Phạn ngữ Pàli – Lễ Phật - cách phát âm
Bài 3
Ân Đức Pháp (Dhammaguna),
Biến thể và bất biến
thể trong Phạn ngữ
Phật giáo Việt Nam phần lớn ảnh hưởng Phật giáo Trung Hoa thuộc Bắc
Truyền. Vì vậy người Phật tử Việt Nam thường quen thuộc với ân đức Phật như Ứng
cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc….. nhưng ít khi quen thuộc với ân đức Pháp
và ân đức Tăng. Bài học nầy hướng dẫn ý nghĩa và tụng đọc ân đức Pháp.
Svākkhāto
bhagavato dhammo sandiṭṭhiko akāliko ehipassiko opanayiko paccattaṃ veditabbo
viññūhīti.
Chánh
Pháp khéo thuyết bởi Đức Thế Tôn, thiết thực hiện tiền, không có thời gian
tính, đến để thấy biết, hiệu năng hướng thượng, được các bậc trí tự thân chứng
ngộ.
Pháp
vi diệu cha lành khéo dạy
Lìa
danh ngôn giác ngộ hiện tiền
Vượt
thời gian chứng vô biên
Sát
na đại ngộ hoát nhiên liễu tường
Ðạo
vô thượng đến rồi thấy rõ
Hướng
thượng tâm thoát ngõ vọng trần
Trí
nhân tự ngộ giả chân
Diệu
thường tịnh lạc Pháp ân nhiệm mầu
Svākkhāto
= su + akkhāto = được thuyết giảng.
Bhagavato
= Đức Thế Tôn.
sandiṭṭhiko
= thiết thực hiện tiền
akāliko
= không có thời gian tính, vượt thời gian
ehipassiko
= đến để thấy
opanayiko
= hiệu năng hướng thượng (hướng đến giác ngộ giải thoát)
paccattaṃ
veditabbo viññūhīti = được người trí đích
thân tỏ ngộ.
Theo
cách nói tổng quát, trong Phạn ngữ Pàli có hai loại từ biến thể và không biến
thể.
1.
Loại biến thể: Gồm danh từ, động từ, tỉnh từ, trạng từ.. thí dụ chữ nguyên ngữ buddha
(Phật đà) nếu là chủ từ số ít là buddho, nếu là túc từ đổi thành buddham và nhiều
biết thể khác. Điểm nầy rất xa lạ với người Việt Nam vì ngôn ngữ Việt là tiếng đơn
âm. Chúng ta thường dùng có giới từ để bổ nghĩa cho danh từ, túc từ… như của
Đức Phật (tiếng Pàli là buddhassa), do Đức Phật (buddhena)… Đây là lý do
người không có căn bản văn phạm rất khó tra từ điển vì trong từ điển chỉ ghi
nguyên ngữ.
2.
Loại bất biến thể: Gồm các giới từ, liên
từ, trạng từ... không thay đổi dù nằm ở vị trí nào trong ngữ cảnh. Loại từ nầy
rất dễ dàng để tra trong từ điển thí dụ chữ namo, iti, ca…
Như
lần trước đã nói, trong cách đọc Phạn ngữ - đặc biệt là khi tụng kinh – âm ngắn
và dài rất quan trọng. Nên lưu ý vài điểm chính sau đây:
3
nguyên âm a, i, u đọc ngắn nhưng nếu ráp
vần ngược ( có phụ âm phía sau) thi đọc dài attha, arañña
5
nguyên âm ā, ī, ū, e, o đọc dài. Nhưng hai phụ âm e và o ráp vần ngược thì đọc
ngắn thí dụ upekkha, sotthi
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment