāyāti? ''siyā, ānanda. Tisso imā, ānanda,
dhātuyo : kāmadhātu, rūpadhātu, arūpadhātu. Imā kho, ānanda, tisso dhātuyo yato
jānāti passati : ettāvatāpi kho, ānanda, 'dhātukusalo bhikkhūti alaṃ
vacanāyāti. ''Siyā pana, bhante, aññopi pariyāyo, yathā
'dhātukusalo bhikkhūti alaṃ vacanāyāti? ''siyā, ānanda. Dve imā, ānanda,
dhātuyo : saṅkhatādhātu, asaṅkhatādhātu. Imā kho, ānanda, dve dhātuyo yato
jānāti passati : ettāvatāpi kho, ānanda, 'dhātukusalo bhikkhūti alaṃ
vacanāyāti.
126. ''Kittāvatā pana, bhante, 'āyatanakusalo bhikkhūti alaṃ
vacanāyāti? ''cha kho panimāni, ānanda, ajjhattikabāhirāni āyatanāni :
cakkhuceva rūpā ca sotañca saddā ca ghānañca gandhā ca
jivhā ca rasā ca kāyo ca phoṭṭhabbā ca mano ca dhammā ca. Imāni kho, ānanda,
cha ajjhattikabāhirāni āyatanāni yato jānāti passati : ettāvatā kho, ānanda,
'āyatanakusalo bhikkhūti alaṃ vacanāyāti. ''Kittāvatā pana, bhante, 'paṭiccasamuppādakusalo
bhikkhūti alaṃ vacanāyāti? ''idhānanda, bhikkhu evaṃ pajānāti : 'imasmiṃ sati
idaṃ hoti, imassuppādā idaṃ uppajjati, imasmiṃ asati idaṃ na hoti, imassa
nirodhā idaṃ nirujjhati, yadidaṃ : avijjāpaccayā saṅkhārā, saṅkhārapaccayā
viññāṇaṃ, viññāṇapaccayā nāmarūpaṃ, nāmarūpapaccayā saḷāyatanaṃ, saḷāyatanapaccayā
phasso, phassapaccayā vedanā, vedanāpaccayā taṇhā, taṇhāpaccayā upādānaṃ,
upādānapaccayā bhavo , bhavapaccayā jāti, jātipaccayā
jarāmaraṇaṃ sokaparidevadukkhadomanassūpāyāsā sambhavanti. Evametassa kevalassa
dukkhakkhandhassa samudayo hoti. Avijjāyatveva asesavirāganirodhā saṅkhāranirodho,
saṅkhāranirodhā viññāṇanirodho, viññāṇanirodhā nāmarūpanirodho, nāmarūpanirodhā
saḷāyatananirodho, saḷāyatananirodhā phassanirodho, phassanirodhā
vedanānirodho, vedanānirodhā taṇhānirodho, taṇhānirodhā upādānanirodho,
upādānanirodhā bhavanirodho, bhavanirodhā jātinirodho, jātinirodhā jarāmaraṇaṃ
sokaparidevadukkhadomanassūpāyāsā nirujjhanti. Evametassa kevalassa
dukkhakkhandhassa nirodho hoti. Ettāvatā kho, ānanda, 'paṭiccasamuppādakusalo
bhikkhūti alaṃ vacanāyāti.
127. ''Kittāvatā pana, bhante, 'ṭhānāṭhānakusalo bhikkhūti alaṃ
vacanāyāti? ''idhānanda, bhikkhu 'aṭṭhānametaṃ anavakāso yaṃ diṭṭhisampanno
puggalo kañci [kiñci (syā. kaṃ. ka.)] saṅkhāraṃ niccato upagaccheyya, netaṃ ṭhānaṃ
vijjatīti pajānāti 'ṭhānañca kho etaṃ vijjati yaṃ puthujjano kañci saṅkhāraṃ niccato upagaccheyya, ṭhānametaṃ
vijjatīti pajānāti 'aṭṭhānametaṃ anavakāso yaṃ diṭṭhisampanno puggalo kañci saṅkhāraṃ
sukhato upagaccheyya, netaṃ ṭhānaṃ vijjatīti pajānāti 'ṭhānañca kho etaṃ
vijjati yaṃ puthujjano kañci saṅkhāraṃ sukhato upagaccheyya, ṭhānametaṃ
vijjatīti pajānāti. 'Aṭṭhānametaṃ anavakāso yaṃ diṭṭhisampanno puggalo kañci
dhammaṃ attato upagaccheyya, netaṃ ṭhānaṃ vijjatīti pajānāti, 'ṭhānañca kho etaṃ
vijjati yaṃ puthujjano kañci dhammaṃ attato upagaccheyya, ṭhānametaṃ vijjatīti
pajānāti.
128. '''Aṭṭhānametaṃ anavakāso yaṃ diṭṭhisampanno puggalo mātaraṃ
jīvitā voropeyya, netaṃ ṭhānaṃ vijjatīti pajānāti 'ṭhānañca kho etaṃ vijjati yaṃ
puthujjano mātaraṃ jīvitā voropeyya, ṭhānametaṃ vijjatīti pajānāti. 'Aṭṭhānametaṃ
anavakāso yaṃ diṭṭhisampanno puggalo pitaraṃ jīvitā voropeyya - pe - arahantaṃ jīvitā voropeyya, ṭhānametaṃ
vijjatīti pajānāti 'aṭṭhānametaṃ anavakāso yaṃ diṭṭhisampanno puggalo duṭṭhacitto
tathāgatassa lohitaṃ uppādeyya, netaṃ ṭhānaṃ vijjatīti pajānāti 'ṭhānañca kho
etaṃ vijjati yaṃ puthujjano duṭṭhacitto tathāgatassa lohitaṃ uppādeyya, ṭhānametaṃ
vijjatīti pajānāti. 'Aṭṭhānametaṃ anavakāso yaṃ diṭṭhisampanno puggalo saṅghaṃ
bhindeyya, netaṃ ṭhānaṃ vijjatīti pajānāti 'ṭhānañca kho etaṃ vijjati yaṃ
puthujjano saṅghaṃ bhindeyya, ṭhānametaṃ vijjatīti pajānāti. 'Aṭṭhānametaṃ
anavakāso yaṃ diṭṭhisampanno puggalo aññaṃ satthāraṃ uddiseyya, netaṃ ṭhānaṃ
vijjatīti pajānāti 'ṭhānañca kho etaṃ vijjati yaṃ puthujjano aññaṃ satthāraṃ
uddiseyya, ṭhānametaṃ vijjatīti pajānāti.
129. '''Aṭṭhānametaṃ anavakāso yaṃ ekissā lokadhātuyā dve
arahanto sammāsambuddhā apubbaṃ acarimaṃ uppajjeyyuṃ, netaṃ ṭhānaṃ vijjatīti
pajānāti 'ṭhānañca kho etaṃ vijjati yaṃ ekissā lokadhātuyā eko arahaṃ
sammāsambuddho uppajjeyya, ṭhānametaṃ vijjatīti pajānāti. 'Aṭṭhānametaṃ
anavakāso yaṃ ekissā lokadhātuyā dve rājāno cakkavattino apubbaṃ acarimaṃ
uppajjeyyuṃ, netaṃ ṭhānaṃ vijjatīti pajānāti 'ṭhānañca kho etaṃ vijjati yaṃ
ekissā lokadhātuyā eko rājā cakkavattī uppajjeyya, ṭhānametaṃ vijjatīti
pajānāti.
130. '''Aṭṭhānametaṃ anavakāso yaṃ itthī arahaṃ assa sammāsambuddho
,
netaṃ ṭhānaṃ vijjatīti pajānāti 'ṭhānañca kho etaṃ vijjati yaṃ puriso arahaṃ
assa sammāsambuddho, ṭhānametaṃ vijjatīti pajānāti. 'Aṭṭhānametaṃ anavakāso yaṃ
itthī rājā assa cakkavattī, netaṃ ṭhānaṃ vijjatīti pajānāti 'ṭhānañca kho etaṃ
vijjati yaṃ puriso rājā assa cakkavattī, ṭhānametaṃ vijjatīti pajānāti. 'Aṭṭhānametaṃ
anavakāso yaṃ itthī sakkattaṃ kareyya ... mārattaṃ kareyya... brahmattaṃ
kareyya, netaṃ ṭhānaṃ vijjatīti pajānāti 'ṭhānañca kho etaṃ vijjati yaṃ puriso
sakkattaṃ kareyya... mārattaṃ kareyya... brahmattaṃ
kareyya, ṭhānametaṃ vijjatīti pajānāti.
