Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
28. Ðại Kinh Dụ Dấu Chân Voi
(Mahāhatthipadopama Sutta)
Gọi là Đại kinh Ví Dụ
Dấu Chân Voi (Mahāhatthipadopama Sutta) vì lấy từ một thí dụ làm tiền đề cho
pháp thoại. Bài kinh nầy có Đại kinh Ví Dụ Dấu Chân Voi vì tương đối dài hơn so
với bài kinh trước đây cũng lấy dấu chân voi làm thí dụ nhưng ngắn hơn mang tên
Tiểu Kinh Ví Dụ Dấu Chân Voi.
Như vầy tôi
nghe.
Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthī (Xá-vệ),
tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc). Ở
đây, Tôn giả Sāriputta (Xá-lợi-phất) gọi các Tỷ-kheo:
-- Này các Hiền giả Tỷ-kheo!
-- Thưa vâng, Hiền giả.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Sāriputta. Tôn giả Sāriputta nói như sau:
-- Chư Hiền giả, ví như tất cả dấu chân của mọi loại động vật đều thâu nhiếp trong dấu chân voi, vì dấu chân này được xem là lớn nhất trong tất cả dấu chân về phương diện to lớn. Cũng vậy, chư Hiền giả, tất cả các Thiện pháp đều tập trung trong Bốn Thánh đế. Thế nào là trong Bốn Thánh đế? Trong Khổ Thánh đế, trong Khổ tập Thánh đế, trong Khổ diệt Thánh đế, trong Khổ diệt đạo Thánh đế.
Chư Hiền, thế nào là Khổ Thánh đế? Sanh là khổ, già là khổ, chết là khổ, sầu, bi, khổ, ưu, não là khổ, điều gì cầu không được là khổ, tóm lại Năm thủ uẩn là khổ.
Chư Hiền, thế nào là Năm thủ uẩn? Chính là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn.
Chư Hiền, thế nào là sắc thủ uẩn? Bốn đại và sắc khởi lên từ bốn đại. Chư Hiền, thế nào là bốn đại? Chính là địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới.
142. Bốn đại chủng vật chất
Bốn đại chủng là bốn nguyên tố của vật chất theo Phật học (và cũng được phổ cập trong văn hoá Ấn). Tứ đại trong Tam Tạng được đề cập với nhiều phạm trù từ bản thể cho đến thường thức. Trong bài kinh nầy tứ đại được định nghĩa theo pháp hành cho những hành giả tu tập quán chiếu.
(Ðịa giới)
Chư Hiền, thế nào là địa giới? Có nội địa
giới, có ngoại địa giới. Chư Hiền, thế nào là nội địa giới? Cái
gì thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thô phù, kiên cứng, bị chấp
thủ, như tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận,
tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bao tử,
phân, và bất cứ vật gì khác thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thô
phù, kiên cứng, bị chấp thủ. Chư Hiền, như vậy gọi là nội địa giới.
Những gì thuộc nội địa giới và những gì thuộc ngoại địa giới đều
thuộc về địa giới. Cần phải như thật quán sát địa giới với chánh
trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này không
phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi". Sau khi như
thật quán sát địa giới với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yểm
ly đối với địa giới, tâm từ bỏ địa giới.
Chư Hiền, Tỷ-kheo ấy, niệm Phật như vậy,
niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả tương ưng với
thiện không được an trú. Do vậy, vị ấy bị dao động, bị dao động
mạnh: "Thật bất hạnh cho ta, thật không may cho ta, thật rủi ro
cho ta, thật không tốt đẹp cho ta. Dầu ta có niệm Phật như vậy, niệm
Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện
không được an trú". Chư Hiền, ví như một người dâu, khi thấy
ông nhạc, bị dao động, bị dao động mạnh. Cũng vậy, chư Hiền, nếu
Tỷ-kheo ấy niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như
vậy, nhưng xả tương ưng với thiện không được an trú. Do vậy, vị
ấy bị dao động, bị dao động mạnh: "Thật bất hạnh cho ta, thật
không may cho ta, thật rủi ro cho ta, thật không tốt đẹp cho ta. Dầu ta
có niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng
xả tương ưng với thiện không được an trú". Chư Hiền, nếu
Tỷ-kheo ấy, niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như
vậy, và xả tương ưng với thiện được an trú, thì Tỷ-kheo ấy được
hoan hỷ. Chư Hiền, đến mức độ này, Tỷ-kheo đã làm thật nhiều.
(Hỏa giới)
Chư Hiền, thế nào là hỏa giới? Có nội hỏa
giới, có ngoại hỏa giới. Chư Hiền, thế nào là nội hỏa giới? Cái
gì thuộc về nội thân, thuộc về cá nhân, thuộc lửa, thuộc chất
nóng, bị chấp thủ. Như cái gì khiến cho hâm nóng, khiến cho hủy
hoại, khiến cho thiêu cháy; cái gì khiến cho những vật được ăn
uống, nhai, nếm, có thể khéo tiêu hóa, hay tất cả những vật gì
khác thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc lửa, thuộc chất nóng, bị
chấp thủ. Chư Hiền, như vậy gọi là nội hỏa giới. Những gì thuộc
nội hỏa giới và những gì thuộc ngoại hỏa giới, đều thuộc về hỏa
giới. Cần phải như thật quán sát hỏa giới với chánh trí tuệ như
sau: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi,
cái này không phải tự ngã của tôi". Sau khi như thật quán sát
hỏa giới với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yểm ly đối với hỏa
giới, tâm từ bỏ hỏa giới.
Chư Hiền, thế nào là phong giới? Có nội
phong giới, có ngoại phong giới. Chư Hiền, thế nào là nội phong
giới? Cái gì thuộc về nội thân, thuộc cá nhân, thuộc gió, thuộc
động tánh, bị chấp thủ, như gió thổi lên, gió thổi xuống, gió
trong ruột, gió trong bụng dưới, gió thổi ngang các chi tiết (tay
chân), hơi thở vô, hơi thở ra, và bất cứ vật gì khác thuộc nội
thân, thuộc cá nhân, thuộc gió, thuộc tánh động, bị chấp thủ. Chư
Hiền, như vậy gọi là nội phong giới. Những gì thuộc nội phong giới
và những gì thuộc ngoại phong giới đều thuộc về phong giới. Cần
phải như thật quán sát phong giới với chánh trí tuệ như sau:
"Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái
này không phải tự ngã của tôi". Sau khi thấy như thật phong
giới với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yểm ly đối với phong
giới, tâm từ bỏ phong giới.
Chư Hiền, một thời xẩy ra khi ngoại phong giới dao động, gió thổi bay làng, thổi bay thị trấn, thổi bay thành phố, thổi bay xứ, thổi bay quốc độ. Chư Hiền, một thời xẩy ra khi trong tháng cuối mùa hạ, loài người tìm cầu gió nhờ lá cây ta-la, nhờ cây quạt, và người ta không mong tìm được cỏ tại chỗ có rạch nước chảy. Chư Hiền, tánh vô thường của ngoại phong giới xưa ấy có thể nêu rõ; tánh hủy hoại có thể nêu rõ; tánh đoạn diệt có thể nêu rõ; tánh biến dịch có thể nêu rõ. Như vậy còn nói gì đến thân thể yểu thọ do khát ái chấp thủ này? Ở đây không có gì để có thể nói là tôi, là của tôi, hay tôi là.
Tứ đại được hiểu là bốn nguyên tố của vật chất cần được
nhận thức với nhiều phạm trù khác nhau từ cách nói đại loại cho đến vĩ mô, từ tự
thân cho đến ngoại thân:
QUÁN TƯỞNG VÔ THƯỜNG
Chư Hiền, nếu có những người khác mắng
nhiếc, chỉ trích, chọc tức, nhiễu não Tỷ-kheo, vị ấy biết rõ như
sau: "Khổ thọ khởi lên nơi tôi này thuộc tai xúc chạm; thọ này
do nhân duyên, không phải không do nhân duyên. Do nhân duyên gì? Do
nhân duyên xúc vậy". Vị ấy thấy xúc là vô thường; vị ấy
thấy thọ là vô thường; vị ấy thấy tưởng là vô thường; vị ấy
thấy hành là vô thường; vị ấy thấy thức là vô thường; tâm của vị
này hoan hỷ, thích thú, tịnh chỉ, quyết định, tùy thuộc giới đối
tượng.
Chư Hiền, nếu những người khác xử sự với Tỷ-kheo, không có hoàn hảo, không có tốt đẹp, không có khả ái, hoặc dùng tay xúc chạm, hoặc dùng đá xúc chạm, hoặc dùng gậy xúc chạm, hoặc dùng gươm xúc chạm, vị ấy biết như sau: "Sự thể của thân này là như vậy nên tay có thể xúc chạm, đá có thể xúc chạm, gậy có thể xúc chạm, gươm có thể xúc chạm". Thế Tôn đã dạy như sau trong ví dụ cái cưa: "Chư Tỷ- kheo, nếu có kẻ trộm cướp hạ tiện lấy cái cưa hai lưỡi cắt từng phần tay và chân, nếu ai ở đây sanh ý phẫn nộ thì người ấy không làm đúng lời ta dạy". Ta sẽ tinh cần, tinh tấn, không dải đãi, niệm được an trú, không có loạn niệm, thân thể được khinh an, không dao động, tâm được định tĩnh nhất tâm. Nay mặc cho tay xúc chạm thân này, mặc cho đá xúc chạm, mặc cho gậy xúc chạm, mặc cho gươm xúc chạm thân này. Lời dạy chư Phật cần phải được thực hành".
NGHĨ TƯỞNG ĐẾN TAM BẢO
Người tu tập nhớ nghĩ về Bậc Đạo Sư, lời dạy chí thiết của Ngài, và những đệ tử Phật đã cương quyết hành trì lời Phật dạy:
Chư Hiền, Tỷ-kheo ấy, niệm Phật như vậy,
niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả tương ưng với
thiện không được an trú. Do vậy, vị ấy bị dao động, bị dao động
mạnh: "Thật bất hạnh cho ta, thật không may cho ta, thật rủi ro
cho ta, thật không tốt đẹp cho ta. Dầu ta có niệm Phật như vậy, niệm
Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện
không được an trú". Chư Hiền, ví như một người dâu, khi thấy
ông nhạc, bị dao động, bị dao động mạnh. Cũng vậy, chư Hiền, nếu
Tỷ-kheo ấy niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như
vậy, nhưng xả tương ưng với thiện không được an trú. Do vậy, vị
ấy bị dao động, bị dao động mạnh: "Thật bất hạnh cho ta, thật
không may cho ta, thật rủi ro cho ta, thật không tốt đẹp cho ta. Dầu ta
có niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng
xả tương ưng với thiện không được an trú". Chư Hiền, nếu Tỷ-
Kheo ấy niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy,
và xả tương ưng với thiện được an trú. Do vậy, Tỷ-kheo ấy được
hoan hỷ. Chư Hiền, cho đến mức độ này, Tỷ-kheo đã làm thật nhiều.
