Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
24. Kinh Trạm Xe
(Rathavinīta Sutta)
Tên kinh lấy từ thí
dụ trong bài kinh như một hành trình từ thành phố nầy đến thành phố khác với
nhiều trạm xe để dừng nghỉ dọc đường. Mỗi trạm dừng là một điểm để hướng đến
nhưng chỉ là giai đoạn rồi phải tiếp tục chứ không thể là đích điểm sau cùng.
Những trạm xe nầy được dùng làm thí dụ cho bảy bước thanh tịnh hoá của đạo lộ
giải thoát.
Như
vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Rājagaha (Vương Xá) tại Veluvana (Trúc Lâm), Kalandakanivapa. Lúc ấy một số đông Tỷ-kheo người địa phương, sau khi an cư mùa mưa tại địa phương xong, liền đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo đang ngồi một bên:
-- Này các Tỷ-kheo, ai ở tại địa phương được các Tỷ-kheo đồng phạm hạnh cùng một địa phương tán thán như sau: "Tự mình thiểu dục và giảng về thiểu dục cho các Tỷ-kheo; tự mình tri túc và giảng về tri túc cho các Tỷ-kheo; tự mình độc cư và giảng về độc cư cho các Tỷ-kheo; tự mình không ô nhiễm và giảng về không ô nhiễm cho các Tỷ-kheo; tự mình tinh cần, tinh tấn và giảng về tinh cần, tinh tấn cho các Tỷ-kheo; tự mình thành tựu giới hạnh và giảng về thành tựu giới hạnh cho các Tỷ-kheo; tự mình thành tựu Thiền định và giảng về thành tựu Thiền định cho các Tỷ-kheo; tự mình thành tựu trí tuệ và nói về thành tựu trí tuệ cho các Tỷ-kheo; tự mình thành tựu giải thoát và nói về thành tựu giải thoát cho các Tỷ-kheo; tự mình thành tựu giải thoát tri kiến và nói về thành tựu giải thoát tri kiến cho các Tỷ-kheo; vị giáo giới, vị khai thị, vị trình bày, vị khích lệ, vị làm cho phấn khởi, vị làm cho các vị đồng phạm hạnh hoan hỷ?".
-- Bạch Thế Tôn, Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta là Tỷ-kheo địa phương được các Tỷ-kheo đồng phạm hạnh cùng một địa phương tán thán như sau: "Tự mình thiểu dục và nói về thiểu dục cho các Tỷ-kheo... (như trên)... vị làm cho các vị đồng phạm hạnh hoan hỷ."
Lúc bấy giờ, Tôn giả Sāriputta ngồi cách Thế Tôn không xa. Tôn giả Sāriputta suy nghĩ như sau: "Hạnh phúc thay Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta! Chơn hạnh phúc thay Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta! Tôn giả đã được các vị đồng phạm hạnh có trí tán thán từng điểm một trước mặt bậc Ðạo Sư, và được bậc Ðạo Sư chấp nhận; có thể chúng ta sẽ gặp Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta, tại một chỗ nào, trong một thời gian nào, có thể sẽ có một cuộc đàm luận với Tôn giả."
Thế Tôn trú tại Rājagaha (Vương Xá) lâu cho đến khi vừa ý, rồi khởi hành đi Sāvatthī; Ngài tuần tự đi và đến Sāvatthī. Ở đây, Thế Tôn trú ở Sāvatthī, tại Jetavana, vườn ông Anāthapiṇḍika. Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta được nghe: "Thế Tôn đã đến Sāvatthī, trú ở Sāvatthī, tại Jetavana, vườn ông Anāthapiṇḍika". Rồi Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta thâu dọn lại sàng tọa, cầm y bát, khởi hành đi Sāvatthī. Tôn giả tuần tự đi đến Sāvatthī, Jetavana, vườn ông Anāthapiṇḍika, đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Thế Tôn thuyết pháp cho Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta đang ngồi một bên, khích lệ, làm cho hoan hỷ. Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta, sau khi được Thế Tôn thuyết pháp, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài, từ tạ đi Andhavana để nghỉ trưa.