131. '''Aṭṭhānametaṃ anavakāso yaṃ kāyaduccaritassa iṭṭho kanto
manāpo vipāko nibbatteyya, netaṃ ṭhānaṃ vijjatīti pajānāti 'ṭhānañca kho etaṃ
vijjati yaṃ kāyaduccaritassa aniṭṭho akanto amanāpo vipāko nibbatteyya, ṭhānametaṃ
vijjatīti pajānāti. 'Aṭṭhānametaṃ anavakāso yaṃ vacīduccaritassa - pe - yaṃ
manoduccaritassa iṭṭho kanto manāpo vipāko nibbatteyya, netaṃ ṭhānaṃ vijjatīti
pajānāti ṭhānañca kho etaṃ vijjati yaṃ vacīduccaritassa - pe - yaṃ
manoduccaritassa aniṭṭho akanto amanāpo vipāko nibbatteyya, ṭhānametaṃ
vijjatīti pajānāti. 'Aṭṭhānametaṃ anavakāso yaṃ kāyasucaritassa aniṭṭho akanto
amanāpo vipāko nibbatteyya, netaṃ ṭhānaṃ vijjatīti pajānāti 'ṭhānañca kho etaṃ
vijjati yaṃ kāyasucaritassa iṭṭho kanto manāpo vipāko nibbatteyya, ṭhānametaṃ
vijjatīti pajānāti. 'Aṭṭhānametaṃ anavakāso yaṃ vacīsucaritassa - pe - yaṃ
manosucaritassa aniṭṭho akanto amanāpo vipāko nibbatteyya, netaṃ ṭhānaṃ
vijjatīti pajānāti 'ṭhānañca kho etaṃ vijjati yaṃ vacīsucaritassa - pe - yaṃ
manosucaritassa iṭṭho kanto manāpo vipāko nibbatteyya, ṭhānametaṃ vijjatīti
pajānāti. '''Aṭṭhānametaṃ anavakāso yaṃ kāyaduccaritasamaṅgī taṃnidānā
tappaccayā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjeyya, netaṃ ṭhānaṃ
vijjatīti pajānāti 'ṭhānañca kho etaṃ vijjati yaṃ kāyaduccaritasamaṅgī taṃnidānā tappaccayā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā
apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjeyya, ṭhānametaṃ vijjatīti pajānāti.
'Aṭṭhānametaṃ anavakāso yaṃ vacīduccaritasamaṅgī - pe - yaṃ
manoduccaritasamaṅgī taṃnidānā tappaccayā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ
saggaṃ lokaṃ upapajjeyya, netaṃ ṭhānaṃ vijjatīti pajānāti 'ṭhānañca kho etaṃ
vijjati yaṃ vacīduccaritasamaṅgī - pe - yaṃ manoduccaritasamaṅgī taṃnidānā
tappaccayā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ
upapajjeyya, ṭhānametaṃ vijjatīti pajānāti. 'Aṭṭhānametaṃ anavakāso yaṃ
kāyasucaritasamaṅgī taṃnidānā tappaccayā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ
duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjeyya, netaṃ ṭhānaṃ
vijjatīti pajānāti 'ṭhānañca kho etaṃ vijjati yaṃ kāyasucaritasamaṅgī taṃnidānā
tappaccayā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjeyya, ṭhānametaṃ vijjatīti
pajānāti. 'Aṭṭhānametaṃ anavakāso yaṃ vacīsucaritasamaṅgī - pe - yaṃ
manosucaritasamaṅgī taṃnidānā tappaccayā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ
duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjeyya, netaṃ ṭhānaṃ vijjatīti pajānāti 'ṭhānañca
kho etaṃ vijjati yaṃ vacīsucaritasamaṅgī - pe - yaṃ manosucaritasamaṅgī taṃnidānā
tappaccayā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjeyya, ṭhānametaṃ
vijjatīti pajānāti. Ettāvatā kho, ānanda, 'ṭhānāṭhānakusalo bhikkhūti alaṃ
vacanāyāti.
132. Evaṃ vutte āyasmā ānando bhagavantaṃ etadavoca :
''acchariyaṃ, bhante, abbhutaṃ, bhante! konāmo ayaṃ, bhante, dhammapariyāyoti?
''tasmātiha tvaṃ, ānanda, imaṃ dhammapariyāyaṃ 'bahudhātukotipi naṃ dhārehi,
'catuparivaṭṭotipi naṃ dhārehi, 'dhammādāsotipi naṃ dhārehi, 'amatadundubhītipi
[dudrabhītipi (ka.)] naṃ dhārehi, 'anuttaro saṅgāmavijayotipi naṃ dhārehīti.
Idamavoca Bhagavā. Attamano āyasmā ānando bhagavato bhāsitaṃ
abhinandīti.
Bahudhātukasuttaṃ niṭṭhitaṃ pañcamaṃ.
-ooOoo-
115. Bahudhātukasuttavaṇṇanā [Atthakathā]
124.
Evaṃ me sutanti bahudhātukasuttaṃ. Tattha bhayānītiādīsu
bhayanti cittutrāso. Upaddavoti anekaggatākāro. Upasaggoti
upasaṭṭhākāro tattha tattha lagganākāro. Tesaṃ evaṃ nānattaṃ veditabbaṃ –
pabbatādivisamanissitā corā janapadavāsīnaṃ pesenti ‘‘mayaṃ asukadivase nāma
tumhākaṃ gāmaṃ paharissāmā’’ti. Taṃ pavattiṃ sutakālato paṭṭhāya bhayaṃ santāsaṃ āpajjanti. Ayaṃ cittutrāso nāma.
‘‘Idha no corā kupitā anatthampi āvaheyyu’’nti hatthasāraṃ gahetvā
dvipadacatuppadehi saddhiṃ araññaṃ pavisitvā tattha tattha bhūmiyaṃ nipajjanti,
ḍaṃsamakasādīhi khajjamānā gumbantarāni pavisanti, khāṇukaṇṭake maddanti. Tesaṃ
evaṃ vicarantānaṃ vikkhittabhāvo anekaggatākāro nāma. Tato coresu yathāvutte
divase anāgacchantesu ‘‘tucchakasāsanaṃ taṃ bhavissati, gāmaṃ pavisissāmā’’ti
saparikkhārā gāmaṃ pavisanti, atha tesaṃ paviṭṭhabhāvaṃ ñatvā gāmaṃ parivāretvā
dvāre aggiṃ datvā manusse ghātetvā corā sabbaṃ vibhavaṃ vilumpetvā gacchanti.
Tesu ghātitāvasesā aggiṃ nibbāpetvā koṭṭhacchāyabhitticchāyādīsu tattha tattha
laggitvā nisīdanti naṭṭhaṃ anusocamānā. Ayaṃ upasaṭṭhākāro lagganākāro nāma.
Naḷāgārāti naḷehi paricchannā agārā, sesasambhārā panettha rukkhamayā
honti. Tiṇāgārepi eseva nayo. Bālato uppajjantīti bālameva nissāya
uppajjanti. Bālo hi apaṇḍitapuriso rajjaṃ vā uparajjaṃ vā aññaṃ vā pana
mahantaṃ ṭhānaṃ patthento katipaye attanā sadise vidhavāputte mahādhutte
gahetvā ‘‘etha ahaṃ tumhe issare karissāmī’’ti pabbatagahanādīni nissāya
antante gāme paharanto dāmarikabhāvaṃ jānāpetvā anupubbena nigamepi janapadepi
paharati, manussā gehāni chaḍḍetvā khemantaṭṭhānaṃ patthayamānā pakkamanti, te
nissāya vasantā bhikkhūpi bhikkhuniyopi attano attano vasanaṭṭhānāni pahāya
pakkamanti. Gatagataṭṭhāne bhikkhāpi senāsanampi dullabhaṃ
hoti. Evaṃ catunnaṃ parisānaṃ bhayaṃ āgatameva hoti. Pabbajitesupi dve bālā
bhikkhū aññamaññaṃ vivādaṃ paṭṭhapetvā codanaṃ ārabhanti.
Iti kosambivāsikānaṃ viya mahākalaho uppajjati, catunnaṃ parisānaṃ bhayaṃ
āgatameva hotīti evaṃ yāni kānici bhayāni uppajjanti, sabbāni tāni bālato
uppajjantīti veditabbāni.
Etadavocāti bhagavatā dhammadesanā matthakaṃ
apāpetvāva niṭṭhāpitā. Yaṃnūnāhaṃ dasabalaṃ pucchitvā sabbaññutaññāṇenevassa
desanāya pāripūriṃ kareyyanti cintetvā etaṃ ‘‘kittāvatā nu
kho, bhante’’tiādivacanaṃ avoca.
125. Aṭṭhārasasu dhātūsu aḍḍhekādasadhātuyo rūpapariggaho,
aḍḍhaṭṭhamakadhātuyo arūpapariggahoti rūpārūpapariggahova kathito. Sabbāpi
khandhavasena pañcakkhandhā honti. Pañcapi khandhā dukkhasaccaṃ, tesaṃ
samuṭṭhāpikā taṇhā samudayasaccaṃ, ubhinnaṃ appavatti nirodhasaccaṃ,
nirodhapajānanā paṭipadā maggasaccaṃ. Iti catusaccakammaṭṭhānaṃ ekassa
bhikkhuno niggamanaṃ matthakaṃ pāpetvā kathitaṃ hoti. Ayamettha saṅkhepo, vitthārato
panetā dhātuyo visuddhimagge kathitāva. Jānāti passatīti saha
vipassanāya maggo vutto.
Pathavīdhātuādayo saviññāṇakakāyaṃ
suññato nissattato dassetuṃ vuttā. Tāpi purimāhi aṭṭhārasahi dhātūhi pūretabbā.
Pūrentena viññāṇadhātuto nīharitvā pūretabbā. Viññāṇadhātu hesā
cakkhuviññāṇādivasena chabbidhā hoti. Tattha cakkhuviññāṇadhātuyā pariggahitāya
tassā vatthu cakkhudhātu, ārammaṇaṃ rūpadhātūti dve dhātuyo pariggahitāva honti. Esa nayo sabbattha. Manoviññāṇadhātuyā pana
pariggahitāya tassā purimapacchimavasena manodhātu, ārammaṇavasena
dhammadhātūti dve dhātuyo pariggahitāva honti. Iti imāsu aṭṭhārasasu dhātūsu
aḍḍhekādasadhātuyo rūpapariggahoti purimanayeneva idampi ekassa bhikkhuno
niggamanaṃ matthakaṃ pāpetvā kathitaṃ hoti.
Sukhadhātūtiādīsu sukhañca taṃ
nissattasuññataṭṭhena dhātu cāti sukhadhātu. Esa nayo sabbattha. Ettha ca
purimā catasso dhātuyo sappaṭipakkhavasena gahitā, pacchimā dve
sarikkhakavasena. Avibhūtabhāvena hi upekkhādhātu avijjādhātuyā sarikkhā. Ettha
ca sukhadukkhadhātūsu pariggahitāsu kāyaviññāṇadhātu
pariggahitāva hoti, sesāsu pariggahitāsu manoviññāṇadhātu pariggahitāva hoti.
Imāpi cha dhātuyo heṭṭhā aṭṭhārasahiyeva pūretabbā. Pūrentena upekkhādhātuto
nīharitvā pūretabbā. Iti imāsu aṭṭhārasasu dhātūsu aḍḍhekādasadhātuyo
rūpapariggahoti purimanayeneva idampi ekassa bhikkhuno
niggamanaṃ matthakaṃ pāpetvā kathitaṃ hoti.
Kāmadhātuādīnaṃ dvedhāvitakke (ma.
ni. 1.206) kāmavitakkādīsu vuttanayeneva attho veditabbo. Abhidhammepi ‘‘tattha
katamā kāmadhātu, kāmapaṭisaṃyutto takko vitakko’’tiādinā (vibha. 182) nayeneva
etāsaṃ vitthāro āgatoyeva. Imāpi cha dhātuyo heṭṭhā aṭṭhārasahiyeva pūretabbā.
Pūrentena kāmadhātuto nīharitvā pūretabbā. Iti imāsu aṭṭhārasasu dhātūsu
aḍḍhekādasadhātuyo rūpapariggahoti purimanayeneva idampi ekassa bhikkhuno niggamanaṃ
matthakaṃ pāpetvā kathitaṃ hoti.
Kāmadhātuādīsu pañca
kāmāvacarakkhandhā kāmadhātu nāma, pañca rūpāvacarakkhandhā
rūpadhātu nāma, cattāro arūpāvacarakkhandhā arūpadhātu nāma. Abhidhamme pana
‘‘tattha katamā kāmadhātu, heṭṭhato avīcinirayaṃ pariyantaṃ karitvā’’tiādinā
(vibha. 182) nayena etāsaṃ vitthāro āgatoyeva. Imāpi tisso dhātuyo heṭṭhā
aṭṭhārasahiyeva pūretabbā. Pūrentena kāmadhātuto nīharitvā pūretabbā. Iti imāsu
aṭṭhārasasu dhātūsu aḍḍhekādasadhātuyo rūpapariggahoti purimanayeneva idampi
ekassa bhikkhuno niggamanaṃ matthakaṃ pāpetvā kathitaṃ hoti.
Saṅkhatāti paccayehi samāgantvā katā, pañcannaṃ khandhānametaṃ
adhivacanaṃ. Na saṅkhatā asaṅkhatā. Nibbānassetaṃ adhivacanaṃ. Imāpi dve
dhātuyo heṭṭhā aṭṭhārasahiyeva pūretabbā. Pūrentena saṅkhatadhātuto nīharitvā
pūretabbā. Iti imāsu aṭṭhārasasu dhātūsu aḍḍhekādasadhātuyo rūpapariggahoti
purimanayeneva idampi ekassa bhikkhuno niggamanaṃ matthakaṃ pāpetvā kathitaṃ
hoti.
126. Ajjhattikabāhirānīti ajjhattikāni ca bāhirāni ca.
Ettha hi cakkhuādīni ajjhattikāni cha, rūpādīni bāhirāni cha. Idhāpi jānāti
passatīti saha vipassanāya maggo kathito.
127. Aṭṭhānanti hetupaṭikkhepo. Anavakāsoti
paccayapaṭikkhepo. Ubhayenāpi kāraṇameva paṭikkhipati. Kāraṇañhi
tadāyattavuttitāya attano phalassa ṭhānanti ca avakāsoti ca vuccati. Yanti
yena kāraṇena. Diṭṭhisampannoti maggadiṭṭhiyā
sampanno sotāpanno ariyasāvako. Kañci saṅkhāranti catubhūmakesu saṅkhatasaṅkhāresu
kañci ekasaṅkhārampi. Niccato upagaccheyyāti niccoti gaṇheyya. Netaṃ
ṭhānaṃ vijjatīti etaṃ kāraṇaṃ natthi na upalabbhati. Yaṃ puthujjanoti
yena kāraṇena puthujjano. Ṭhānametaṃ vijjatīti etaṃ kāraṇaṃ atthi.
Sassatadiṭṭhiyā hi so tebhūmakesu saṅkhatasaṅkhāresu kañci saṅkhāraṃ niccato
gaṇheyyāti attho. Catutthabhūmakasaṅkhārā pana tejussadattā divasaṃ santatto
ayoguḷo viya makkhikānaṃ diṭṭhiyā vā aññesaṃ vā akusalānaṃ ārammaṇaṃ na honti.
Iminā nayena kañci saṅkhāraṃ sukhatotiādīsupi attho veditabbo.
Sukhato upagaccheyyāti ‘‘ekantasukhī attā hoti arogo
paraṃ maraṇā’’ti (ma. ni. 3.21, 22) evaṃ attadiṭṭhivasena sukhato gāhaṃ
sandhāyetaṃ vuttaṃ. Diṭṭhivippayuttacittena pana ariyasāvako pariḷāhābhibhūto
pariḷāhavūpasamatthaṃ mattahatthiṃ parittāsito viya, cokkhabrāhmaṇo viya ca
gūthaṃ kañci saṅkhāraṃ sukhato upagacchati. Attavāre
kasiṇādipaṇṇattisaṅgahatthaṃ saṅkhāranti avatvā kañci dhammanti vuttaṃ. Idhāpi
ariyasāvakassa catubhūmakavasena veditabbo, puthujjanassa tebhūmakavasena.
Sabbavāresu ariyasāvakassāpi tebhūmakavaseneva paricchedo vaṭṭati. Yaṃ yañhi
puthujjano gaṇhāti, tato tato ariyasāvako gāhaṃ
viniveṭheti. Puthujjano hi yaṃ yaṃ niccaṃ sukhaṃ attāti gaṇhāti, taṃ taṃ
ariyasāvako aniccaṃ dukkhaṃ anattāti gaṇhanto taṃ gāhaṃ viniveṭheti.
128.