Chư Hiền, như một khoảng trống được bao
vây bởi cây gậy, bởi dây leo, bởi cỏ, bởi bùn, được biết là một
nhà ở. Cũng vậy, Chư Hiền, một khoảng trống được bao vây bởi
xương, bởi dây gân, bởi thịt, bởi da, được biết là một sắc pháp.
Chư Hiền, nếu nội lưỡi không bị hư hại, nhưng ngoại vị không vào trong tầm lưỡi, không có sự quy tụ xúc chạm thích hợp, thì thức phần thích hợp không có hiện khởi. ... Cho đến mức độ này, Chư Hiền, Tỷ- kheo đã làm rất nhiều.
Bất cứ sắc gì được hiện khởi như vậy đều
quy tụ trong sắc thủ uẩn; bất cứ cảm thọ gì được hiện khởi như
vậy đều quy tụ trong thọ thủ uẩn; bất cứ tưởng gì được hiện khởi
như vậy đều quy tụ trong tưởng thủ uẩn; bất cứ hành gì được hiện
khởi như vậy đều quy tụ trong hành thủ uẩn; bất cứ thức gì được
hiện khởi như vậy đều quy tụ trong thức thủ uẩn. Vị ấy tuệ tri như
sau: "Như vậy, như người ta nói, có sự quy tụ, sự tập họp, sự
hòa hợp của năm thủ uẩn này. Thế Tôn đã nói như sau: "Ai thấy
được lý duyên khởi, người ấy thấy được pháp; ai thấy được pháp,
người ấy thấy được lý duyên khởi". Những pháp này do duyên
khởi lên chính là năm thủ uẩn. Sự tham dục, chấp trước, tham đắm,
mê say trong năm thủ uẩn này tức là khổ tập; sự nhiếp phục tham
dục, sự từ bỏ tham dục tức là sự khổ diệt". Cho đến mức độ
này, chư Hiền, Tỷ-kheo đã làm rất nhiều.
Bốn cách tu tập được dạy trong bài kinh:
QUÁN TƯỞNG VÔ
THƯỜNG
NGHĨ TƯỞNG ĐẾN TAM
BẢO
QUÁN TƯỞNG LÝ VÔ NGÃ
QUA GIẢ HỢP CỦA CĂN, CẢNH VÀ THỨC
QUÁN CHIẾU TẤT CẢ CHỈ
LÀ HIỆN TƯỢNG CỦA THỦ UẨN TỪ ĐÓ SỐNG VỚI GIÁO LÝ DUYÊN SINH.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 28 [tóm tắt]
Đại Kinh Dụ Dấu Chân Voi
(Mahāhatthipadopama Sutta)
(M.i, 184)
Kinh này do Tôn giả Sāriputta
giảng cho các Tỷ-kheo. Tôn giả nói rằng tất cả dấu chân của mọi
loài động vật đều thâu nhiếp trong dấu chân voi, vì dấu chân voi là
to lớn nhất. Cũng vậy, tất cả thiện pháp đều tập trung trong bốn
Thánh đế.
Rồi Sāriputta giảng về Khổ
thánh đế, tức là năm thủ uẩn và tập trung sự thuyết giảng về Sắc
thủ uẩn, về địa thủy hỏa phong tác thành sắc thủ uẩn. Các uẩn còn
lại được kết luận tương tự như sắc thủ uẩn.
Sāriputta giải thích Sắc thủ
uẩn là bốn Đại và sắc khởi lên từ bốn đại và bốn đại là địa,
thủy, hỏa, phong, rồi Sāriputta phân tích rất tỉ mỉ về bốn đại
này:
1. Về địa giới gồm có nội
địa giới (đối với nội thân) và ngoại địa giới, tức là thành phần
địa giới ngoài (nội) thân.
2. Quán sát địa giới với
chánh trí tuệ: “Cái này không phải của tôi, là tôi, là tự ngã
của tôi”, sanh yểm ly với địa giới và từ bỏ địa giới.
3. Khi ngoại địa giới dao
động, ngoại địa giới biến mất, cần nêu rõ tánh vô thường, tánh
hủy diệt, tánh đoạn diệt, tánh biến dịch của địa đại, và so sánh
với cái thân yểu thọ do khát ái chấp thủ này, không có gì để gọi
là “của tôi, là tôi, là tự ngã của tôi”.
4. Nếu có người mắng nhiếc
Tỷ-kheo, vị ấy cần phải quán tri, sở dĩ có khổ thọ là do tai cảm
xúc mà sanh, thọ ấy có nhân duyên, không phải không có nhân duyên,
do nhân duyên xúc, và vị ấy thấy xúc, thọ, tưởng, hành, thức là
vô thường. Tâm vị ấy hoan hỷ tịnh tín, tịnh chỉ và an trú trên
giới đối tượng.
5. Nếu có người đánh đập
vị Tỷ-kheo với đá, gậy, gươm, Tỷ-kheo cần phải suy nghĩ: “Đã có
thân thời có xúc chạm và nhớ lại lời dạy của đức Phật về ví dụ
cái cưa: Nếu có ai dùng cái cưa hai lưỡi cắt đứt thân phần của
mình, nếu sanh sân hận, phẫn nộ, thời như vậy không làm đúng lời
Phật dạy”. Nhờ vậy, vị Tỷ-kheo được kiên nhẫn, thân được khinh an,
được định tĩnh nhất tâm, làm đúng lời Phật dạy.
6. Dù niệm Phật, niệm Pháp,
niệm Tăng như vậy, xả tương ưng với thiện không an trú; vị
Tỷ-kheo bị dao động mạnh như vậy là không tốt đẹp. Vậy cần phải
niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng như thế nào để xả tương ưng với
thiện được an trú và như vậy là vị Tỷ-kheo đã làm được nhiều.
Đối với thủy giới, hỏa
giới, phong giới, vị Tỷ-kheo có một thái độ tương tự, chỉ về nội
thủy giới, nội hỏa giới, nội phong giới diễn tả có sai khác, và sự
hủy hoại do thủy giới, hỏa giới, phong giới tác động có sự sai
khác, nhưng về mặt phân tích sáu phần đều tương tự như nhau.
Tiếp đến Sāriputta
đề cập về sắc uẩn. Cái nhà được hình thành là do sự quy tụ các
cây gậy, dây leo, cỏ, bùn; cũng vậy, sắc uẩn con người là sự quy
tụ của xương, gân, thịt, da v.v... Nếu nội nhãn không bị hư hoại,
nhưng ngoại sắc không vào trong tầm mắt, không có sự quy tụ xúc
chạm thích hợp thời thức phần thích hợp không hiện khởi. Nếu nội
nhãn không bị hư hoại, ngoại sắc vào trong tầm mắt, nhưng không có
sự quy tụ xúc chạm thích hợp thời thức phần thích hợp không hiện
khởi. Chỉ khi nào nội nhãn không bị hư hoại, ngoại sắc vào trong
tầm mắt, có sự quy tụ xúc chạm thích hợp thời thức phần thích hợp
mới hiện khởi. Bất cứ sắc pháp gì được hiện khởi như vậy đều quy
tụ trong sắc uẩn. Bất cứ thọ gì được hiện khởi như vậy đều được
quy tụ trong thọ uẩn. Bất cứ tưởng gì được hiện khởi như vậy đều
quy tụ trong tưởng uẩn. Bất cứ hành gì được hiện khởi như vậy
đều quy tụ trong hành uẩn. Bất cứ thức gì được hiện khởi như vậy
đều quy tụ trong thức uẩn.
Vị ấy quán tri như sau: Như
vậy có sự quy tụ, sự tập hợp, sự hòa hợp năm thủ uẩn và Thế Tôn
đã nói: “Ai thấy được lý duyên khởi người ấy thấy được Pháp; ai
thấy được Pháp người ấy thời được lý duyên khởi”. Những pháp
này do duyên khởi lên chính là năm uẩn. Sự tham dục, chấp trước,
mê say trong năm thủ uẩn là khổ tập; sự nhiếp phục, từ bỏ tham dục
là khổ diệt. Cho đến mức độ này, vị Tỷ- kheo đã làm được rất
nhiều. Đối với năm nội căn khác, tương tự như nội nhãn căn.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 28 [dàn ý]
Đại Kinh Dụ Dấu Chân Voi
(Mahāhatthipadopama Sutta)
(M.i, 184)
A.
Duyên khởi:
Tôn giả Sāriputta thuyết giảng.
B.
Chánh kinh:
I. Tất cả
thiện pháp đều tập trung trong 4 Thánh đế, như tất cả dấu chân của các loài thú
đều tập trung trong dấu chân voi, vì dấu chân này được xem là lớn nhất.
II. Định
nghĩa 4 Thánh đế, khổ thánh đế, 5 thủ uẩn, sắc thủ uẩn, 4 đại chủng: Địa, thủy,
hỏa, phong.
III. Địa giới
1. Định
nghĩa nội địa giới và ngoại địa giới, quán vô ngã và vô thường.
2. Sử dụng
phép quán khi bị mắng chửi và bị đánh đập.
IV. Thủy giới,
hỏa giới và phong giới.
V. Sự hiện
khởi của 5 thủ uẩn ngang qua 6 căn và lý sự thật áp dụng vào 5 thủ uẩn.
C. Kết
luận:
Các Tỷ-kheo hoan
hỷ tín thọ.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 28 [toát yếu]
Đại Kinh Dụ Dấu Chân Voi
(Mahāhatthipadopama Sutta)
(M.i, 184)
I.
TOÁT YẾU
Mahāhatthipadopama
Sutta - The greater discourse on the simile of the elephant's footprint.
The
venerable Sāriputta begins with a statement of the four noble truths, which he
then expounds by way of the contemplation of the four elements and the dependent
origination of the five aggregates.
Bản
kinh dài về ví dụ dấu chân voi.
Tôn
giả Xá-lợi-phất khởi đầu bằng tuyên bố về Bốn chân lý, rồi giảng
giải bốn chân lý qua pháp quán bốn đại chủng và lý duyên khởi về
năm uẩn.
II.
TÓM TẮT
Tôn
giả Xá-lợi-phất tuyên bố Bốn chân lý là lớn nhất trong tất cả thiện
pháp, như dấu chân voi lớn nhất trong các dấu chân. Kế đến gồm các
đoạn:
1.
Phân tích chân lý về Khổ với những khía cạnh của nó, đặc biệt là
năm uẩn bị chấp thủ.
2.
Phân tích sắc uẩn do bốn đại tạo; lần lượt nói về bốn đại với
hai khía cạnh trong và ngoài, nội đại chủng được phân tích chi
tiết, đại chủng bên ngoài chỉ nói sơ qua để so sánh cho đầy đủ.
Mỗi đại chủng được hiển thị như là một nền tảng để phát sinh tuệ
quán "duyên sinh, vô thường, vô ngã" cùng các đức tính
nhẫn, niệm và xả tương ưng với thiện.
3.
Trở lại phân tích các khía cạnh của Bốn chân lý, liên hệ năm thủ
uẩn: Các sở tạo sắc - mắt tai mũi lưỡi thân ý - phải lành mạnh,
có sự xúc chạm với ngoại pháp đối tượng của chúng, và ngoại pháp
phải ở trong tầm, thì thức phần tương ứng - cái biết của mắt,
tai... - mới xuất hiện. Những pháp do duyên khởi ấy chính là năm
thủ uẩn. Thế Tôn đã dạy: "Ai thấy được lý duyên khởi, người
ấy thấy được
Pháp;
ai thấy được Pháp, người ấy thấy lý duyên khởi." Sự tham đắm
năm thủ uẩn là Khổ tập; sự nhiếp phục, từ bỏ dục tham là Khổ diệt.
III.
CHÚ GIẢI
Niệm
Phật, niệm Pháp, niệm Tăng: Luận giải "niệm Phật" là nhớ
lời Phật dạy về ví dụ cái cưa trong kinh số 21; "niệm
Pháp" là nhớ lời khuyên của Ngài trong ví dụ cái cưa; "niệm
Tăng" là nhớ đến đức nhẫn cu/a vị tỳ kheo có thể kham nhẫn
những sự nhục mạ không phẫn hận.
Xả
tương ưng với thiện là xả do tuệ, tức thái độ không ưa không
ghét trước những đối tượng đáng ưa ghét xuất hiện qua sáu cửa
ngõ giác quan. Nói một cách tuyệt đối, xả này chỉ bậc A-la-hán mới
có, vị tỳ kheo hữu học thì đang
hướng
về đức tính này.
Ai
thấy Duyên khởi... Không thấy chỗ nào khác trong tạng Pàli dẫn Phật
dạy lời này. Luận chú thích: "Ai thấy lý duyên khởi thì thấy
các pháp do duyên khởi; ai thấy các pháp do duyên khởi thì thấy
được lý duyên khởi." Chú giải này tuy rõ hơn [ám chỉ năm thủ
uẩn là pháp duyên khởi] song không bao hàm hết ý nghĩa sâu sắc của
lời Phật dạy, theo đó có thể hiểu toàn thể của Pháp là Duyên khởi
và toàn thể của Duyên khởi là Pháp.
IV.
PHÁP SỐ
Bốn
chân lý, Bốn đại chúng, Năm thủ uẩn, Sáu căn, Sáu trần, Sáu thức,
Tám khổ.
V.
KỆ TỤNG
Trong
tất cả dấu chân
Dấu
chân voi lớn nhất
Cũng
vậy tất cả thiện
Bốn
chân lý gồm thâu.
Khổ
đế nói vắn tắt
Chính
là năm thủ uẩn
Sắc
thọ tưởng hành thức
Làm
nên thân và tâm.
Sắc
là thân tứ đại:
Địa, thủy, hỏa, và phong
Trong
ngoài đều biến chuyển
Để
đi đến diệt vong.
Khi
thấy rõ bốn đại
"Không
tôi, không của tôi"
Sinh
yểm ly, từ bỏ
Và
xả được an trú.
Do
căn trần tiếp xúc
Bèn có "thức" hiện sinh
Năm
thủ uẩn duyên sinh
Là
chân lý về Khổ
Muốn
rõ biết nguồn cơn
Tham
dục là nguyên nhân
Bỏ
đam mê thủ uẩn
Khổ diệt, chứng Niết-bàn.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
28. Mahāhatthipadopamasuttaṃ
[Mūla]
300. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ
samayaṃ Bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.
Tatra kho āyasmā sāriputto bhikkhū āmantesi : ''āvuso bhikkhaveti. ''Āvusoti
kho te bhikkhū āyasmato sāriputtassa paccassosuṃ. Āyasmā sāriputto etadavoca :
''seyyathāpi, āvuso, yāni kānici jaṅgalānaṃ pāṇānaṃ padajātāni sabbāni tāni
hatthipade samodhānaṃ gacchanti, hatthipadaṃ tesaṃ aggamakkhāyati yadidaṃ
mahantattena evameva kho, āvuso, ye keci kusalā dhammā sabbete catūsu
ariyasaccesu saṅgahaṃ gacchanti. Katamesu catūsu? dukkhe ariyasacce ,
dukkhasamudaye ariyasacce, dukkhanirodhe ariyasacce, dukkhanirodhagāminiyā paṭipadāya
ariyasacce.
301. ''Katamañcāvuso, dukkhaṃ ariyasaccaṃ? jātipi dukkhā, jarāpi
dukkhā, maraṇampi dukkhaṃ, sokaparidevadukkhadomanassupāyāsāpi dukkhā,
yampicchaṃ na labhati tampi dukkhaṃ saṃkhittena, pañcupādānakkhandhā dukkhā.
Katame cāvuso, pañcupādānakkhandhā? seyyathidaṃ : rūpupādānakkhandho,
vedanupādānakkhandho, saññupādānakkhandho, saṅkhārupādānakkhandho, viññāṇupādānakkhandho.
''Katamo cāvuso, rūpupādānakkhandho? cattāri ca mahābhūtāni, catunnañca
mahābhūtānaṃ upādāya rūpaṃ. ''Katamā cāvuso, cattāro mahābhūtā? pathavīdhātu,
āpodhātu , tejodhātu, vāyodhātu.
302. ''Katamā cāvuso, pathavīdhātu? pathavīdhātu siyā ajjhattikā,
siyā bāhirā. Katamā cāvuso, ajjhattikā pathavīdhātu? yaṃ ajjhattaṃ paccattaṃ
kakkhaḷaṃ kharigataṃ upādinnaṃ, seyyathidaṃ : kesā lomā nakhā dantā taco maṃsaṃ
nhāru aṭṭhi aṭṭhimiñjaṃ vakkaṃ hadayaṃ yakanaṃ kilomakaṃ pihakaṃ papphāsaṃ antaṃ
antaguṇaṃ udariyaṃ karīsaṃ, yaṃ vā panaññampi kiñci ajjhattaṃ paccattaṃ kakkhaḷaṃ kharigataṃ upādinnaṃ. Ayaṃ
vuccatāvuso, ajjhattikā pathavīdhātu. Yā ceva kho pana ajjhattikā pathavīdhātu,
yā ca bāhirā pathavīdhātu, pathavīdhāturevesā. 'Taṃ netaṃ mama, nesohamasmi, na
meso attāti : evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya daṭṭhabbaṃ. Evametaṃ
yathābhūtaṃ sammappaññāya disvā pathavīdhātuyā nibbindati, pathavīdhātuyā cittaṃ
virājeti. ''Hoti kho so, āvuso, samayo
yaṃ bāhirā āpodhātu pakuppati [pathavīdhātu pakuppati (ka.)]. Antarahitā tasmiṃ
samaye bāhirā pathavīdhātu hoti. Tassā hi nāma, āvuso, bāhirāya pathavīdhātuyā
tāva mahallikāya aniccatā paññāyissati, khayadhammatā paññāyissati,
vayadhammatā paññāyissati, vipariṇāmadhammatā paññāyissati. Kiṃ panimassa mattaṭṭhakassa
kāyassa taṇhupādinnassa 'ahanti vā mamanti vā asmīti vā? atha khvāssa
notevettha hoti.
''Tañce, āvuso, bhikkhuṃ pare akkosanti paribhāsanti rosenti vihesenti,
so evaṃ pajānāti : 'uppannā kho me ayaṃ sotasamphassajā dukkhavedanā . Sā ca
kho paṭicca, no apaṭicca. Kiṃ paṭicca? phassaṃ
paṭicca. So [sopikho (syā.), sopi (ka.)] phasso aniccoti passati, vedanā
aniccāti passati, saññā aniccāti passati, saṅkhārā aniccāti passati, viññāṇaṃ
aniccanti passati. Tassa dhātārammaṇameva cittaṃ pakkhandati pasīdati santiṭṭhati
adhimuccati.
''Tañce, āvuso, bhikkhuṃ pare aniṭṭhehi akantehi amanāpehi samudācaranti
: pāṇisamphassenapi leḍḍusamphassenapi daṇḍasamphassenapi satthasamphassenapi.
So evaṃ pajānāti : 'tathābhūto kho ayaṃ kāyo yathābhūtasmiṃ kāye pāṇisamphassāpi
kamanti, leḍḍusamphassāpi kamanti, daṇḍasamphassāpi kamanti, satthasamphassāpi
kamanti. Vuttaṃ kho panetaṃ bhagavatā kakacūpamovāde : ''ubhatodaṇḍakena cepi,
bhikkhave, kakacena corā ocarakā aṅgamaṅgāni okanteyyuṃ, tatrāpi yo mano
padūseyya na me so tena sāsanakaroti. Āraddhaṃ kho pana me vīriyaṃ bhavissati
asallīnaṃ, upaṭṭhitā sati asammuṭṭhā, passaddho kāyo asāraddho, samāhitaṃ cittaṃ
ekaggaṃ. Kāmaṃ dāni imasmiṃ kāye pāṇisamphassāpi kamantu, leḍḍusamphassāpi
kamantu, daṇḍasamphassāpi kamantu, satthasamphassāpi kamantu, karīyati hidaṃ
buddhānaṃ sāsananti. ''Tassa ce, āvuso, bhikkhuno evaṃ buddhaṃ anussarato evaṃ
dhammaṃ anussarato evaṃ saṅghaṃ
anussarato upekkhā kusalanissitā na saṇṭhāti. So tena saṃvijjati saṃvegaṃ āpajjati : 'alābhā vata
me, na vata me lābhā, dulladdhaṃ vata
me, na vata me suladdhaṃ, yassa me evaṃ buddhaṃ anussarato, evaṃ dhammaṃ
anussarato, evaṃ saṅghaṃ anussarato, upekkhā kusalanissitā na saṇṭhātīti.
Seyyathāpi, āvuso, suṇisā sasuraṃ disvā saṃvijjati saṃvegaṃ āpajjati evameva
kho, āvuso, tassa ce bhikkhuno evaṃ buddhaṃ anussarato, evaṃ dhammaṃ anussarato,
evaṃ saṅghaṃ anussarato, upekkhā kusalanissitā na saṇṭhāti, so tena saṃvijjati
saṃvegaṃ āpajjati : 'alābhā vata me na vata me lābhā, dulladdhaṃ vata me, na
vata me suladdhaṃ, yassa me evaṃ buddhaṃ anussarato evaṃ dhammaṃ anussarato,
evaṃ saṅghaṃ anussarato, upekkhā kusalanissitā na saṇṭhātīti. Tassa ce, āvuso,
bhikkhuno evaṃ buddhaṃ anussarato, evaṃ dhammaṃ anussarato, evaṃ saṅghaṃ
anussarato upekkhā kusalanissitā saṇṭhāti, so tena attamano hoti. Ettāvatāpi kho, āvuso, bhikkhuno
bahukataṃ hoti.
