Thursday, October 24, 2019

Bài học. Thứ Sáu ngày 25 tháng 10, 2019

Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng SưĐĐ Pháp Tín (giảng 15" thì bị đường Net trở ngại nên đạo tràng để băng giảng)
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH  HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 25/10/2019 
10. Kinh Niệm Xứ (Satipatthàna sutta)(tiếp theo)

146. Câu “vị tỷ kheo sống quán thân trên thân (bhikkhu kāye kāyānupassī viharati)?

Theo Sớ giải thì trong trường hợp nầy chữ tỳ kheo (bhikkhu) không chỉ riêng cho vị xuất gia thọ đại giới mà chỉ cho tất cả hành giả tu tập.
Sống (viharati) hay trú chỉ cho sự tập chú mọi sinh hoạt của đời sống chung quanh sự huân tu chánh niệm.
Quán thân trên thân (kāye kāyānupassī) chỉ co sự quán sát thân thể hay hiện tượng vật chất qua 14 đối tượng (cũng dịch là đề mục): Niệm hơi thở - niệm bốn tư thế của thân – niệm cử chỉ của thân - niệm các thể trược -  niệm tứ đại – và 9 pháp niệm tử thi, hài cốt.

147. Câu: “Ở đây, Tỷ-kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, và ngồi kiết già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt”. dạy điều gì?

Có hai điểm quan trọng:
Đối với người mới thực tập còn trong giai đoạn huân tu chánh niệm thì những nơi thanh vắng ít bị quấy rầy, ít phận sự phải làm, có thể tự chủ được thì giờ sinh hoạt là điều rất cần thiết.
Trong phép niệm hơi thở, một phép niệm căn bản cho hầu hết hành giả, thì bước đầu cần ngồi kiết già (khoá chân cho thân vững vàng không dễ giao động); lưng thẳng cần thiết cho sự hành trì lâu dài và tăng trưởng nội lực tinh tấn; an trú chánh niệm trước mặt hướng tâm chú ý theo cách tự nhiên, ở đây chỉ cho trường hợp niệm hơi thở.

148. Niệm hơi thở trong tứ niệm xứ được Đức Phật dạy thế nào?

Đức Phật đã dạy với những điểm cô đọng với Phật ngôn như sau:
“Tỉnh giác, vị ấy thở vô; tỉnh giác, vị ấy thở ra. Thở vô dài, vị ấy biết rõ: "Thở vô dài"; hay thở ra dài, vị ấy biết rõ: "Thở ra dài"; hay thở vô ngắn, vị ấy biết rõ: "Thở vô ngắn"; hay thở ra ngắn, vị ấy biết rõ: "Thở ra ngắn". "Cảm giác toàn thân, thở vô", vị ấy tập; "Cảm giác toàn thân, thở ra", vị ấy tập; "An tịnh toàn thân, thở vô", vị ấy tập; "An tịnh toàn thân, thở ra", vị ấy tập. Này các Tỷ-kheo, như người thợ quay hay học trò người thợ quay thiện xảo khi quay dài, biết rõ: "Tôi quay dài" hay khi quay ngắn, biết rõ: "Tôi quay ngắn". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thở vô dài, vị ấy biết rõ: "Thở vô dài"; hay thở ra dài, vị ấy biết rõ: "Thở ra dài"; hay thở vô ngắn, vị ấy biết rõ: "Thở vô ngắn"; hay thở ra ngắn, vị ấy biết rõ: "Thở ra ngắn". "Cảm giác toàn thân, thở vô", vị ấy tập; "Cảm giác toàn thân, thở ra", vị ấy tập; "An tịnh toàn thân, thở vô", vị ấy tập; "An tịnh toàn thân, thở ra", vị ấy tập

“Tỉnh giác, vị ấy thở vô; tỉnh giác, vị ấy thở ra”. Có nghĩa là hành giả tỉnh táo nhận biết sự hiện hữu vô ra của hơi thở 
Thở vô dài, vị ấy biết rõ: "Thở vô dài"; hay thở ra dài, vị ấy biết rõ: "Thở ra dài"; hay thở vô ngắn, vị ấy biết rõ: "Thở vô ngắn"; hay thở ra ngắn, vị ấy biết rõ: "Thở ra ngắn". Có nghĩa là hơi thở ra vô dài ngắn tuỳ theo cảm xúc và sức khoẻ, có lúc thở vô ngắn mà thở ra dài (như thở dốc) hoặc có lúc thở vô dài mà thở ra ngắn (như thở buông) hành giả nhận rõ thời lượng dài ngắn của hơi thở mà không phân tích xa hơn tại sao.

"Cảm giác toàn thân, thở vô", vị ấy tập; "Cảm giác toàn thân, thở ra", vị ấy tập” có nghĩa là nếu không có những chi phối của đau nhức thì hành giả có thể thấy rõ hơn thở ra vào ảnh hưởng toàn bộ thân thể. Hành giả có thể cảm nhận hơi thở không phải một điểm mà toàn châu thân. (Riêng phần nầy Ngài Mahasi Sayadaw đặt biệt nói đến sự cảm nhận hơn thở qua tác động phồng, xệp của bụng. Nhiều vị thiền sư không đồng tình với hai lý do: thứ nhất, niệm phồng xệp chỉ tập chú vào bụng hơn là toàn thân;  thứ hai, niệm “cảm giác toàn thân thở ra thở vào” không dành cho người mới bắt đầu mà sau khi đã quen thuộc với hơi thở ra vào dài ngắn).
 "An tịnh toàn thân, thở vô", vị ấy tập; "An tịnh toàn thân, thở ra", vị ấy tập. Câu nầy dịch chính xác là “an tịnh thân hành, thở vô; an tịnh thân hành, thở ra”. Thân hành (kāyasaṅkhāra) chỉ cho hơi thở. An tịn thân hành (passambhayaṃ kāyasaṅkhāraṃ) là hơi thở nhẹ nhàng, tự nhiên nói cách khác là hành giả không còn “vật lộn” với hơi thở.

149. Đoạn tiếp theo: “Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên cả nội thân, ngoại thân; hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy không nương tựa, không chấp trước vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân”. nên được hiểu thế nào? 

Vị ấy sống quán thân trên nội thân hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên cả nội thân, ngoại thân (iti ajjhattaṃ vā kāye kāyānupassī viharati, bahiddhā vā kāye kāyānupassī viharati, ajjhattabahiddhā vā kāye kāyānupassī viharati)” có nghĩa là quán những hiện tượng ở tự thân mình hay thân của chúng sanh khác.

 “Vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân (samudayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharati, vayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharati, samudayavayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharati) ” nghĩa là tỉnh táo nhận rõ sự khởi đầu (sanh) và sự chấm dứt (diệt) của các hiện tượng.
“"Có thân đây", vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm (‘atthi kāyo’ti vā panassa sati paccupaṭṭhitā hoti. yāvadeva ñāṇamattāya paṭissatimattāya )” có nghĩa là đối với mọi hiện tượng hành giả chỉ xem là phương tiện huân tu chánh niệm dẫn đến tuệ giác chứ không thích thú hay ghét bỏ hiện tượng nào. 

“Và vị ấy không nương tựa, không chấp trước vật gì trên đời (anissito ca viharati na ca kiñci loke upādiyati)” nghĩa là thái độ độc lập, khách quan trong sự quán sát không nhìn bằng định kiến hay bảo thủ điều gì đó mình thích. 


ÌI Thảo Luận: Chư Tăng điều hành




 III Trắc Nghiệm

No comments:

Post a Comment