Mātarantiādīsu janikāva mātā, janako pitā, manussabhūtova khīṇāsavo
arahāti adhippeto. Kiṃ pana ariyasāvako aññaṃ jīvitā voropeyyāti? Etampi
aṭṭhānaṃ. Sacepi hi bhavantaragataṃ ariyasāvakaṃ attano
ariyabhāvaṃ ajānantampi koci evaṃ vadeyya ‘‘imaṃ kunthakipillikaṃ jīvitā
voropetvā sakalacakkavāḷagabbhe cakkavattirajjaṃ paṭipajjāhī’’ti, neva so taṃ jīvitā voropeyya. Athāpi naṃ evaṃ vadeyya ‘‘sace
imaṃ na ghātessasi, sīsaṃ te chindissāmā’’ti. Sīsamevassa chindeyya, na ca so
taṃ ghāteyya. Puthujjanabhāvassa pana mahāsāvajjabhāvadassanatthaṃ
ariyasāvakassa ca baladīpanatthametaṃ vuttaṃ. Ayañhettha adhippāyo – sāvajjo
puthujjanabhāvo, yatra hi nāma puthujjano mātughātādīnipi ānantariyāni
karissati. Mahābalo ca ariyasāvako, yo etāni kammāni na karotīti.
Duṭṭhacittoti vadhakacittena paduṭṭhacitto. Lohitaṃ
uppādeyyāti jīvamānakasarīre khuddakamakkhikāya pivanamattampi lohitaṃ
uppādeyya. Saṅghaṃ bhindeyyāti samānasaṃvāsakaṃ samānasīmāya ṭhitaṃ
pañcahi kāraṇehi saṅghaṃ bhindeyya. Vuttañhetaṃ ‘‘pañcahupāli ākārehi saṅgho bhijjati.
Kammena uddesena voharanto anussāvanena salākaggāhenā’’ti (pari. 458).
Tattha kammenāti
apalokanādīsu catūsu kammesu aññatarena kammena. Uddesenāti pañcasu
pātimokkhuddesesu aññatarena uddesena. Voharantoti kathayanto, tāhi tāhi
uppattīhi adhammaṃ dhammotiādīni aṭṭhārasa bhedakaravatthūni dīpento. Anussāvanenāti
nanu tumhe jānātha mayhaṃ uccākulā pabbajitabhāvaṃ bahussutabhāvañca, mādiso
nāma uddhammaṃ ubbinayaṃ satthusāsanaṃ gāheyyāti cittampi uppādetuṃ tumhākaṃ
yuttaṃ, kiṃ mayhaṃ avīci nīluppalavanaṃ viya sītalo, kiṃ ahaṃ apāyato na
bhāyāmītiādinā nayena kaṇṇamūle vacībhedaṃ katvā anussāvanena. Salākaggāhenāti
evaṃ anussāvetvā tesaṃ cittaṃ upatthambhetvā anivattidhamme katvā ‘‘gaṇhatha
imaṃ salāka’’nti salākaggāhena.
Ettha ca kammameva uddeso vā pamāṇaṃ,
vohārānussāvanasalākaggāhā pana pubbabhāgā. Aṭṭhārasavatthudīpanavasena hi
voharantena tattha rucijananatthaṃ anussāvetvā salākāya gāhitāyapi abhinnova
hoti saṅgho. Yadā pana evaṃ cattāro vā atirekā vā salākaṃ gāhetvā āveṇikaṃ kammaṃ vā uddesaṃ vā karonti, tadā saṅgho bhinno nāma hoti.
Evaṃ diṭṭhisampanno puggalo saṅghaṃ bhindeyyāti netaṃ ṭhānaṃ vijjati. Ettāvatā
mātughātādīni pañca ānantariyakammāni dassitāni honti, yāni puthujjano karoti,
na ariyasāvako, tesaṃ āvibhāvatthaṃ –
Pākasādhāraṇādīhi, viññātabbo
vinicchayo.
Tattha kammato tāva – ettha
hi manussabhūtasseva manussabhūtaṃ mātaraṃ vā pitaraṃ vā api parivattaliṅgaṃ
jīvitā voropentassa kammaṃ ānantariyaṃ hoti, tassa vipākaṃ paṭibāhissāmīti
sakalacakkavāḷaṃ mahācetiyappamāṇehi kañcanathūpehi
pūretvāpi sakalacakkavāḷaṃ pūretvā nisinnabhikkhusaṅghassa mahādānaṃ datvāpi
buddhassa bhagavato saṅghāṭikaṇṇaṃ amuñcanto vicaritvāpi kāyassa bhedā
nirayameva upapajjati. Yo pana sayaṃ manussabhūto tiracchānabhūtaṃ mātaraṃ vā
pitaraṃ vā, sayaṃ vā tiracchānabhūto manussabhūtaṃ, tiracchānoyeva vā
tiracchānabhūtaṃ jīvitā voropeti, tassa kammaṃ ānantariyaṃ na hoti, bhāriyaṃ
pana hoti, ānantariyaṃ āhacceva tiṭṭhati. Manussajātikānaṃ pana vasena ayaṃ
pañho kathito.
Tattha eḷakacatukkaṃ saṅgāmacatukkaṃ
coracatukkañca kathetabbaṃ. Eḷakaṃ māremīti abhisandhināpi hi eḷakaṭṭhāne
ṭhitaṃ manusso manussabhūtaṃ mātaraṃ vā pitaraṃ vā mārento ānantariyaṃ phusati.
Eḷakābhisandhinā pana mātāpitāabhisandhinā vā eḷakaṃ mārento ānantariyaṃ na
phusati. Mātāpitāabhisandhinā mātāpitaro mārento phusateva. Eseva nayo
itarasmimpi catukkadvaye. Yathā ca mātāpitūsu, evaṃ arahantepi etāni catukkāni
veditabbāni.
Manussaarahantameva māretvā
ānantariyaṃ phusati, na yakkhabhūtaṃ. Kammaṃ pana bhāriyaṃ,
ānantariyasadisameva. Manussaarahantassa ca puthujjanakāleyeva satthappahāre vā
vise vā dinnepi yadi so arahattaṃ patvā teneva marati, arahantaghāto hotiyeva.
Yaṃ pana puthujjanakāle dinnaṃ dānaṃ arahattaṃ patvā paribhuñjati,
puthujjanasseva dinnaṃ hoti. Sesaariyapuggale mārentassa
ānantariyaṃ natthi. Kammaṃ pana bhāriyaṃ, ānantariyasadisameva.
Lohituppāde tathāgatassa abhejjakāyatāya
parūpakkamena cammacchedaṃ katvā lohitapaggharaṇaṃ nāma natthi. Sarīrassa pana
antoyeva ekasmiṃyeva ṭhāne lohitaṃ samosarati. Devadattena paviddhasilato bhijjitvā gatā sakalikāpi tathāgatassa
pādantaṃ pahari, pharasunā pahaṭo viya pādo antolohitoyeva ahosi. Tathā
karontassa ānantariyaṃ hoti. Jīvako pana tathāgatassa ruciyā satthakena cammaṃ
chinditvā tamhā ṭhānā duṭṭhalohitaṃ nīharitvā phāsumakāsi, tathā karontassa
puññakammameva hoti.
Atha ye ca parinibbute tathāgate
cetiyaṃ bhindanti, bodhiṃ chindanti dhātumhi upakkamanti, tesaṃ kiṃ hotīti?
Bhāriyaṃ kammaṃ hoti ānantariyasadisaṃ. Sadhātukaṃ pana thūpaṃ vā paṭimaṃ vā
bādhamānaṃ bodhisākhaṃ chindituṃ vaṭṭati. Sacepi tattha nilīnā sakuṇā cetiye
vaccaṃ pātenti, chindituṃ vaṭṭatiyeva. Paribhogacetiyato hi sarīracetiyaṃ
mahantataraṃ. Cetiyavatthuṃ bhinditvā gacchantaṃ bodhimūlampi chinditvā harituṃ
vaṭṭati. Yā pana bodhisākhā bodhigharaṃ bādhati, taṃ geharakkhaṇatthaṃ
chindituṃ na labhati, bodhiatthañhi gehaṃ, na gehatthāya bodhi. Āsanagharepi
eseva nayo. Yasmiṃ pana āsanaghare dhātu nihitā hoti, tassa rakkhaṇatthāya
bodhisākhaṃ chindituṃ vaṭṭati. Bodhijagganatthaṃ ojoharaṇasākhaṃ vā pūtiṭṭhānaṃ
vā chindituṃ vaṭṭatiyeva, bhagavato sarīrapaṭijaggane viya puññampi hoti.
Saṅghabhede sīmaṭṭhakasaṅghe
asannipatite visuṃ parisaṃ gahetvā katavohārānussāvana-salākaggāhassa kammaṃ vā
karontassa, uddesaṃ vā uddisantassa bhedo ca hoti ānantariyakammañca.
Samaggasaññāya pana vaṭṭatīti kammaṃ karontassa bhedova hoti, na
ānantariyakammaṃ, tathā navato ūnaparisāyaṃ. Sabbantimena paricchedena navannaṃ janānaṃ yo saṅghaṃ bhindati,
tassa ānantariyakammaṃ hoti. Anuvattakānaṃ adhammavādīnaṃ mahāsāvajjakammaṃ.