303. ''Katamā cāvuso, āpodhātu? āpodhātu siyā ajjhattikā, siyā
bāhirā. Katamā cāvuso ajjhattikā āpodhātu? yaṃ ajjhattaṃ paccattaṃ āpo āpogataṃ
upādinnaṃ, seyyathidaṃ : pittaṃ semhaṃ pubbo lohitaṃ sedo medo assu vasā kheḷo
siṅghāṇikā lasikā muttaṃ, yaṃ vā panaññampi kiñci ajjhattaṃ paccattaṃ āpo
āpogataṃ upādinnaṃ : ayaṃ vuccatāvuso, ajjhattikā āpodhātu. Yā ceva kho pana ajjhattikā āpodhātu yā ca
bāhirā āpodhātu, āpodhāturevesā. 'Taṃ netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attāti
evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya daṭṭhabbaṃ. Evametaṃ yathābhūtaṃ
sammappaññāya disvā āpodhātuyā nibbindati, āpodhātuyā cittaṃ virājeti. ''Hoti
kho so, āvuso, samayo yaṃ bāhirā āpodhātu pakuppati. Sā gāmampi vahati,
nigamampi vahati, nagarampi vahati, janapadampi vahati, janapadapadesampi
vahati. Hoti kho so, āvuso, samayo yaṃ mahāsamudde yojanasatikānipi udakāni
ogacchanti, dviyojanasatikānipi udakāni ogacchanti, tiyojanasatikānipi udakāni
ogacchanti, catuyojanasatikānipi udakāni ogacchanti, pañcayojanasatikānipi
udakāni ogacchanti, chayojanasatikānipi udakāni ogacchanti,
sattayojanasatikānipi udakāni ogacchanti. Hoti kho so, āvuso, samayo yaṃ
mahāsamudde sattatālampi udakaṃ saṇṭhāti,
chattālampi udakaṃ saṇṭhāti,
pañcatālampi udakaṃ saṇṭhāti, catuttālampi udakaṃ saṇṭhāti, titālampi udakaṃ saṇṭhāti,
dvitālampi udakaṃ saṇṭhāti, tālamattampi [tālaṃpi (sī.)] udakaṃ saṇṭhāti. Hoti
kho so, āvuso, samayo yaṃ mahāsamudde sattaporisampi udakaṃ saṇṭhāti,
chapporisampi udakaṃ saṇṭhāti, pañcaporisampi udakaṃ saṇṭhāti, catupporisampi
udakaṃ saṇṭhāti, tiporisampi udakaṃ saṇṭhāti, dviporisampi udakaṃ saṇṭhāti,
porisamattampi [porisaṃpi (sī.)] udakaṃ saṇṭhāti. Hoti kho so, āvuso, samayo yaṃ
mahāsamudde aḍḍhaporisampi udakaṃ saṇṭhāti,
kaṭimattampi udakaṃ saṇṭhāti, jāṇukamattampi udakaṃ saṇṭhāti, gopphakamattampi
udakaṃ saṇṭhāti. Hoti kho so, āvuso, samayo, yaṃ mahāsamudde aṅgulipabbatemanamattampi
udakaṃ na hoti. Tassā hi nāma, āvuso, bāhirāya āpodhātuyā tāva mahallikāya
aniccatā paññāyissati, khayadhammatā
paññāyissati, vayadhammatā paññāyissati, vipariṇāmadhammatā paññāyissati. Kiṃ
panimassa mattaṭṭhakassa kāyassa taṇhupādinnassa 'ahanti vā mamanti vā asmīti
vā? atha khvāssa notevettha hoti - pe - tassa ce, āvuso, bhikkhuno evaṃ buddhaṃ
anussarato, evaṃ dhammaṃ anussarato, evaṃ saṅghaṃ anussarato upekkhā
kusalanissitā saṇṭhāti. So tena attamano hoti. Ettāvatāpi kho, āvuso, bhikkhuno
bahukataṃ hoti.
304. ''Katamā cāvuso, tejodhātu? tejodhātu siyā ajjhattikā, siyā
bāhirā. Katamā cāvuso, ajjhattikā tejodhātu? yaṃ ajjhattaṃ paccattaṃ tejo
tejogataṃ upādinnaṃ, seyyathidaṃ : yena ca santappati, yena ca jīrīyati, yena
ca pariḍayhati, yena ca asitapītakhāyitasāyitaṃ sammā pariṇāmaṃ gacchati, yaṃ
vā panaññampi kiñci ajjhattaṃ paccattaṃ tejo tejogataṃ upādinnaṃ : ayaṃ
vuccatāvuso, ajjhattikā tejodhātu. Yā ceva kho pana ajjhattikā tejodhātu yā ca
bāhirā tejodhātu, tejodhāturevesā. 'Taṃ netaṃ mama , nesohamasmi, na meso
attāti evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya daṭṭhabbaṃ. Evametaṃ yathābhūtaṃ
sammappaññāya disvā tejodhātuyā nibbindati, tejodhātuyā cittaṃ virājeti. ''Hoti kho so, āvuso, samayo yaṃ bāhirā tejodhātu
pakuppati. Sā gāmampi dahati, nigamampi dahati, nagarampi dahati, janapadampi
dahati, janapadapadesampi dahati. Sā haritantaṃ vā panthantaṃ vā selantaṃ vā
udakantaṃ vā ramaṇīyaṃ vā bhūmibhāgaṃ āgamma anāhārā nibbāyati. Hoti kho so,
āvuso, samayo yaṃ kukkuṭapattenapi nhārudaddulenapi aggiṃ gavesanti . Tassā hi
nāma, āvuso, bāhirāya tejodhātuyā tāva mahallikāya aniccatā paññāyissati,
khayadhammatā paññāyissati, vayadhammatā paññāyissati, vipariṇāmadhammatā paññāyissati.
Kiṃ panimassa mattaṭṭhakassa kāyassa taṇhupādinnassa 'ahanti vā mamanti vā
asmīti vā? atha khvāssa notevettha hoti - pe - tassa ce, āvuso, bhikkhuno evaṃ
buddhaṃ anussarato evaṃ dhammaṃ anussarato evaṃ saṅghaṃ anussarato upekkhā
kusalanissitā saṇṭhāti, so tena attamano hoti. Ettāvatāpi kho, āvuso, bhikkhuno
bahukataṃ hoti.
305. ''Katamā cāvuso, vāyodhātu? vāyodhātu siyā ajjhattikā, siyā
bāhirā. Katamā cāvuso, ajjhattikā vāyodhātu? yaṃ ajjhattaṃ paccattaṃ vāyo
vāyogataṃ upādinnaṃ, seyyathidaṃ : uddhaṅgamā vātā, adhogamā vātā, kucchisayā
vātā, koṭṭhāsayā [koṭṭhasayā (sī. pī.)] vātā, aṅgamaṅgānusārino vātā, assāso passāso iti, yaṃ vā panaññampi
kiñci ajjhattaṃ paccattaṃ vāyo vāyogataṃ upādinnaṃ : ayaṃ vuccatāvuso,
ajjhattikā vāyodhātu. Yā ceva kho pana ajjhattikā vāyodhātu, yā ca bāhirā
vāyodhātu, vāyodhāturevesā. 'Taṃ netaṃ mama nesohamasmi na meso attāti evametaṃ
yathābhūtaṃ sammappaññāya daṭṭhabbaṃ. Evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya disvā
vāyodhātuyā nibbindati vāyodhātuyā cittaṃ virājeti.
''Hoti kho so, āvuso, samayo yaṃ
bāhirā vāyodhātu pakuppati. Sā gāmampi vahati, nigamampi vahati, nagarampi
vahati, janapadampi vahati, janapadapadesampi vahati. Hoti kho so, āvuso,
samayo yaṃ gimhānaṃ pacchime māse tālavaṇṭenapi vidhūpanenapi vātaṃ pariyesanti,
ossavanepi tiṇāni na icchanti. Tassā hi
nāma, āvuso, bāhirāya vāyodhātuyā tāva mahallikāya aniccatā paññāyissati,
khayadhammatā paññāyissati, vayadhammatā paññāyissati, vipariṇāmadhammatā
paññāyissati. Kiṃ panimassa mattaṭṭhakassa kāyassa taṇhupādinnassa 'ahanti vā
mamanti vā asmīti vā? atha khvāssa notevettha hoti.
''Tañce, āvuso, bhikkhuṃ pare akkosanti paribhāsanti rosenti vihesenti.
So evaṃ pajānāti, uppannā kho me ayaṃ sotasamphassajā dukkhā vedanā. Sā ca kho
paṭicca, no apaṭicca. Kiṃ paṭicca? phassaṃ paṭicca. Sopi phasso aniccoti
passati, vedanā aniccāti passati , saññā
aniccāti passati, saṅkhārā aniccāti passati, viññāṇaṃ aniccanti passati. Tassa
dhātārammaṇameva cittaṃ pakkhandati pasīdati santiṭṭhati adhimuccati.
''Tañce, āvuso, bhikkhuṃ pare aniṭṭhehi akantehi amanāpehi
samudācaranti, pāṇisamphassenapi leḍḍusamphassenapi daṇḍasamphassenapi
satthasamphassenapi. So evaṃ pajānāti 'tathābhūto kho ayaṃ kāyo yathābhūtasmiṃ
kāye pāṇisamphassāpi kamanti, leḍḍusamphassāpi kamanti, daṇḍasamphassāpi
kamanti, satthasamphassāpi kamanti. Vuttaṃ kho panetaṃ bhagavatā kakacūpamovāde
''ubhatodaṇḍakena cepi, bhikkhave, kakacena corā ocarakā aṅgamaṅgāni okanteyyuṃ.
Tatrāpi yo mano padūseyya, na me so tena sāsanakaroti. Āraddhaṃ kho pana me
vīriyaṃ bhavissati asallīnaṃ, upaṭṭhitā sati asammuṭṭhā, passaddho kāyo
asāraddho, samāhitaṃ cittaṃ ekaggaṃ. Kāmaṃ dāni imasmiṃ kāye pāṇisamphassāpi
kamantu, leḍḍusamphassāpi kamantu, daṇḍasamphassāpi kamantu, satthasamphassāpi
kamantu. Karīyati hidaṃ buddhānaṃ sāsananti. ''Tassa ce, āvuso, bhikkhuno evaṃ
buddhaṃ anussarato, evaṃ dhammaṃ anussarato, evaṃ saṅghaṃ anussarato upekkhā
kusalanissitā na saṇṭhāti. So tena saṃvijjati saṃvegaṃ āpajjati : 'alābhā vata
me, na vata me lābhā, dulladdhaṃ vata me, na vata me suladdhaṃ. Yassa me evaṃ
buddhaṃ anussarato, evaṃ dhammaṃ
anussarato, evaṃ saṅghaṃ anussarato upekkhā kusalanissitā na saṇṭhātīti. Seyyathāpi, āvuso, suṇisā
sasuraṃ disvā saṃvijjati saṃvegaṃ āpajjati evameva kho, āvuso, tassa ce bhikkhuno evaṃ buddhaṃ anussarato, evaṃ
dhammaṃ anussarato, evaṃ saṅghaṃ anussarato, upekkhā kusalanissitā na saṇṭhāti.
So tena saṃvijjati saṃvegaṃ āpajjati : 'alābhā vata me, na vata me lābhā,
dulladdhaṃ vata me, na vata me suladdhaṃ. Yassa me evaṃ buddhaṃ anussarato, evaṃ
dhammaṃ anussarato, evaṃ saṅghaṃ anussarato, upekkhā kusalanissitā na saṇṭhātīti.