Rồi một Tỷ-kheo khác đến chỗ Tôn giả Sāriputta ở, sau khi đến, thưa với Tôn giả Sāriputta: "Hiền giả Sāriputta, Hiền giả luôn luôn tán dương Tỷ-kheo Puṇṇa Mantāṇiputta; vị này được Thế Tôn thuyết pháp, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài, từ tạ đi đến Andhavana để nghỉ trưa".
Rồi Tôn giả Sāriputta vội vã đem theo tọa cụ, đi theo sau lưng Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta, đầu hướng về trước mặt (để theo dõi). Rồi Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta đi sâu vào rừng Andhavana, và ngồi nghỉ trưa dưới một gốc cây. Tôn giả Sāriputta, sau khi đi sâu vào rừng Andhavana, ngồi nghỉ trưa dưới một gốc cây.
126. Cuộc đối thoại bất phàm
Tôn giả Sāriputta là người đưa ra câu hỏi và Tôn giả Puṇṇo mantāṇiputta là người trả lời:
Rồi vào buổi chiều, Tôn giả Sāriputta
từ Thiền định độc cư đứng dậy, đến tại chỗ Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta,
sau khi đến nói lên với Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta những lời chào
đón, hỏi thăm, xã giao rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên,
Tôn giả Sāriputta thưa với Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta: Hiền giả, có
phải chúng ta sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn?
-- Thật như vậy, Hiền giả.
-- Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích giới thanh tịnh?
-- Không phải vậy, Hiền giả.
-- Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích tâm thanh tịnh?
-- Không phải vậy, Hiền giả.
-- Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là mục đích kiến thanh tịnh?
-- Không phải vậy, Hiền giả.
-- Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích đoạn nghi thanh tịnh?
-- Không phải vậy, Hiền giả.
-- Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích đoạn nghi thanh tịnh?
-- Không phải vậy, Hiền giả.
-- Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích đạo tri kiến thanh tịnh?
-- Không phải vậy, Hiền giả.
-- Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích đoạn nghi thanh tịnh?
-- Hiền giả, khi hỏi "có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích giới thanh tịnh?", Hiền giả trả lời "Không phải vậy". Khi hỏi ... tâm thanh tịnh? ... kiến thanh tịnh?... đoạn nghi thanh tịnh? ... đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh? ... đạo tri kiến thanh tịnh? ... Khi hỏi "có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích tri kiến thanh tịnh?", Hiền giả trả lời "Không phải vậy". Như vậy, Hiền giả, với mục đích gì, sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn?
-- Hiền giả, với mục đích vô thủ trước Bát-niết-bàn, nên sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn.
-- Hiền giả, có phải giới thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
-- Hiền giả, không phải vậy.
-- Hiền giả, có phải tâm thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
-- Hiền giả, không phải vậy.
-- Hiền giả, có phải kiến thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
-- Hiền giả, không phải vậy.
-- Hiền giả, có phải đoạn nghi thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
-- Hiền giả, không phải vậy.
-- Hiền giả, có phải đạo phi đạo tri
kiến thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
-- Hiền giả, không phải vậy.
-- Hiền giả, có phải đạo tri kiến thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
-- Hiền giả, không phải vậy.
-- Hiền giả, có phải tri kiến thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
-- Hiền giả, không phải vậy.
-- Hiền giả, có phải cái gì ngoài các pháp này là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
-- Hiền giả, không phải vậy.
-- Hiền giả, khi hỏi "có phải giới thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?", Hiền giả trả lời: "Không phải vậy. Khi hỏi "có phải tâm thanh tịnh ...? ... có phải kiến thanh tịnh ...? ... có phải đoạn nghi thanh tịnh ...? ... có phải đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh ...? ... có phải đạo tri kiến thanh tịnh là ...? ... có phải tri kiến thanh tịnh ...? ... có phải cái gì ngoài các pháp này là vô thủ trước Bát-niết-bàn?", Hiền giả trả lời: "Không phải vậy." Hiền giả, vậy ý nghĩa lời nói này cần phải được hiểu như thế nào?
-- Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố giới thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn thì Ngài cũng tuyên bố vô thủ trước Bát-niết-bàn là đồng đẳng với hữu thủ trước Bát-niết-bàn. Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố tâm thanh tịnh... Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố kiến thanh tịnh... Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố đoạn nghi thanh tịnh... Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh... Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố đạo tri kiến thanh tịnh... Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố tri kiến thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn thì Ngài cũng tuyên bố vô thủ trước Bát-niết-bàn là đồng đẳng với hữu thủ trước Bát-niết- bàn. Hiền giả, và nếu Thế Tôn tuyên bố cái gì ngoài các pháp ấy là vô thủ trước Bát-niết-bàn, thì kẻ phàm phu có thể Bát-niết-bàn, vì này Hiền giả, phàm phu là ngoài các pháp ấy.
Thất tịnh hay bảy
bước thanh tịnh là một trình bày rộng tam học giới, định, tuệ. Bảy pháp nầy
được quảng diễn với nhiều chi tiết tạo thành nội dung của bộ sách danh tiếng
Thanh Tịnh Đạo(Visuddhimagga) của Ngài Buddhaghosa sau nầy.
1. Giới thanh tịnh
Là sự thanh tịnh đối các học giới thọ trì. Đây là những nguyên tắc tạo thành luật nghi do Đức Phật chế định. Tứ thanh tịnh giới của một vị thọ đại giới được xem là cao nhất trong lãnh vực nầy.
2. Tâm thanh tịnh
Là sự thanh tịnh do xua tan năm triền cái bằng tam muội định. Năm triền cái khiến tâm không thể nhập vào thiền định được là dục tham, sân độc, hôn thuỵ, trạo hối, và nghi hoặc.
3. Kiến thanh tịnh
Sự sự thanh tịnh của cái nhìn đối với sự hiện hữu của chúng sanh. Chính là sự nhận rõ cái gọi là chúng sanh là tập hợp của các uẩn như sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn.
4. Đoạn nghi thanh tịnh
Là sự thanh tịnh do không còn nghi hoặc đối với nhân và duyên tạo nên pháp hữu vi. Nghi hoặc ở đây được nói trong phạm trù rộng lớn chứ không phải là thứ nghi hoặc do thói quen như trong năm triền cái.
5. Đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh
Là sự thanh tịnh do phân biệt và khẳng định rõ đường nào nên đi và đường nào không nên đi dựa trên kinh nghiệm thực chứng.
6. Đạo tri kiến thanh tịnh
Là sự thanh tịnh do nhận rõ từng công đoạn của hành trình tu chứng cũng được dịch là hành lộ tri kiến tịnh.
7. Tri kiến thanh tịnh
Là sự thanh tịnh cho thành tựu đạo quả. Đây là những “dứt điểm” đối với các phiền não kiết sử (trong trường hợp tâm đạo)
Cứu cánh là vô thủ trước Bát-niết-bàn
Là cảnh giới tối hậu nhưng không phải tạo nên do nhân do duyên như thí dụ con đường dẫn tới hòn núi nhưng không thể nói con đường tạo nên hòn núi. (Ý niệm nầy được thiền tông Trung Hoa, Nhật bản gọi là “vô môn quan - lối vào không có cửa hay con đường dẫn tới nhưng không tạo thành). Bát niết bàn – parinibbāna – là cảnh giới tối hậu không bị tạo cũng không tạo tác (không là năng hay sở) không còn gì đề nói thêm nữa.
127. Một thí dụ để đời
Mỗi trạm xe chỉ là điểm đến nhất thời và sẽ phải rời bỏ để tiếp tục hành trình:
Hiền giả, tôi sẽ cho Hiền giả một
ví dụ, ở đây, một số kẻ có trí, nhờ ví dụ để hiểu ý nghĩa của
lời nói. Hiền giả, như vua Pasenadi xứ Kosala trong khi ở tại Sāvatthī,
có công việc khẩn cấp khởi lên ở Sāketa, và bảy trạm xe được sắp
đặt cho vua giữa Sāvatthī và Sāketa. Hiền giả, rồi vua Pasenadi xứ
Kosala, từ cửa nội thành ra khỏi Sāvatthī, leo lên trạm xe thứ nhất,
và nhờ trạm thứ nhất đến được trạm xe thứ hai; từ bỏ trạm xe thứ
nhất, leo lên trạm xe thứ hai, nhờ trạm xe thứ hai đến được trạm xe
thứ ba; từ bỏ trạm xe thứ hai... đến được trạm xe thứ tư; từ bỏ
trạm xe thứ ba... đến được trạm xe thứ năm, từ bỏ trạm xe thứ tư,
leo lên trạm xe thứ năm, nhờ trạm xe thứ năm đến được trạm xe thứ
sáu; từ bỏ trạm thứ năm, leo lên trạm xe thứ sáu, nhờ trạm xe thứ
sáu, đến được trạm xe thứ bảy; từ bỏ trạm xe thứ sáu, leo lên
trạm xe thứ bảy, nhờ trạm xe thứ bảy đến được Sāketa, tại cửa nội
thành. Khi vua đến tại cửa nội thành, các bộ trưởng cận thần, các
thân thích cùng huyết thống hỏi như sau:"
-- Tôn giả tên là gì? Và các vị đồng phạm hạnh biết Tôn giả như thế nào?