Dhammavādino pana anavajjā.
Tattha navannameva saṅghabhede idaṃ
suttaṃ – ‘‘ekato upāli cattāro honti, ekato cattāro, navamo anussāveti, salākaṃ
gāheti ‘ayaṃ dhammo ayaṃ vinayo idaṃ satthusāsanaṃ, idaṃ gaṇhatha, imaṃ
rocethā’ti, evaṃ kho, upāli, saṅgharāji ceva hoti saṅghabhedo ca. Navannaṃ vā,
upāli, atirekanavannaṃ vā saṅgharāji ceva hoti saṅghabhedo cā’’ti (cūḷava.
351). Etesu pana pañcasu saṅghabhedo vacīkammaṃ, sesāni
kāyakammānīti. Evaṃ kammato viññātabbo vinicchayo.
Dvāratoti sabbāneva cetāni kāyadvāratopi vacīdvāratopi
samuṭṭhahanti. Purimāni panettha cattāri āṇattikavijjāmayapayogavasena
vacīdvārato samuṭṭhahitvāpi kāyadvārameva pūrenti, saṅghabhedo hatthamuddāya
bhedaṃ karontassa kāyadvārato samuṭṭhahitvāpi vacīdvārameva pūretīti. Evamettha
dvāratopi viññātabbo vinicchayo.
Kappaṭṭhitiyatoti saṅghabhedoyeva cettha
kappaṭṭhitiyo. Saṇṭhahante hi kappe kappavemajjhe vā saṅghabhedaṃ katvā
kappavināseyeva muccati. Sacepi hi sveva kappo vinassissatīti ajja saṅghabhedaṃ
karoti, sveva muccati, ekadivasameva niraye paccati. Evaṃ karaṇaṃ pana natthi.
Sesāni cattāri kammāni ānantariyāneva honti, na kappaṭṭhitiyānīti evamettha
kappaṭṭhitiyatopi viññātabbo vinicchayo.
Pākatoti yena ca pañcape’tāni kammāni katāni
honti, tassa saṅghabhedoyeva paṭisandhivasena vipaccati, sesāni ‘‘ahosikammaṃ,
nāhosi kammavipāko’’ti evamādīsu saṅkhyaṃ gacchanti. Saṅghassa bhedābhāve
lohituppādo, tadabhāve arahantaghāto, tadabhāve ca sace pitā sīlavā hoti, mātā
dussīlā, no vā tathā sīlavatī, pitughāto paṭisandhivasena vipaccati. Sace
mātāpitughāto, dvīsupi sīlena vā dussīlena vā samānesu mātughātova
paṭisandhivasena vipaccati. Mātā hi dukkarakārinī
bahūpakārā ca puttānanti evamettha pākatopi viññātabbo vinicchayo.
Sādhāraṇādīhīti purimāni cattāri sabbesampi
gahaṭṭhapabbajitānaṃ sādhāraṇāni. Saṅghabhedo pana ‘‘na kho, upāli bhikkhunī,
saṅghaṃ bhindati, na sikkhamānā, na sāmaṇero, na sāmaṇerī, na upāsako, na
upāsikā saṅghaṃ bhindati, bhikkhu kho, upāli, pakatatto samānasaṃvāsako
samānasīmāyaṃ ṭhito saṅghaṃ bhindatī’’ti (cūḷava. 351) vacanato vuttappakārassa
bhikkhunova hoti, na aññassa, tasmā asādhāraṇo. Ādisaddena sabbepi te
dukkhavedanāsahagatā dosamohasampayuttā cāti evamettha
sādhāraṇādīhipi viññātabbo vinicchayo.
Aññaṃ satthāranti ‘‘ayaṃ me satthā satthukiccaṃ
kātuṃ asamattho’’ti bhavantarepi aññaṃ titthakaraṃ ‘‘ayaṃ me satthā’’ti evaṃ
gaṇheyya, netaṃ ṭhānaṃ vijjatīti attho.
129. Ekissā lokadhātuyāti dasasahassilokadhātuyā. Tīṇi
hi khettāni jātikhettaṃ āṇākhettaṃ visayakhettaṃ.
Tattha jātikhettaṃ nāma dasasahassī lokadhātu. Sā hi tathāgatassa
mātukucchiokkamanakāle nikkhamanakāle sambodhikāle dhammacakkappavattane
āyusaṅkhārossajjane parinibbāne ca kampati. Koṭisatasahassacakkavāḷaṃ pana āṇākhettaṃ
nāma. Āṭānāṭiyamoraparittadhajaggaparittaratanaparittādīnañhi ettha āṇā
vattati. Visayakhettassa pana parimāṇaṃ natthi. Buddhānañhi ‘‘yāvatakaṃ
ñāṇaṃ tāvatakaṃ neyyaṃ, yāvatakaṃ neyyaṃ tāvatakaṃ ñāṇaṃ, ñāṇapariyantikaṃ
neyyaṃ neyyapariyantikaṃ ñāṇa’’nti (paṭi. ma. 3.5) vacanato avisayo nāma
natthi.
Imesu pana tīsu khettesu ṭhapetvā
imaṃ cakkavāḷaṃ aññasmiṃ cakkavāḷe buddhā uppajjantīti suttaṃ natthi, na
uppajjantīti pana atthi. Tīṇi piṭakāni vinayapiṭakaṃ suttantapiṭakaṃ
abhidhammapiṭakaṃ, tisso saṅgītiyo mahākassapattherassa saṅgīti,
yasattherassa saṅgīti, moggaliputtatissattherassa saṅgītīti. Imā tisso
saṅgītiyo āruḷhe tepiṭake buddhavacane imaṃ cakkavāḷaṃ
muñcitvā aññattha buddhā uppajjantīti suttaṃ natthi, na uppajjantīti pana
atthi.
Apubbaṃ acarimanti apure apacchā. Ekato na
uppajjanti, pure vā pacchā vā uppajjantīti vuttaṃ hoti. Tattha hi bodhipallaṅke
bodhiṃ appatvā na uṭṭhahissāmīti nisinnakālato paṭṭhāya
yāva mātukucchismiṃ paṭisandhiggahaṇaṃ, tāva pubbeti na veditabbaṃ.
Bodhisattassa hi paṭisandhiggahaṇena dasasahassacakkavāḷakampaneneva
khettapariggaho kato, aññassa buddhassa uppatti nivāritāva hoti.
Parinibbānakālato paṭṭhāya yāva sāsapamattā dhātu tiṭṭhati,
tāva pacchāti na veditabbaṃ. Dhātūsu hi ṭhitāsu buddhā ṭhitāva honti. Tasmā
etthantare aññassa buddhassa uppatti nivāritāva hoti. Dhātuparinibbāne pana
jāte aññassa buddhassa uppatti na nivāritā.
Tīṇi hi antaradhānāni nāma pariyattiantaradhānaṃ,
paṭivedhaantaradhānaṃ, paṭipattiantaradhānanti. Tattha pariyattīti tīṇi
piṭakāni. Paṭivedhoti saccapaṭivedho. Paṭipattīti paṭipadā.
Tattha paṭivedho ca paṭipatti ca hotipi na hotipi. Ekasmiñhi kāle
paṭivedhadharā bhikkhū bahū honti, eso bhikkhu puthujjanoti aṅguliṃ pasāretvā
dassetabbo hoti. Imasmiṃyeva dīpe ekavāre puthujjanabhikkhu nāma nāhosi.
Paṭipattipūrikāpi kadāci bahū honti kadāci appā. Iti paṭivedho ca paṭipatti ca
hotipi na hotipi, sāsanaṭṭhitiyā pana pariyatti pamāṇaṃ.
Paṇḍito hi tepiṭakaṃ sutvā dvepi
pūreti. Yathā amhākaṃ bodhisatto āḷārassa santike pañcābhiññā satta ca
samāpattiyo nibbattetvā nevasaññānāsaññāyatanasamāpattiyā parikammaṃ pucchi, so
na jānāmīti āha. Tato udakassa santikaṃ gantvā adhigataṃ visesaṃ saṃsandetvā
nevasaññānāsaññāyatanassa parikammaṃ pucchi, so ācikkhi, tassa
vacanasamanantarameva mahāsatto taṃ sampādesi, evameva paññavā bhikkhu pariyattiṃ
sutvā dvepi pūreti. Tasmā pariyattiyā ṭhitāya sāsanaṃ
ṭhitaṃ hoti.