Tassa ce, āvuso, bhikkhuno evaṃ buddhaṃ anussarato, evaṃ dhammaṃ anussarato,
evaṃ saṅghaṃ anussarato, upekkhā kusalanissitā saṇṭhāti, so tena attamano hoti.
Ettāvatāpi kho, āvuso, bhikkhuno bahukataṃ hoti.
306. ''Seyyathāpi, āvuso, kaṭṭhañca paṭicca valliñca paṭicca tiṇañca
paṭicca mattikañca paṭicca ākāso parivārito agāraṃ tveva saṅkhaṃ gacchati
evameva kho, āvuso, aṭṭhiñca paṭicca
nhāruñca paṭicca maṃsañca paṭicca cammañca paṭicca ākāso parivārito rūpaṃ tveva
saṅkhaṃ gacchati. Ajjhattikañceva, āvuso, cakkhuṃ aparibhinnaṃ hoti, bāhirā ca
rūpā na āpāthaṃ āgacchanti, no ca tajjo samannāhāro hoti, neva tāva tajjassa
viññāṇabhāgassa pātubhāvo hoti. Ajjhattikañceva [ajjhattikañce (sī. syā. pī.),
ajjhattikañcepi (?)], āvuso, cakkhuṃ aparibhinnaṃ hoti bāhirā ca rūpā āpāthaṃ
āgacchanti, no ca tajjo samannāhāro hoti, neva
tāva tajjassa viññāṇabhāgassa pātubhāvo hoti. Yato ca kho, āvuso,
ajjhattikañceva cakkhuṃ aparibhinnaṃ hoti, bāhirā ca rūpā āpāthaṃ āgacchanti,
tajjo ca samannāhāro hoti. Evaṃ tajjassa viññāṇabhāgassa pātubhāvo hoti. Yaṃ
tathābhūtassa rūpaṃ taṃ rūpupādānakkhandhe saṅgahaṃ gacchati, yā tathābhūtassa
vedanā sā vedanupādānakkhandhe saṅgahaṃ gacchati, yā tathābhūtassa saññā sā
saññupādānakkhandhe saṅgahaṃ gacchati, ye tathābhūtassa saṅkhārā te saṅkhārupādānakkhandhe
saṅgahaṃ gacchanti, yaṃ tathābhūtassa viññāṇaṃ taṃ viññāṇupādānakkhandhe saṅgahaṃ
gacchati. ''So evaṃ pajānāti : 'evañhi kira imesaṃ pañcannaṃ upādānakkhandhānaṃ
saṅgaho sannipāto samavāyo hoti. Vuttaṃ kho panetaṃ bhagavatā : 'yo paṭiccasamuppādaṃ
passati so dhammaṃ passati yo dhammaṃ
passati so paṭiccasamuppādaṃ passatīti. Paṭiccasamuppannā kho panime yadidaṃ
pañcupādānakkhandhā. Yo imesu pañcasu
upādānakkhandhesu chando ālayo anunayo ajjhosānaṃ so dukkhasamudayo. Yo
imesu pañcasu upādānakkhandhesu chandarāgavinayo chandarāgappahānaṃ, so
dukkhanirodhoti. Ettāvatāpi kho, āvuso, bhikkhuno bahukataṃ hoti.
''Ajjhattikañceva, āvuso, sotaṃ aparibhinnaṃ hoti - pe - ghānaṃ aparibhinnaṃ
hoti... jivhā aparibhinnā hoti... kāyo aparibhinno hoti... mano aparibhinno
hoti, bāhirā ca dhammā na āpāthaṃ āgacchanti
no ca tajjo samannāhāro hoti, neva tāva tajjassa viññāṇabhāgassa
pātubhāvo hoti. Ajjhattiko ceva, āvuso, mano aparibhinno hoti, bāhirā ca dhammā
āpāthaṃ āgacchanti, no ca tajjo samannāhāro hoti, neva tāva tajjassa viññāṇabhāgassa
pātubhāvo hoti. Yato ca kho, āvuso, ajjhattiko ceva mano aparibhinno hoti,
bāhirā ca dhammā āpāthaṃ āgacchanti, tajjo ca samannāhāro hoti, evaṃ tajjassa
viññāṇabhāgassa pātubhāvo hoti. Yaṃ tathābhūtassa rūpaṃ taṃ rūpupādānakkhandhe
saṅgahaṃ gacchati, yā tathābhūtassa vedanā sā vedanupādānakkhandhe saṅgahaṃ
gacchati, yā tathābhūtassa saññā sā
saññupādānakkhandhe saṅgahaṃ gacchati, ye tathābhūtassa saṅkhārā te saṅkhārupādānakkhandhe
saṅgahaṃ gacchanti, yaṃ tathābhūtassa viññāṇaṃ taṃ viññāṇupādānakkhandhe saṅgahaṃ
gacchati. So evaṃ pajānāti : 'evañhi kira imesaṃ pañcannaṃ upādānakkhandhānaṃ
saṅgaho sannipāto samavāyo hoti. Vuttaṃ kho panetaṃ bhagavatā : ''yo paṭiccasamuppādaṃ
passati so dhammaṃ passati yo dhammaṃ passati so paṭiccasamuppādaṃ passatīti.
Paṭiccasamuppannā kho panime yadidaṃ pañcupādānakkhandhā. Yo imesu pañcasu
upādānakkhandhesu chando ālayo anunayo ajjhosānaṃ so dukkhasamudayo. Yo imesu
pañcasu upādānakkhandhesu chandarāgavinayo chandarāgappahānaṃ so
dukkhanirodhoti. Ettāvatāpi kho, āvuso, bhikkhuno bahukataṃ hotīti.
Idamavoca āyasmā sāriputto.
Attamanā te bhikkhū āyasmato sāriputtassa bhāsitaṃ abhinandunti.
Mahāhatthipadopamasuttaṃ niṭṭhitaṃ aṭṭhamaṃ.
-ooOoo-
28.
Mahāhatthipadopamasuttavaṇṇanā
[Atthakathā]
300. Evaṃ me sutanti mahāhatthipadopamasuttaṃ. Tattha jaṅgalānanti
pathavītalacārīnaṃ. Pāṇānanti sapādakapāṇānaṃ. Padajātānīti padāni. Samodhānaṃ
gacchantīti odhānaṃ pakkhepaṃ gacchanti. Aggamakkhāyatīti seṭṭhaṃ akkhāyati.
Yadidaṃ mahantattenāti mahantabhāvena aggaṃ akkhāyati, na guṇavasenāti attho.
Ye keci kusalā dhammāti ye keci lokiyā vā lokuttarā vā kusalā dhammā. Saṅgahaṃ
gacchantīti ettha catubbidho saṅgaho – sajātisaṅgaho, sañjātisaṅgaho, kiriyasaṅgaho,
gaṇanasaṅgahoti. Tattha ‘‘sabbe khattiyā āgacchantu sabbe brāhmaṇā’’ti evaṃ
samānajātivasena saṅgaho sajātisaṅgaho nāma. ‘‘Sabbe kosalakā sabbe
māgadhakā’’ti evaṃ sañjātidesavasena saṅgaho sañjātisaṅgaho nāma. ‘‘Sabbe
rathikā sabbe dhanuggahā’’ti evaṃ kiriyavasena saṅgaho kiriyasaṅgaho nāma.
‘‘Cakkhāyatanaṃ katamakkhandhagaṇanaṃ gacchatīti? Cakkhāyatanaṃ rūpakkhandhagaṇanaṃ
gacchati. Hañci cakkhāyatanaṃ rūpakkhandhagaṇanaṃ gacchati, tena vata re
vattabbe cakkhāyatanaṃ rūpakkhandhena saṅgahita’’nti (kathā. 471), ayaṃ gaṇanasaṅgaho
nāma. Imasmimpi ṭhāne ayameva adhippeto.
Nanu ca ‘‘catunnaṃ ariyasaccānaṃ kati kusalā kati akusalā kati
abyākatāti pañhassa vissajjane samudayasaccaṃ akusalaṃ, maggasaccaṃ kusalaṃ,
nirodhasaccaṃ abyākataṃ, dukkhasaccaṃ siyā kusalaṃ, siyā akusalaṃ, siyā
abyākata’’nti (vibha. 216-217) āgatattā catubhūmakampi kusalaṃ diyaḍḍhameva
saccaṃ bhajati. Atha kasmā mahāthero catūsu ariyasaccesu gaṇanaṃ gacchatīti
āhāti? Saccānaṃ antogadhattā. Yathā hi ‘‘sādhikamidaṃ, bhikkhave, diyaḍḍhasikkhāpadasataṃ
anvaddhamāsaṃ uddesaṃ āgacchati, yattha attakāmā kulaputtā sikkhanti. Tisso
imā, bhikkhave, sikkhā adhisīlasikkhā adhicittasikkhā adhipaññāsikkhā’’ti (a.
ni. 3.88) ettha sādhikamidaṃ diyaḍḍhasikkhāpadasataṃ ekā adhisīlasikkhāva hoti,
taṃ sikkhantopi tisso sikkhā sikkhatīti dassito, sikkhānaṃ antogadhattā. Yathā
ca ekassa hatthipadassa catūsu koṭṭhāsesu ekasmiṃ koṭṭhāse otiṇṇānipi dvīsu
tīsu catūsu koṭṭhāsesu otiṇṇānipi siṅgālasasamigādīnaṃ pādāni hatthipade
samodhānaṃ gatāneva honti. Hatthipadato amuccitvā tasseva antogadhattā. Evameva
ekasmimpi dvīsupi tīsupi catūsupi saccesu gaṇanaṃ gatā dhammā catūsu saccesu gaṇanaṃ
gatāva honti; saccānaṃ antogadhattāti diyaḍḍhasaccagaṇanaṃ gatepi kusaladhamme
‘‘sabbe te catūsu ariyasaccesu saṅgahaṃ gacchantī’’ti āha. ‘‘Dukkhe
ariyasacce’’tiādīsu uddesapadesu ceva jātipi dukkhātiādīsu niddesapadesu ca yaṃ
vattabbaṃ, taṃ visuddhimagge vuttameva. Kevalaṃ panettha desanānukkamova
veditabbo.