-- Hiền giả, tên tôi là Puṇṇa và các vị đồng phạm hạnh biết tôi là Mantāṇiputta.
-- Tôn giả tên là gì, và các vị đồng phạm hạnh biết Tôn giả như thế nào?-- Hiền giả, tôi tên là Upatissa, và các vị đồng phạm hạnh biết tôi là Sāriputta.
-- Tôi đang luận bàn với bậc đệ tử
được xem là ngang hàng với bậc Ðạo Sư mà không được biết là Tôn
giả Sāriputta. Nếu chúng tôi được biết là Tôn giả Sāriputta, thì
chúng tôi đã không nói nhiều như vậy. Thật hy hữu thay, Hiền giả!
Thật kỳ diệu thay, Hiền giả! Những câu hỏi sâu kín đã được trả
lời từng điểm một, bởi một đệ tử nghe nhiều, đã biết rõ giáo lý
của bậc Ðạo Sư. Và vị đệ tử ấy là Tôn giả Sāriputta. Thật hạnh
phúc thay cho các vị đồng phạm hạnh! Thật chơn hạnh phúc thay cho
các vị đồng phạm hạnh... được thăm viếng, được thân cận Tôn giả
Sāriputta! Nếu các vị đồng phạm hạnh đội Tôn giả Sāriputta trên đầu
với một cuộn vải làm khăn để được thăm viếng, được thân cận,
thì thật hạnh phúc cho các vị ấy, thật chơn hạnh phúc cho các vị
ấy! Thật hạnh phúc cho chúng tôi, thật chơn hạnh phúc cho chúng tôi
được thăm viếng, được thân cận Tôn giả Sāriputta!
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ Kheo
Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 24 [tóm tắt]
Kinh Trạm Xe
(Rathavinīta Sutta)
(M.i, 145)
Kinh này là một cuộc đàm
luận về chánh pháp giữa Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta và Tôn giả
Sāriputta về mục đích của Phạm hạnh, do Tôn giả Sāriputta hỏi và
được Tôn giả Puṇṇa Mantāniputta trả lời.
Tôn giả Sāriputta lần lượt
hỏi mục đích của Phạm hạnh có phải là giới thanh tịnh, tâm thanh
tịnh, kiến thanh tịnh, đoạn nghi thanh tịnh, đạo phi đạo tri kiến thanh
tịnh, đạo tri kiến thanh tịnh, tri kiến thanh tịnh? Tôn giả Puṇṇa
Mantāṇiputta lần lượt trả lời là không.
Tôn giả Sāriputta hỏi, vậy
sống Phạm hạnh với mục đích gì? Puṇṇa trả lời với mục đích vô
thủ trước Niết-bàn, và vì giới thanh tịnh, tâm thanh tịnh, kiến
thanh tịnh, đoạn nghi thanh tịnh, đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh, đạo
tri kiến thanh tịnh, tri kiến thanh tịnh không phải là vô thủ trước
Niết-bàn. Cho đến cái gì ngoài các pháp trên cũng không phải là
vô thủ trước Niết-bàn. Nếu Như Lai tuyên bố giới thanh tịnh là vô
trước Niết-bàn thời Ngài tuyên bố vô trước Niết-bàn là đồng
đẳng với hữu thủ trước Niết- bàn. Đối với sáu pháp còn lại cũng
vậy. Còn nói cái gì ngoài các pháp này là vô thủ trước
Niết-bàn, như vậy phàm phu có thể chứng Niết-bàn vì kẻ phàm phu
là ngoài các pháp ấy.