Yadā pana sā
antaradhāyati, tadā paṭhamaṃ abhidhammapiṭakaṃ nassati. Tattha paṭṭhānaṃ
sabbapaṭhamaṃ antaradhāyati, anukkamena pacchā dhammasaṅgaho, tasmiṃ antarahite
itaresu dvīsu piṭakesu ṭhitesu sāsanaṃ ṭhitameva hoti. Tattha suttantapiṭake
antaradhāyamāne paṭhamaṃ aṅguttaranikāyo ekādasakato paṭṭhāya yāva ekakā
antaradhāyati, tadanantaraṃ saṃyuttanikāyo cakkapeyyālato paṭṭhāya yāva
oghataraṇā antaradhāyati, tadanantaraṃ majjhimanikāyo indriyabhāvanato paṭṭhāya
yāva mūlapariyāyā antaradhāyati, tadanantaraṃ dīghanikāyo dasuttarato paṭṭhāya
yāva brahmajālā antaradhāyati. Ekissāpi dvinnampi gāthānaṃ pucchā addhānaṃ
gacchati, sāsanaṃ dhāretuṃ na sakkoti sabhiyapucchā (su. ni. sabhiyasuttaṃ)
viya āḷavakapucchā (su. ni. āḷavakasuttaṃ; saṃ. ni. 1.246) viya
ca. Etā kira kassapabuddhakālikā antarā sāsanaṃ dhāretuṃ nāsakkhiṃsu.
Dvīsu pana piṭakesu antarahitesupi
vinayapiṭake ṭhite sāsanaṃ tiṭṭhati, parivārakhandhakesu antarahitesu ubhatovibhaṅge
ṭhite ṭhitameva hoti. Ubhatovibhaṅge antarahite mātikāya ṭhitāyapi ṭhitameva
hoti. Mātikāya antarahitāya pātimokkhapabbajjaupasampadāsu ṭhitāsu sāsanaṃ
tiṭṭhati. Liṅgamaddhānaṃ gacchati, setavatthasamaṇavaṃso pana
kassapabuddhakālato paṭṭhāya sāsanaṃ dhāretuṃ nāsakkhi. Pacchimakassa pana
saccapaṭivedhato pacchimakassa sīlabhedato ca paṭṭhāya sāsanaṃ osakkitaṃ nāma
hoti. Tato paṭṭhāya aññassa buddhassa uppatti na vāritāti.
Tīṇi parinibbānāni nāma kilesaparinibbānaṃ
khandhaparinibbānaṃ dhātuparinibbānanti. Tattha kilesaparinibbānaṃ
bodhipallaṅke ahosi, khandhaparinibbānaṃ kusinārāyaṃ, dhātuparinibbānaṃ anāgate
bhavissati. Sāsanassa kira osakkanakāle imasmiṃ tambapaṇṇidīpe dhātuyo sannipatitvā mahācetiyaṃ gamissanti, mahācetiyato nāgadīpe
rājāyatanacetiyaṃ, tato mahābodhipallaṅkaṃ gamissanti, nāgabhavanatopi
devalokatopi brahmalokatopi dhātuyo mahābodhipallaṅkameva gamissanti.
Sāsapamattāpi dhātu antarā na nassissati. Sabbā dhātuyo mahābodhipallaṅke
rāsibhūtā suvaṇṇakkhandho viya ekagghanā hutvā chabbaṇṇarasmiyo vissajjessanti,
tā dasasahassilokadhātuṃ pharissanti.
Tato dasasahassacakkavāḷe
devatā yo sannipatitvā ‘‘ajja satthā parinibbāyati, ajja sāsanaṃ osakkati,
pacchimadassanaṃ dāni idaṃ amhāka’’nti dasabalassa parinibbutadivasato
mahantataraṃ kāruññaṃ karissanti. Ṭhapetvā anāgāmikhīṇāsave avasesā sakabhāvena
saṇṭhātuṃ na sakkhissanti. Dhātūsu tejodhātu uṭṭhahitvā yāva brahmalokā
uggacchissati, sāsapamattāyapi dhātuyā sati ekajālāva bhavissati, dhātūsu
pariyādānaṃ gatāsu pacchijjissati. Evaṃ mahantaṃ ānubhāvaṃ dassetvā dhātūsu
antarahitāsu sāsanaṃ antarahitaṃ nāma hoti. Yāva evaṃ na
anantaradhāyati, tāva acarimaṃ nāma hoti. Evaṃ apubbaṃ acarimaṃ uppajjeyyunti
netaṃ ṭhānaṃ vijjati.
Kasmā pana apubbaṃ acarimaṃ na
uppajjantīti. Anacchariyattā. Buddhā hi acchariyamanussā. Yathāha –
‘‘ekapuggalo, bhikkhave, loke uppajjamāno uppajjati acchariyamanusso, katamo
ekapuggalo, tathāgato arahaṃ sammāsambuddho’’ti (a. ni. 1.171-174).
Yadi ca dve vā cattāro vā aṭṭha vā
soḷasa vā ekato uppajjeyyuṃ, na acchariyā bhaveyyuṃ. Ekasmiñhi vihāre dvinnaṃ
cetiyānampi lābhasakkāro uḷāro na hoti bhikkhūpi bahutāya na acchariyā jātā, evaṃ buddhāpi bhaveyyuṃ. Tasmā na uppajjanti.
Desanāya ca visesābhāvato. Yañhi
satipaṭṭhānādibhedaṃ dhammaṃ eko deseti, aññena uppajjitvāpi sova desetabbo
siyā. Tato na acchariyo siyā, ekasmiṃ pana dhammaṃ desente desanāpi acchariyā
hoti.
Vivādābhāvato ca. Bahūsu ca buddhesu
uppajjantesu bahūnaṃ ācariyānaṃ antevāsikā viya ‘‘amhākaṃ buddho pāsādiko,
amhākaṃ buddho madhurassaro lābhī puññavā’’ti vivadeyyuṃ, tasmāpi evaṃ na
uppajjanti. Apicetaṃ kāraṇaṃ milindaraññā puṭṭhena nāgasenattherena
vitthāritameva. Vuttañhi (mi. pa. 5.1.1) –
‘‘Tattha, bhante nāgasena,
bhāsitampetaṃ bhagavatā ‘aṭṭhānametaṃ, bhikkhave, anavakāso, yaṃ ekissā
lokadhātuyā dve arahanto sammāsambuddhā apubbaṃ acarimaṃ
uppajjeyyuṃ, netaṃ ṭhānaṃ vijjatī’ti. Desentā ca, bhante nāgasena, sabbepi
tathāgatā sattatiṃsa bodhipakkhiyadhamme desenti, kathayamānā ca cattāri
ariyasaccāni kathenti, sikkhāpentā ca tīsu sikkhāsu sikkhāpenti, anusāsamānā ca
appamādapaṭipattiyaṃ anusāsanti. Yadi, bhante nāgasena, sabbesampi tathāgatānaṃ
ekā desanā ekā kathā ekā sikkhā ekā anusiṭṭhi, kena kāraṇena dve
tathāgatā ekakkhaṇe nuppajjanti? Ekenapi tāva buddhuppādena ayaṃ loko
obhāsajāto. Yadi dutiyo buddho bhaveyya, dvinnaṃ pabhāya
ayaṃ loko bhiyyosomattāya obhāsajāto bhaveyya. Ovadamānā ca dve tathāgatā
sukhaṃ ovadeyyuṃ, anusāsamānā ca sukhaṃ anusāseyyuṃ, tattha me kāraṇaṃ brūhi,
yathāhaṃ nissaṃsayo bhaveyyanti.
Ayaṃ mahārāja dasasahassī lokadhātu
ekabuddhadhāraṇī, ekasseva tathāgatassa guṇaṃ dhāreti, yadi dutiyo buddho
uppajjeyya, nāyaṃ dasasahassī lokadhātu dhāreyya, caleyya kampeyya nameyya
onameyya vinameyya vikireyya vidhameyya viddhaṃseyya, na ṭhānamupagaccheyya.
Yathā, mahārāja, nāvā ekapurisasandhāraṇī
bhaveyya. Ekasmiṃ purise abhirūḷhe sā nāvā samupādikā bhaveyya. Atha dutiyo
puriso āgaccheyya tādiso āyunā vaṇṇena vayena pamāṇena kisathūlena
sabbaṅgapaccaṅgena, so taṃ nāvaṃ abhirūheyya. Apinu sā mahārāja, nāvā dvinnampi
dhāreyyāti? Na hi, bhante, caleyya kampeyya nameyya onameyya vinameyya
vikireyya vidhameyya viddhaṃseyya, na ṭhānamupagaccheyya, osīdeyya udaketi.