301. Yathā hi cheko vilīvakāro sujātaṃ veḷuṃ labhitvā catudhā chetvā
tato tayo koṭṭhāse ṭhapetvā ekaṃ gaṇhitvā pañcadhā bhindeyya, tatopi cattāro ṭhapetvā
ekaṃ gaṇhitvā phālento pañca pesiyo kareyya, tato catasso ṭhapetvā ekaṃ gaṇhitvā
kucchibhāgaṃ piṭṭhibhāganti dvidhā phāletvā piṭṭhibhāgaṃ ṭhapetvā kucchibhāgaṃ
ādāya tato samuggabījanitālavaṇṭādinānappakāraṃ veḷuvikatiṃ kareyya, so piṭṭhibhāgañca
itarā ca catasso pesiyo itare ca cattāro koṭṭhāse itare ca tayo koṭṭhāse
kammāya na upanessatīti na vattabbo. Ekappahārena pana upanetuṃ na sakkā,
anupubbena upanessati. Evameva ayaṃ mahātheropi vilīvakāro sujātaṃ veḷuṃ
labhitvā cattāro koṭṭhāse viya, imaṃ mahantaṃ suttantaṃ ārabhitvā
catuariyasaccavasena mātikaṃ ṭhapesi. Vilīvakārassa tayo koṭṭhāse ṭhapetvā ekaṃ
gahetvā tassa pañcadhā karaṇaṃ viya therassa tīṇi ariyasaccāni ṭhapetvā ekaṃ
dukkhasaccaṃ gahetvā bhājentassa khandhavasena pañcadhā karaṇaṃ. Tato yathā so
vilīvakāro cattāro koṭṭhāse ṭhapetvā ekaṃ bhāgaṃ gahetvā pañcadhā phālesi, evaṃ
thero cattāro arūpakkhandhe ṭhapetvā rūpakkhandhaṃ vibhajanto cattāri ca
mahābhūtāni catunnañca mahābhūtānaṃ upādāya rūpanti pañcadhā akāsi. Tato yathā
so vilīvakāro catasso pesiyo ṭhapetvā ekaṃ gahetvā kucchibhāgaṃ piṭṭhibhāganti
dvidhā phālesi, evaṃ thero upādāya rūpañca tisso ca dhātuyo ṭhapetvā ekaṃ
pathavīdhātuṃ vibhajanto ajjhattikabāhiravasena dvidhā dassesi. Yathā so
vilīvakāro piṭṭhibhāgaṃ ṭhapetvā kucchibhāgaṃ ādāya nānappakāraṃ vilīvavikatiṃ
akāsi, evaṃ thero bāhiraṃ pathavīdhātuṃ ṭhapetvā ajjhattikaṃ pathavīdhātuṃ vīsatiyā
ākārehi vibhajitvā dassetuṃ katamā cāvuso, ajjhattikā pathavīdhātūtiādimāha.
Yathā pana vilīvakāro piṭṭhibhāgañca itarā ca cattasso pesiyo itare ca
cattāro koṭṭhāse itare ca tayo koṭṭhāse anupubbena kammāya upanessati, na hi
sakkā ekappahārena upanetuṃ, evaṃ theropi bāhirañca pathavīdhātuṃ itarā ca
tisso dhātuyo upādārūpañca itare ca cattāro arūpino khandhe itarāni ca tīṇi
ariyasaccāni anupubbena vibhajitvā dassessati, na hi sakkā ekappahārena dassetuṃ.
Apica rājaputtūpamāyapi ayaṃ kamo vibhāvetabbo –
Eko kira mahārājā, tassa parosahassaṃ puttā. So tesaṃ piḷandhanaparikkhāraṃ
catūsu peḷāsu ṭhapetvā jeṭṭhaputtassa appesi – ‘‘idaṃ te, tāta, bhātikānaṃ piḷandhanabhaṇḍaṃ
tathārūpe chaṇe sampatte piḷandhanaṃ no dehīti yācantānaṃ dadeyyāsī’’ti. So
‘‘sādhu devā’’ti sāragabbhe paṭisāmesi, tathārūpe chaṇadivase rājaputtā rañño
santikaṃ gantvā ‘‘piḷandhanaṃ no, tāta, detha, nakkhattaṃ kīḷissāmā’’ti āhaṃsu.
Tātā, jeṭṭhabhātikassa vo hatthe mayā piḷandhanaṃ ṭhapitaṃ, taṃ āharāpetvā piḷandhathāti.
Te sādhūti paṭissuṇitvā tassa santikaṃ gantvā, ‘‘tumhākaṃ kira no hatthe piḷandhanabhaṇḍaṃ,
taṃ dethā’’ti āhaṃsu. So evaṃ karissāmīti gabbhaṃ vivaritvā, catasso peḷāyo
nīharitvā tisso ṭhapetvā ekaṃ vivaritvā, tato pañca samugge nīharitvā cattāro ṭhapetvā
ekaṃ vivaritvā, tato pañcasu karaṇḍesu nīharitesu cattāro ṭhapetvā ekaṃ
vivaritvā pidhānaṃ passe ṭhapetvā tato hatthūpagapādūpagādīni nānappakārāni piḷandhanāni
nīharitvā adāsi. So kiñcāpi itarehi catūhi karaṇḍehi itarehi catūhi samuggehi
itarāhi tīhi peḷāhi na tāva bhājetvā deti, anupubbena pana dassati, na hi sakkā
ekappahārena dātuṃ.
Tattha mahārājā viya bhagavā daṭṭhabbo. Vuttampi cetaṃ – ‘‘rājāhamasmi
selāti bhagavā, dhammarājā anuttaro’’ti (su. ni. 559). Jeṭṭhaputto viya
sāriputtatthero, vuttampi cetaṃ – ‘‘yaṃ kho taṃ, bhikkhave, sammā vadamāno
vadeyya, ‘bhagavato putto oraso mukhato jāto dhammajo dhammanimmito
dhammadāyādo, no āmisadāyādo’ti sāriputtameva taṃ sammā vadamāno vadeyya,
bhagavato putto…pe… no āmisadāyādo’’ti (ma. ni. 3.97). Parosahassarājaputtā
viya bhikkhusaṅgho daṭṭhabbo. Vuttampi cetaṃ –
‘‘Parosahassaṃ bhikkhūnaṃ, sugataṃ payirupāsati;
Desentaṃ virajaṃ dhammaṃ, nibbānaṃ akutobhaya’’nti. (saṃ. ni. 1.216);
Rañño tesaṃ puttānaṃ piḷandhanaṃ catūsu peḷāsu pakkhipitvā jeṭṭhaputtassa
hatthe ṭhapitakālo viya bhagavato dhammasenāpatissa hatthe catusaccappakāsanāya
ṭhapitakālo, tenevāha – ‘‘sāriputto, bhikkhave, pahoti cattāri ariyasaccāni
vitthārena ācikkhituṃ desetuṃ paññāpetuṃ paṭṭhapetuṃ vivarituṃ vibhajituṃ
uttānīkātu’’nti (ma. ni. 3.371). Tathārūpe khaṇe tesaṃ rājaputtānaṃ taṃ rājānaṃ
upasaṅkamitvā piḷandhanaṃ yācanakālo viya bhikkhusaṅghassa vassūpanāyikasamaye
āgantvā dhammadesanāya yācitakālo. Upakaṭṭhāya kira vassūpanāyikāya idaṃ suttaṃ
desitaṃ. Rañño, ‘‘tātā, jeṭṭhabhātikassa vo hatthe mayā piḷandhanaṃ ṭhapitaṃ taṃ
āharāpetvā piḷandhathā’’ti vuttakālo viya sambuddhenāpi, ‘‘sevetha, bhikkhave,
sāriputtamoggallāne, bhajatha, bhikkhave, sāriputtamoggallāne. Paṇḍitā bhikkhū
anuggāhakā sabrahmacārīna’’nti evaṃ dhammasenāpatino santike bhikkhūnaṃ
pesitakālo.
Rājaputtehi rañño kathaṃ sutvā jeṭṭhabhātikassa santikaṃ gantvā piḷandhanaṃ
yācitakālo viya bhikkhūhi satthukathaṃ sutvā dhammasenāpatiṃ upasaṅkamma
dhammadesanaṃ āyācitakālo. Jeṭṭhabhātikassa gabbhaṃ vivaritvā catasso peḷāyo
nīharitvā ṭhapanaṃ viya dhammasenāpatissa imaṃ suttantaṃ ārabhitvā catunnaṃ
ariyasaccānaṃ vasena mātikāya ṭhapanaṃ. Tisso peḷāyo ṭhapetvā ekaṃ vivaritvā
tato pañcasamugganīharaṇaṃ viya tīṇi ariyasaccāni ṭhapetvā dukkhaṃ ariyasaccaṃ
vibhajantassa pañcakkhandhadassanaṃ. Cattāro samugge ṭhapetvā ekaṃ vivaritvā
tato pañcakaraṇḍanīharaṇaṃ viya cattāro arūpakkhandhe ṭhapetvā ekaṃ
rūpakkhandhaṃ vibhajantassa catumahābhūtaupādārūpavasena pañcakoṭṭhāsadassanaṃ.
302. Cattāro karaṇḍe ṭhapetvā ekaṃ vivaritvā pidhānaṃ passe ṭhapetvā
hatthūpagapādūpagādipiḷandhanadānaṃ viya tīṇi mahābhūtāni upādārūpañca ṭhapetvā
ekaṃ pathavīdhātuṃ vibhajantassa bāhiraṃ tāva pidhānaṃ viya ṭhapetvā
ajjhattikāya pathavīdhātuyā nānāsabhāvato vīsatiyā ākārehi dassanatthaṃ
‘‘katamā cāvuso ajjhattikā pathavīdhātū’’tiādivacanaṃ.
Tassa pana rājaputtassa tehi catūhi karaṇḍehi catūhi samuggehi tīhi ca
peḷāhi pacchā anupubbena nīharitvā piḷandhanadānaṃ viya therassāpi itaresañca
tiṇṇaṃ mahābhūtānaṃ upādārūpānañca catunnaṃ arūpakkhandhānañca tiṇṇaṃ ariyasaccānañca
pacchā anupubbena bhājetvā dassanaṃ veditabbaṃ. Yaṃ panetaṃ ‘‘katamā cāvuso,
ajjhattikā pathavīdhātū’’tiādi vuttaṃ. Tattha ajjhattaṃ paccattanti ubhayampetaṃ
niyakādhivacanameva. Kakkhaḷanti thaddhaṃ. Kharigatanti pharusaṃ. Upādinnanti
na kammasamuṭṭhānameva, avisesena pana sarīraṭṭhakassetaṃ gahaṇaṃ. Sarīraṭṭhakañhi
upādinnaṃ vā hotu, anupādinnaṃ vā, ādinnagahitaparāmaṭṭhavasena sabbaṃ
upādinnameva nāma. Seyyathidaṃ – kesā lomā…pe… udariyaṃ karīsanti idaṃ
dhātukammaṭṭhānikassa kulaputtassa ajjhattikapathavīdhātuvasena tāva kammaṭṭhānaṃ
vibhattaṃ. Ettha pana manasikāraṃ ārabhitvā vipassanaṃ vaḍḍhetvā arahattaṃ
gahetukāmena yaṃ kātabbaṃ, taṃ sabbaṃ visuddhimagge vitthāritameva. Matthaluṅgaṃ
pana na idha pāḷiāruḷhaṃ. Tampi āharitvā, visuddhimagge vuttanayeneva vaṇṇasaṇṭhānādivasena
vavatthapetvā, ‘‘ayampi acetanā abyākatā suññā thaddhā pathavīdhātu evā’’ti
manasi kātabbaṃ. Yaṃ vā panaññampīti idaṃ itaresu tīsu koṭṭhāsesu anugatāya
pathavīdhātuyā gahaṇatthaṃ vuttaṃ. Yā ceva kho pana ajjhattikā pathavīdhātūti
yā ca ayaṃ vuttappakārā ajjhattikā pathavīdhātu. Yā ca bāhirāti yā ca vibhaṅge,
‘‘ayo lohaṃ tipu sīsa’’ntiādinā (vibha. 173) nayena āgatā bāhirā pathavīdhātu.