Evameva kho, mahārāja, ayaṃ dasasahassī lokadhātu ekabuddhadhāraṇī, ekasseva
tathāgatassa guṇaṃ dhāreti, yadi dutiyo buddho uppajjeyya, nāyaṃ dasasahassī
lokadhātu dhāreyya, caleyya…pe… na ṭhānamupagaccheyya.
Yathā vā pana mahārāja puriso
yāvadatthaṃ bhojanaṃ bhuñjeyya chādentaṃ yāvakaṇṭhamabhipūrayitvā, so dhāto
pīṇito paripuṇṇo nirantaro tandikato anonamitadaṇḍajāto punadeva tattakaṃ bhojanaṃ
bhuñjeyya, apinu kho, mahārāja, puriso sukhito bhaveyyāti?
Na hi, bhante, sakiṃ bhuttova mareyyāti. Evameva kho, mahārāja, ayaṃ
dasasahassī lokadhātu ekabuddhadhāraṇī …pe… na
ṭhānamupagaccheyyāti.
Kiṃ nu kho, bhante nāgasena,
atidhammabhārena pathavī calatīti? Idha, mahārāja, dve sakaṭā ratanaparipūritā
bhaveyyuṃ yāva mukhasamā. Ekasmā sakaṭato ratanaṃ gahetvā ekasmiṃ sakaṭe
ākireyyuṃ, apinu kho taṃ, mahārāja, sakaṭaṃ dvinnampi sakaṭānaṃ ratanaṃ
dhāreyyāti? Na hi, bhante, nābhipi tassa phaleyya, arāpi tassa bhijjeyyuṃ,
nemipi tassa opateyya, akkhopi tassa bhijjeyyāti. Kiṃ nu
kho, mahārāja, atiratanabhārena sakaṭaṃ bhijjatīti? Āma, bhanteti. Evameva kho,
mahārāja, atidhammabhārena pathavī calatīti.
Apica mahārāja imaṃ kāraṇaṃ
buddhabalaparidīpanāya osāritaṃ, aññampi tattha abhirūpaṃ kāraṇaṃ suṇohi, yena
kāraṇena dve sammāsambuddhā ekakkhaṇe nuppajjanti. Yadi, mahārāja, dve
sammāsambuddhā ekakkhaṇe uppajjeyyuṃ, tesaṃ parisāya vivādo uppajjeyya –
‘‘tumhākaṃ buddho amhākaṃ buddho’’ti ubhatopakkhajātā bhaveyyuṃ. Yathā,
mahārāja, dvinnaṃ balavāmaccānaṃ parisāya vivādo uppajjeyya ‘tumhākaṃ amacco
amhākaṃ amacco’ti ubhatopakkhajātā honti, evameva kho, mahārāja, yadi, dve
sammāsambuddhā ekakkhaṇe uppajjeyyuṃ, tesaṃ parisāya vivādo uppajjeyya
‘tumhākaṃ buddho amhākaṃ buddho’ti ubhatopakkhajātā bhaveyyuṃ. Idaṃ tāva,
mahārāja, ekaṃ kāraṇaṃ, yena kāraṇena dve sammāsambuddhā ekakkhaṇe nuppajjanti.
Aparampi, mahārāja, uttariṃ kāraṇaṃ
suṇohi, yena kāraṇena dve sammāsambuddhā ekakkhaṇe nuppajjanti. Yadi, mahārāja,
dve sammāsambuddhā ekakkhaṇe uppajjeyyuṃ, aggo buddhoti yaṃ vacanaṃ, taṃ micchā
bhaveyya. Jeṭṭho buddhoti yaṃ vacanaṃ, taṃ micchā bhaveyya. Seṭṭho buddhoti,
visiṭṭho buddhoti, uttamo buddhoti, pavaro buddhoti, asamo buddhoti, asamasamo
buddhoti, appaṭisamo buddhoti, appaṭibhāgo buddhoti, appaṭipuggalo buddhoti yaṃ
vacanaṃ, taṃ micchā bhaveyya. Idampi kho tvaṃ, mahārāja, kāraṇaṃ atthato sampaṭiccha, yena kāraṇena dve
sammāsambuddhā ekakkhaṇe nuppajjanti.
Apica kho mahārāja buddhānaṃ
bhagavantānaṃ sabhāvapakati esā, yaṃ ekoyeva buddho loke uppajjati. Kasmā
kāraṇā? Mahantatāya sabbaññubuddhaguṇānaṃ. Aññampi mahārāja yaṃ loke mahantaṃ,
taṃ ekaṃyeva hoti. Pathavī, mahārāja, mahantī, sā ekāyeva. Sāgaro mahanto, so
ekoyeva. Sineru girirājā mahanto, so ekoyeva. Ākāso mahanto, so ekoyeva. Sakko
mahanto, so ekoyeva. Māro mahanto, so ekoyeva. Brahmā mahanto, so ekoyeva.
Tathāgato arahaṃ sammāsambuddho mahanto, so ekoyeva lokasmiṃ. Yattha te
uppajjanti, tattha aññassa okāso na hoti. Tasmā, mahārāja,
tathāgato arahaṃ sammāsambuddho ekoyeva lokasmiṃ uppajjatīti. Sukathito, bhante
nāgasena, pañho opammehi kāraṇehī’’ti.
Ekissā lokadhātuyāti ekasmiṃ cakkavāḷe. Heṭṭhā imināva
padena dasacakkavāḷasahassāni gahitāni tānipi, ekacakkavāḷeneva paricchindituṃ
vaṭṭanti. Buddhā hi uppajjamānā imasmiṃyeva cakkavāḷe uppajjanti,
uppajjanaṭṭhāne pana vārite ito aññesu cakkavāḷesu nuppajjantīti vāritameva
hoti.
Apubbaṃ acarimanti ettha cakkaratanapātubhāvato
pubbe pubbaṃ, tasseva antaradhānato pacchā carimaṃ. Tattha dvidhā
cakkaratanassa antaradhānaṃ hoti, cakkavattino kālaṃkiriyato vā pabbajjāya vā.
Antaradhāyamānañca pana taṃ kālaṃkiriyato vā pabbajjato vā sattame divase
antaradhāyati, tato paraṃ cakkavattino pātubhāvo avārito.
Kasmā pana ekacakkavāḷe dve
cakkavattino nuppajjantīti. Vivādupacchedato
acchariyabhāvato cakkaratanassa mahānubhāvato ca. Dvīsu hi uppajjantesu
‘‘amhākaṃ rājā mahanto amhākaṃ rājā mahanto’’ti vivādo uppajjeyya. Ekasmiṃ dīpe
cakkavattīti ca ekasmiṃ dīpe cakkavattīti ca anacchariyā bhaveyyuṃ. Yo cāyaṃ cakkaratanassa dvisahassadīpaparivāresu catūsu
mahādīpesu issariyānuppadānasamattho mahānubhāvo, so parihāyetha. Iti
vivādupacchedato acchariyabhāvato cakkaratanassa mahānubhāvato ca na
ekacakkavāḷe dve uppajjanti.
130. Yaṃ itthī assa arahaṃ sammāsambuddhoti ettha
tiṭṭhatu tāva sabbaññuguṇe nibbattetvā lokuttāraṇasamattho buddhabhāvo,
paṇidhānamattampi itthiyā na sampajjati.
Manussattaṃ liṅgasampatti, hetu
satthāradassanaṃ;
Pabbajjā guṇasampatti, adhikāro ca
chandatā;
Aṭṭhadhammasamodhānā, abhinīhāro
samijjhatīti. (bu. vaṃ. 2.59) –
Imāni hi
paṇidhānasampattikāraṇāni. Iti paṇidhānampi sampādetuṃ asamatthāya itthiyā kuto
buddhabhāvoti ‘‘aṭṭhānametaṃ anavakāso yaṃ itthī assa arahaṃ sammāsambuddho’’ti
vuttaṃ. Sabbākāraparipūro ca puññussayo sabbākāraparipūrameva attabhāvaṃ
nibbattetīti purisova arahaṃ hoti sammāsambuddho.
Yaṃ itthī rājā assa cakkavattītiādīsupi yasmā itthiyā kosohitavatthaguyhatādīnaṃ abhāvena lakkhaṇāni na paripūrenti,
itthiratanābhāvena sattaratanasamaṅgitā na sampajjati, sabbamanussehi ca adhiko
attabhāvo na hoti, tasmā ‘‘aṭṭhānametaṃ anavakāso yaṃ itthī rājā assa
cakkavattī’’ti vuttaṃ. Yasmā ca sakkattādīni tīṇi ṭhānāni uttamāni,
itthiliṅgañca hīnaṃ, tasmā tassā sakkattādīnipi paṭisiddhāni.