Ettāvatā therena ajjhattikā pathavīdhātu nānāsabhāvato vīsatiyā ākārehi
vitthārena dassitā, bāhirā saṅkhepena. Kasmā? Yasmiñhi ṭhāne sattānaṃ ālayo
nikanti patthanā pariyuṭṭhānaṃ gahaṇaṃ parāmāso balavā hoti, tattha tesaṃ
ālayādīnaṃ uddharaṇatthaṃ buddhā vā buddhasāvakā vā vitthārakathaṃ kathenti.
Yattha pana na balavā, tattha kattabbakiccābhāvato saṅkhepena kathenti. Yathā
hi kassako khettaṃ kasamāno yattha mūlasantānakānaṃ balavatāya naṅgalaṃ
laggati, tattha goṇe ṭhapetvā paṃsuṃ viyūhitvā mūlasantānakāni chetvā chetvā
uddharanto bahuṃ vāyāmaṃ karoti. Yattha tāni natthi, tattha balavaṃ payogaṃ
katvā goṇe piṭṭhiyaṃ paharamāno kasatiyeva, evaṃsampadamidaṃ veditabbaṃ.
Pathavīdhāturevesāti duvidhāpesā thaddhaṭṭhena kakkhaḷaṭṭhena pharusaṭṭhena
ekalakkhaṇā pathavīdhātuyeva, āvusoti ajjhattikaṃ bāhirāya saddhiṃ yojetvā
dasseti. Yasmā bāhirāya pathavīdhātuyā acetanābhāvo pākaṭo, na ajjhattikāya,
tasmā sā bāhirāya saddhiṃ ekasadisā acetanāyevāti gaṇhantassa sukhapariggaho
hoti. Yathā kiṃ? Yathā dantena goṇena saddhiṃ yojito adanto katipāhameva
visūkāyati vipphandati, atha na cirasseva damathaṃ upeti. Evaṃ ajjhattikāpi
bāhirāya saddhiṃ ekasadisāti gaṇhantassa katipāhameva acetanābhāvo na upaṭṭhāti,
atha na cirenevassā acetanābhāvo pākaṭo hoti. Taṃ netaṃ mamāti taṃ ubhayampi na
etaṃ mama, na esohamasmi, na eso me attāti evaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya daṭṭhabbaṃ.
Yathābhūtanti yathāsabhāvaṃ, tañhi aniccādisabhāvaṃ, tasmā aniccaṃ
dukkhamanattāti evaṃ daṭṭhabbanti attho.
Hoti kho so, āvusoti kasmā ārabhi? Bāhiraāpodhātuvasena bāhirāya
pathavīdhātuyā vināsaṃ dassetvā tato visesatarena upādinnāya sarīraṭṭhakapathavīdhātuyā
vināsadassanatthaṃ. Pakuppatīti āposaṃvaṭṭavasena vaḍḍhamānā kuppati.
Antarahitā tasmiṃ samaye bāhirā pathavīdhātu hotīti tasmiṃ samaye koṭisatasahassacakkavāḷe
khārodakena vilīyamānā udakānugatā hutvā sabbā pabbatādivasena saṇṭhitā
pathavīdhātu antarahitā hoti. Vilīyitvā udakameva hoti. Tāva mahallikāyāti tāva
mahantāya.
Duve satasahassāni, cattāri nahutāni ca;
Ettakaṃ bahalattena, saṅkhātāyaṃ vasundharāti. –
Evaṃ bahalatteneva mahantāya, vitthārato pana koṭisatasahassacakkavāḷappamāṇāya.
Aniccatāti hutvā abhāvatā. Khayadhammatāti khayaṃ gamanasabhāvatā.
Vayadhammatāti vayaṃ gamanasabhāvatā. Vipariṇāmadhammatāti
pakativijahanasabhāvatā, iti sabbehipi imehi padehi aniccalakkhaṇameva vuttaṃ.
Yaṃ pana aniccaṃ, taṃ dukkhaṃ. Yaṃ dukkhaṃ, taṃ anattāti tīṇipi lakkhaṇāni
āgatāneva honti. Mattaṭṭhakassāti parittaṭṭhitikassa, tattha dvīhākārehi imassa
kāyassa parittaṭṭhititā veditabbā ṭhitiparittatāya ca sarasaparittatāya ca.
Ayañhi atīte cittakkhaṇe jīvittha, na jīvati, na jīvissati. Anāgate cittakkhaṇe
jīvissati, na jīvati, na jīvittha. Paccuppanne cittakkhaṇe jīvati, na jīvittha,
na jīvissatīti vuccati.
‘‘Jīvitaṃ attabhāvo ca, sukhadukkhā ca kevalā;
Ekacittasamāyuttā, lahu so vattate khaṇo’’ti. –
Idaṃ etasseva parittaṭṭhitidassanatthaṃ vuttaṃ. Evaṃ ṭhitiparittatāya
parittaṭṭhititā veditabbā.
Assāsapassāsūpanibaddhādibhāvena panassa sarasaparittatā veditabbā.
Sattānañhi assāsūpanibaddhaṃ jīvitaṃ, passāsūpanibaddhaṃ jīvitaṃ,
assāsapassāsūpanibaddhaṃ jīvitaṃ, mahābhūtūpanibaddhaṃ jīvitaṃ, kabaḷīkārāhārūpanibaddhaṃ
jīvitaṃ, viññāṇūpanibaddhaṃ jīvitanti visuddhimagge vitthāritaṃ.
Taṇhupādinnassāti taṇhāya ādinnagahitaparāmaṭṭhassa ahanti vā mamanti vā
asmīti vā. Atha khvāssa notevettha hotīti atha kho assa bhikkhuno evaṃ tīṇi
lakkhaṇāni āropetvā passantassa ettha ajjhattikāya pathavīdhātuyā ahanti
vātiādi tividho taṇhāmānadiṭṭhiggāho noteva hoti, na hotiyevāti attho. Yathā ca
āpodhātuvasena, evaṃ tejodhātuvāyodhātuvasenapi bāhirāya pathavīdhātuyā
antaradhānaṃ hoti. Idha pana ekaṃyeva āgataṃ. Itarānipi atthato veditabbāni.
Tañce, āvusoti idha tassa dhātukammaṭṭhānikassa bhikkhuno sotadvāre
pariggahaṃ paṭṭhapento balaṃ dasseti. Akkosantīti dasahi akkosavatthūhi
akkosanti. Paribhāsantīti tayā idañcidañca kataṃ, evañca evañca taṃ karissāmāti
vācāya paribhāsanti. Rosentīti ghaṭṭenti. Vihesentīti dukkhāpenti, sabbaṃ
vācāya ghaṭṭanameva vuttaṃ. So evanti so dhātukammaṭṭhāniko evaṃ sampajānāti.
Uppannā kho me ayanti sampativattamānuppannabhāvena ca samudācāruppannabhāvena
ca uppannā. Sotasamphassajāti upanissayavasena sotasamphassato jātā
sotadvārajavanavedanā, phasso aniccoti sotasamphasso hutvā abhāvaṭṭhena
aniccoti passati. Vedanādayopi sotasamphassasampayuttāva veditabbā. Dhātārammaṇamevāti
dhātusaṅkhātameva ārammaṇaṃ. Pakkhandatīti otarati. Pasīdatīti tasmiṃ ārammaṇe
pasīdati, bhummavacanameva vā etaṃ. Byañjanasandhivasena ‘‘dhātārammaṇamevā’’ti
vuttaṃ, dhātārammaṇeyevāti ayamettha attho. Adhimuccatīti dhātuvasena evanti
adhimokkhaṃ labhati, na rajjati, na dussati. Ayañhi sotadvāramhi ārammaṇe
āpāthagate mūlapariññāāgantukatāvakālikavasena pariggahaṃ karoti, tassa
vitthārakathā satipaṭṭhāne satisampajaññapabbe vuttā. Sā pana tattha
cakkhudvāravasena vuttā, idha sotadvāravasena veditabbā.
Evaṃ katapariggahassa hi dhātukammaṭṭhānikassa balavavipassakassa sacepi
cakkhudvārādīsu ārammaṇe āpāthagate ayoniso āvajjanaṃ uppajjati, voṭṭhabbanaṃ
patvā ekaṃ dve vāre āsevanaṃ labhitvā cittaṃ bhavaṅgameva otarati, na
rāgādivasena uppajjati, ayaṃ koṭippatto tikkhavipassako. Aparassa rāgādivasena
ekaṃ vāraṃ javanaṃ javati, javanapariyosāne pana rāgādivasena evaṃ me javanaṃ
javitanti āvajjato ārammaṇaṃ pariggahitameva hoti, puna vāraṃ tathā na javati.
Aparassa ekavāraṃ evaṃ āvajjato puna dutiyavāraṃ rāgādivasena javanaṃ
javatiyeva, dutiyavārāvasāne pana evaṃ me javanaṃ javitanti āvajjato ārammaṇaṃ
pariggahitameva hoti, tatiyavāre tathā na uppajjati. Ettha pana paṭhamo
atitikkho, tatiyo atimando, dutiyassa pana vasena imasmiṃ sutte, laṭukikopame,
indriyabhāvane ca ayamattho veditabbo.
Evaṃ sotadvāre pariggahitavasena dhātukammaṭṭhānikassa balaṃ dassetvā
idāni kāyadvāre dīpento tañce, āvusotiādimāha. Aniṭṭhārammaṇañhi patvā dvīsu
vāresu kilamati sotadvāre ca kāyadvāre ca. Tasmā yathā nāma khettassāmī puriso
kudālaṃ gahetvā khettaṃ anusañcaranto yattha vā tattha vā mattikapiṇḍaṃ adatvā
dubbalaṭṭhānesuyeva kudālena bhūmiṃ bhinditvā satiṇamattikapiṇḍaṃ deti. Evameva
mahāthero anāgate sikkhākāmā padhānakammikā kulaputtā imesu dvāresu saṃvaraṃ paṭṭhapetvā
khippameva jātijarāmaraṇassa antaṃ karissantīti imesuyeva dvīsu dvāresu gāḷhaṃ
katvā saṃvaraṃ desento imaṃ desanaṃ ārabhi.
Tattha samudācarantīti upakkamanti. Pāṇisamphassenāti pāṇippahārena,
itaresupi eseva nayo. Tathābhūtoti tathāsabhāvo. Yathābhūtasminti yathāsabhāve.
Kamantīti pavattanti. Evaṃ buddhaṃ anussaratotiādīsu itipi so bhagavātiādinā
nayena anussarantopi buddhaṃ anussarati, vuttaṃ kho panetaṃ bhagavatāti
anussarantopi anussaratiyeva. Svākkhāto bhagavatā dhammotiādinā nayena
anussarantopi dhammaṃ anussarati, kakacūpamovādaṃ anussarantopi anussaratiyeva.
Suppaṭipannotiādinā nayena anussarantopi saṅghaṃ anussarati, kakacokantanaṃ
adhivāsayamānassa bhikkhuno guṇaṃ anussaramānopi anussaratiyeva.