Nanu ca yathā itthiliṅgaṃ, evaṃ
purisaliṅgampi brahmaloke natthi? Tasmā ‘‘yaṃ puriso brahmattaṃ kareyya,
ṭhānametaṃ vijjatī’’tipi na vattabbaṃ siyāti. No na vattabbaṃ. Kasmā? Idha
purisassa tattha nibbattanato. Brahmattanti hi mahābrahmattaṃ adhippetaṃ. Itthī
ca idha jhānaṃ bhāvetvā kālaṃ katvā brahmapārisajjānaṃ sahabyataṃ upapajjati,
na mahābrahmānaṃ, puriso pana tattha na uppajjatīti na vattabbo. Samānepi
cettha ubhayaliṅgābhāve purisasaṇṭhānāva brahmāno, na itthisaṇṭhānā, tasmā
suvuttamevetaṃ.
131. Kāyaduccaritassātiādīsu yathā
nimbabījakosātakībījādīni madhuraphalaṃ na nibbattenti, asātaṃ amadhurameva
nibbattenti, evaṃ kāyaduccaritādīni madhuravipākaṃ na nibbattenti, amadhurameva
vipākaṃ nibbattenti. Yathā ca ucchubījasālibījādīni madhuraṃ sādurasameva
phalaṃ nibbattenti, na asātaṃ kaṭukaṃ, evaṃ kāyasucaritādīni
madhurameva vipākaṃ nibbattenti, na amadhuraṃ. Vuttampi cetaṃ –
‘‘Yādisaṃ vapate bījaṃ, tādisaṃ
harate phalaṃ;
Kalyāṇakārī kalyāṇaṃ, pāpakārī ca
pāpaka’’nti. (saṃ. ni. 1.256);
Kāyaduccaritasamaṅgītiādīsu samaṅgīti pañcavidhā
samaṅgitā āyūhanasamaṅgitā cetanāsamaṅgitā kammasamaṅgitā vipākasamaṅgitā,
upaṭṭhānasamaṅgitāti. Tattha kusalākusalakammāyūhanakkhaṇe āyūhanasamaṅgitāti
vuccati. Tathā cetanāsamaṅgitā. Yāva pana arahattaṃ na pāpuṇanti, tāva
sabbepi sattā pubbe upacitaṃ vipākārahaṃ kammaṃ sandhāya ‘‘kammasamaṅgino’’ti
vuccanti, esā kammasamaṅgitā. Vipākasamaṅgitā vipākakkhaṇeyeva
veditabbā. Yāva pana sattā arahattaṃ na pāpuṇanti, tāva nesaṃ tato tato cavitvā
niraye tāva uppajjamānānaṃ aggijālalohakumbhiādīhi upaṭṭhānākārehi nirayo,
gabbhaseyyakattaṃ āpajjamānānaṃ mātukucchi, devesu uppajjamānānaṃ
kapparukkhavimānādīhi upaṭṭhānākārehi devalokoti evaṃ uppattinimittaṃ upaṭṭhāti,
iti nesaṃ iminā uppattinimittaupaṭṭhānena aparimuttatā upaṭṭhānasamaṅgitā
nāma. Sā calati sesā niccalā. Niraye hi upaṭṭhitepi devaloko upaṭṭhāti,
devaloke upaṭṭhitepi nirayo upaṭṭhāti, manussaloke upaṭṭhitepi tiracchānayoni
upaṭṭhāti, tiracchānayoniyā ca upaṭṭhitāyapi manussaloko upaṭṭhātiyeva.
Tatridaṃ vatthu
– soṇagiripāde kira acelavihāre soṇatthero nāma eko dhammakathiko, tassa pitā
sunakhajīviko ahosi. Thero taṃ paṭibāhantopi saṃvare ṭhapetuṃ asakkonto ‘‘mā
nassi jarako’’ti mahallakakāle akāmakaṃ pabbājesi. Tassa
gilānaseyyāya nipannassa nirayo upaṭṭhāti, soṇagiripādato mahantā mahantā
sunakhā āgantvā khāditukāmā viya samparivāresuṃ. So mahābhayabhīto – ‘‘vārehi,
tāta soṇa, vārehi, tāta soṇā’’ti āha. Kiṃ mahātherāti. Na passasi tātāti taṃ
pavattiṃ ācikkhi. Soṇatthero – ‘‘kathañhi nāma mādisassa pitā niraye
nibbattissati, patiṭṭhā’ssa bhavissāmī’’ti sāmaṇerehi nānāpupphāni āharāpetvā
cetiyaṅgaṇabodhiyaṅgaṇesu talasantharaṇapūjaṃ āsanapūjañca kāretvā pitaraṃ
mañcena cetiyaṅgaṇaṃ āharitvā mañce nisīdāpetvā – ‘‘ayaṃ mahāthera-pūjā
tumhākaṃ atthāya katā ‘ayaṃ me bhagavā duggatapaṇṇākāro’ti vatvā bhagavantaṃ
vanditvā cittaṃ pasādehī’’ti āha. So mahāthero pūjaṃ disvā tathā karonto cittaṃ
pasādesi, tāvadevassa devaloko upaṭṭhāsi, nandanavana-cittalatāvana-missakavana-phārusakavanavimānāni
ceva nāṭakāni ca parivāretvā ṭhitāni viya ahesuṃ. So
‘‘apetha apetha soṇā’’ti āha. Kimidaṃ therāti? Etā te, tāta, mātaro
āgacchantīti. Thero ‘‘saggo upaṭṭhito mahātherassā’’ti
cintesi. Evaṃ upaṭṭhānasamaṅgitā calatīti veditabbā. Etāsu samaṅgitāsu idha
āyūhanacetanākammasamaṅgitāvasena kāyaduccaritasamaṅgītiādi vuttaṃ.
132. Evaṃ vutte āyasmā ānandoti ‘‘evaṃ bhagavatā imasmiṃ
sutte vutte thero ādito paṭṭhāya sabbasuttaṃ samannāharitvā evaṃ sassirikaṃ
katvā desitasuttassa nāma bhagavatā nāmaṃ na gahitaṃ. Handassa nāmaṃ
gaṇhāpessāmī’’ti cintetvā bhagavantaṃ etadavoca.
Tasmā tiha tvantiādīsu ayaṃ atthayojanā –
Ānanda, yasmā imasmiṃ dhammapariyāye
‘‘aṭṭhārasa kho imā, ānanda, dhātuyo, cha imā, ānanda, dhātuyo’’ti evaṃ
bahudhātuyo vibhattā, tasmā tiha tvaṃ imaṃ dhammapariyāyaṃ bahudhātukotipi
naṃ dhārehi. Yasmā panettha dhātuāyatanapaṭiccasamuppādaṭṭhānāṭṭhānavasena
cattāro parivaṭṭā kathitā, tasmā catuparivaṭṭotipi
naṃ dhārehi. Yasmā ca ādāsaṃ olokentassa mukhanimittaṃ viya imaṃ
dhammapariyāyaṃ olokentassa ete dhātuādayo atthā pākaṭā honti, tasmā dhammādāsotipi
naṃ dhārehi. Yasmā ca yathā nāma parasenamaddanā yodhā saṅgāmatūriyaṃ
paggahetvā parasenaṃ pavisitvā sapatte madditvā attano jayaṃ gaṇhanti, evameva
kilesasenamaddanā yogino idha vuttavasena vipassanaṃ paggahetvā kilese madditvā
attano arahattajayaṃ gaṇhanti, tasmā amatadundubhītipi naṃ dhārehi.
Yasmā ca yathā saṅgāmayodhā pañcāvudhaṃ gahetvā parasenaṃ
viddhaṃsetvā jayaṃ gaṇhanti, evaṃ yoginopi idha vuttaṃ vipassanāvudhaṃ gahetvā
kilesasenaṃ viddhaṃsetvā arahattajayaṃ gaṇhanti. Tasmā anuttaro
saṅgāmavijayotipi naṃ dhārehīti.
Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Bahudhātukasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
-ooOoo-
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
TT Giác Đẳng chia sẻ về tình hình đại dịch vào mùa Vesak - Đại Lễ Phật Đản
TT Giác Đẳng chia sẻ về tình hình đại dịch vào mùa Vesak - Đại Lễ Phật Đản
III Trắc Nghiệm
A. Kỳ vọng sự việc một cách hoàn toàn không hợp lý tạo nên thất vọng
/ B. Không nắm vững toàn bộ vấn đề nên luôn luôn có những lo sợ về những “khoảng trống” trong sự phòng hộ /
C. Bước đi trong đêm tối mịt mù không thể không hoang mang sợ hãi /
D. Cả ba câu trên đều đúng
TT Tuệ Quyền cho đáp án trắc nghiệm 1: D
No comments:
Post a Comment