Upekkhā kusalanissitā na saṇṭhātīti idha vipassanupekkhā adhippetā.
Upekkhā kusalanissitā saṇṭhātīti idha chaḷaṅgupekkhā, sā panesā kiñcāpi khīṇāsavassa
iṭṭhāniṭṭhesu ārammaṇesu arajjanādivasena pavattati, ayaṃ pana bhikkhu
vīriyabalena bhāvanāsiddhiyā attano vipassanaṃ khīṇāsavassa chaḷaṅgupekkhāṭhāne
ṭhapetīti vipassanāva chaḷaṅgupekkhā nāma jātā.
303. Āpodhātuniddese āpogatanti sabbaāpesu gataṃ allayūsabhāvalakkhaṇaṃ.
Pittaṃ semhantiādīsu pana yaṃ vattabbaṃ, taṃ sabbaṃ saddhiṃ bhāvanānayena
visuddhimagge vuttaṃ. Pakuppatīti oghavasena vaḍḍhati, samuddato vā udakaṃ
uttarati, ayamassa pākatiko pakopo, āposaṃvaṭṭakāle pana koṭisatasahassacakkavāḷaṃ
udakapūrameva hoti. Ogacchantīti heṭṭhā gacchanti, uddhane āropitaudakaṃ viya
khayaṃ vināsaṃ pāpuṇanti. Sesaṃ purimanayeneva veditabbaṃ.
304. Tejodhātuniddese tejogatanti sabbatejesu gataṃ uṇhattalakkhaṇaṃ.
Tejo eva vā tejobhāvaṃ gatanti tejogataṃ. Purime āpogatepi pacchime vāyogatepi
eseva nayo. Yena cāti yena tejogatena. Tasmiṃ kuppite ayaṃ kāyo santappati,
ekāhikajarādibhāvena usumajāto hoti. Yena ca jīrīyatīti yena ayaṃ kāyo jīrati,
indriyavekallattaṃ balaparikkhayaṃ valipalitādibhāvañca pāpuṇāti. Yena ca pariḍayhatīti
yena kuppitena ayaṃ kāyo dayhati, so ca puggalo dayhāmi dayhāmīti kandanto
satadhotasappigosītacandanādilepañca tālavaṇṭavātañca paccāsīsati. Yena ca
asitapītakhāyitasāyitaṃ sammā pariṇāmaṃ gacchatīti yena taṃ asitaṃ vā odanādi,
pītaṃ vā pānakādi, khāyitaṃ vā piṭṭhakhajjakādi, sāyitaṃ vā ambapakkamadhuphāṇitādi
sammā paripākaṃ gacchati, rasādibhāvena vivekaṃ gacchatīti attho. Ayamettha saṅkhepo.
Vitthārato pana yaṃ vattabbaṃ siyā, taṃ sabbaṃ saddhiṃ bhāvanānayena
visuddhimagge vuttaṃ.
Haritantanti haritameva. Allatiṇādiṃ āgamma nibbāyatīti attho.
Panthantanti mahāmaggameva. Selantanti pabbataṃ. Udakantanti udakaṃ. Ramaṇīyaṃ
vā bhūmibhāganti tiṇagumbādirahitaṃ, vivittaṃ abbhokāsaṃ bhūmibhāgaṃ. Anāhārāti
nirāhārā nirupādānā, ayampi pakatiyāva tejovikāro vutto, tejosaṃvaṭṭakāle pana
koṭisatasahassacakkavāḷaṃ jhāpetvā chārikāmattampi na tiṭṭhati.
Nhārudaddulenāti cammanillekhanena. Aggiṃ gavesantīti evarūpaṃ sukhumaṃ upādānaṃ
gahetvā aggiṃ pariyesanti, yaṃ appamattakampi usumaṃ labhitvā pajjalati, sesamidhāpi
purimanayeneva veditabbaṃ.
305. Vāyodhātuniddese uddhaṅgamā vātāti uggārahikkārādipavattakā uddhaṃ
ārohanavātā. Adhogamā vātāti uccārapassāvādinīharaṇakā adho orohanavātā.
Kucchisayā vātāti antānaṃ bahivātā. Koṭṭhāsayā vātāti antānaṃ antovātā. Aṅgamaṅgānusārinoti
dhamanījālānusārena sakalasarīre aṅgamaṅgāni anusaṭā samiñjanapasāraṇādinibbattakavātā.
Assāsoti antopavisananāsikavāto. Passāsoti bahinikkhamananāsikavāto. Ayamettha
saṅkhepo. Vitthārato pana yaṃ vattabbaṃ siyā, taṃ sabbaṃ saddhiṃ bhāvanānayena
visuddhimagge vuttaṃ.
Gāmampi vahatīti sakalagāmampi cuṇṇavicuṇṇaṃ kurumānā ādāya gacchati,
nigamādīsupi eseva nayo. Idha vāyosaṃvaṭṭakāle -koṭisatasahassacakkavāḷaviddhaṃsanavasena
-vāyodhātuvikāro dassito. Vidhūpanenāti aggibījanakena. Ossavaneti chadanagge,
tena hi udakaṃ savati, tasmā taṃ ‘‘ossavana’’nti vuccati. Sesamidhāpi
purimanayeneva yojetabbaṃ.
306. Seyyathāpi, āvusoti idha kiṃ dasseti? Heṭṭhā kathitānaṃ mahābhūtānaṃ
nissattabhāvaṃ. Kaṭṭhanti dabbasambhāraṃ. Vallinti ābandhanavalliṃ. Tiṇanti
chadanatiṇaṃ. Mattikanti anulepamattikaṃ. Ākāso parivāritoti etāni kaṭṭhādīni
anto ca bahi ca parivāretvā ākāso ṭhitoti attho. Agāraṃtveva saṅkhaṃ gacchatīti
agāranti paṇṇattimattaṃ hoti. Kaṭṭhādīsu pana visuṃ visuṃ rāsikatesu kaṭṭharāsivallirāsītveva
vuccati. Evameva khoti evameva aṭṭhiādīni anto ca bahi ca parivāretvā ṭhito
ākāso, tāneva aṭṭhiādīni paṭicca rūpaṃtveva saṅkhaṃ gacchati, sarīranti vohāraṃ
gacchati. Yathā kaṭṭhādīni paṭicca gehanti saṅkhaṃ gataṃ agāraṃ khattiyagehaṃ
brāhmaṇagehanti vuccati, evamidampi khattiyasarīraṃ brāhmaṇasarīranti vuccati,
na hettha koci satto vā jīvo vā vijjati.
Ajjhattikañceva, āvuso, cakkhūti idaṃ kasmā āraddhaṃ? Heṭṭhā upādārūpaṃ
cattāro ca arūpino khandhā tīṇi ca ariyasaccāni na kathitāni, idāni tāni
kathetuṃ ayaṃ desanā āraddhāti. Tattha cakkhuṃ aparibhinnanti cakkhupasāde
niruddhepi upahatepi pittasemhalohitehi palibuddhepi cakkhu cakkhuviññāṇassa
paccayo bhavituṃ na sakkoti, paribhinnameva hoti, cakkhuviññāṇassa pana paccayo
bhavituṃ samatthaṃ aparibhinnaṃ nāma. Bāhirā ca rūpāti bāhirā catusamuṭṭhānikarūpā.
Tajjo samannāhāroti taṃ cakkhuñca rūpe ca paṭicca bhavaṅgaṃ āvaṭṭetvā
uppajjanamanasikāro, bhavaṅgāvaṭṭanasamatthaṃ cakkhudvāre
kiriyamanodhātucittanti attho. Taṃ rūpānaṃ anāpāthagatattāpi aññāvihitassapi na
hoti, tajjassāti tadanurūpassa. Viññāṇabhāgassāti viññāṇakoṭṭhāsassa.
Yaṃ tathābhūtassātiādīsu dvāravasena cattāri saccāni dasseti. Tattha
tathābhūtassāti cakkhuviññāṇena sahabhūtassa, cakkhuviññāṇasamaṅginoti attho.
Rūpanti cakkhuviññāṇassa na rūpajanakattā cakkhuviññāṇakkhaṇe tisamuṭṭhānarūpaṃ,
tadanantaracittakkhaṇe catusamuṭṭhānampi labbhati. Saṅgahaṃ gacchatīti gaṇanaṃ
gacchati. Vedanādayo cakkhuviññāṇasampayuttāva. Viññāṇampi cakkhuviññāṇameva.
Ettha ca saṅkhārāti cetanāva vuttā. Saṅgahoti ekato saṅgaho. Sannipātoti
samāgamo. Samavāyoti rāsi. Yo paṭiccasamuppādaṃ passatīti yo paccaye passati.
So dhammaṃ passatīti so paṭiccasamuppannadhamme passati, chandotiādi sabbaṃ taṇhāvevacanameva,
taṇhā hi chandakaraṇavasena chando. Ālayakaraṇavasena ālayo. Anunayakaraṇavasena
anunayo. Ajjhogāhitvā gilitvā gahanavasena ajjhosānanti vuccati.
Chandarāgavinayo chandarāgappahānanti nibbānasseva vevacanaṃ, iti tīṇi saccāni
pāḷiyaṃ āgatāneva maggasaccaṃ āharitvā gahetabbaṃ, yā imesu tīsu ṭhānesu diṭṭhi
saṅkappo vācā kammanto ājīvo vāyāmo sati samādhi bhāvanāpaṭivedho, ayaṃ
maggoti. Bahukataṃ hotīti ettāvatāpi bahuṃ bhagavato sāsanaṃ kataṃ hoti,
ajjhattikañceva, āvuso, sotantiādivāresupi eseva nayo.
Manodvāre pana ajjhattiko mano nāma bhavaṅgacittaṃ. Taṃ niruddhampi
āvajjanacittassa paccayo bhavituṃ asamatthaṃ mandathāmagatameva pavattamānampi
paribhinnaṃ nāma hoti. Āvajjanassa pana paccayo bhavituṃ samatthaṃ aparibhinnaṃ
nāma. Bāhirā ca dhammāti dhammārammaṇaṃ. Neva tāva tajjassāti idaṃ bhavaṅgasamayeneva
kathitaṃ. Dutiyavāro paguṇajjhānapaccavekkhaṇena vā, paguṇakammaṭṭhānamanasikārena
vā, paguṇabuddhavacanasajjhāyakaraṇādinā vā, aññavihitakaṃ sandhāya vutto.
Imasmiṃ vāre rūpanti catusamuṭṭhānampi labbhati. Manoviññāṇañhi rūpaṃ samuṭṭhāpeti,
vedanādayo manoviññāṇasampayuttā, viññāṇaṃ manoviññāṇameva. Saṅkhārā panettha
phassacetanāvaseneva gahitā. Sesaṃ vuttanayeneva veditabbaṃ. Iti mahāthero heṭṭhā
ekadesameva sammasanto āgantvā imasmiṃ ṭhāne ṭhatvā heṭṭhā parihīnadesanaṃ
sabbaṃ taṃtaṃdvāravasena bhājetvā dassento yathānusandhināva suttantaṃ niṭṭhapesīti.
Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Mahāhatthipadopamasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
-ooOoo-
No comments:
Post a Comment