Rồi Tôn giả Puṇṇa lấy ví
dụ: Vua Pasanadi muốn đi từ Sāvatthī đến Sāketa, có bảy trạm xe
được thiết lập giữa chặng đường ấy. Vua từ cửa thành Sāvatthī
bước lên trạm xe thứ nhất để đến trạm xe thứ hai. Bỏ trạm xe thứ
nhất, bước lên trạm xe thứ hai để đến trạm xe thứ ba; bỏ trạm xe
thứ hai, bước lên trạm xe thứ ba để đến trạm xe thứ tư; bỏ trạm xe
thứ ba, bước lên trạm xe thứ tư để đến trạm xe thứ năm; bỏ trạm xe
thứ tư, bước lên trạm xe thứ năm để đến trạm xe thứ sáu; bỏ trạm
xe thứ năm, bước lên trạm xe thứ sáu để đến trạm xe thứ bảy; bỏ
trạm xe thứ sáu, bước lên trạm xe thứ bảy để đến cửa thành
Sārieta. Cũng vậy giới thanh tịnh chỉ có mục đích đạt được tâm
thanh tịnh. Tâm thanh tịnh chỉ có mục đích đạt được kiến thanh
tịnh. Kiến thanh tịnh chỉ có mục đích đạt được đoạn nghi thanh
tịnh. Đoạn nghi thanh tịnh chỉ có mục đích đạt được đạo phi đạo tri
kiến thanh tịnh. Đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh chỉ có mục đích đạt
được đạo tri kiến thanh tịnh. Đạo tri kiến thanh tịnh chỉ có mục
đích đạt được tri kiến thanh tịnh. Tri kiến thanh tịnh chỉ có mục đích
đạt được Vô thủ trước Niết-bàn.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 24 [dàn ý]
Kinh Trạm Xe
(Rathavinīta Sutta)
(M.i, 145)
A.
Duyên khởi:
Tôn giả Sāriputta nghe các Tỷ-kheo và Thế Tôn tán
thán hạnh đức của Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta muốn đi đến yết kiến, khi nghe đồn
Tôn giả Puṇṇa đi đến Sāvatthī di vào rừng Andhavana. Tôn giả Xá-lợi-phất đi
theo vào và bắt đầu tọa đàm về chánh pháp.
B.
Chánh kinh:
I. Tôn giả Sāriputta
hỏi sống Phạm hạnh là vì mục đích giới thanh tịnh... vì mục đích tri kiến thanh
tịnh. Tôn giả trả lời là không phải vậy, mà chỉ vì mục đích Vô thủ trước Niết-bàn.
II. Tôn giả Sāriputta
hỏi có phải giới thanh tịnh... tri kiến thanh tịnh là Vô thủ trước Niết-bàn,
Tôn giả Puṇṇa trả lời không phải vậy, vì nếu là vậy thời vô thủ trước Niết-bàn
là đồng đẳng với hữu thủ trước Niết-bàn. Còn nếu xem cái gì ngoài các pháp này
là Vô thủ trước Niết-bàn, thời kẻ phàm phu có thể chứng được Niết-bàn.
III. Tôn giả Puṇṇa
dùng ví dụ trạm xe để nêu rõ ý nghĩa này. Vua Pasenadi muốn đi từ Sāvatthī đến
Sāketa, 7 trạm xe được sắp đặt cho vua dùng, vua đi từ trạm xe thứ 1 đến thứ 2,
tiếp tục cho đến trạm xe thứ 7 và từ đây đi đến Sāketa. Cũng vậy, giới thanh tịnh
chỉ có mục đích đạt cho được tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh chỉ có mục đích đạt
cho được kiến thanh tịnh, cho đến tri kiến thanh tịnh... với mục đích đạt cho
được Vô thủ trước Niết-bàn.
IV. Hai Tôn giả
hỏi tên nhau, và sau khi được biết tên, liền nói lời tán thán vị đã đối thoại với
mình.
C. Kết
luận:
Như vậy hai vị
cao đức cùng nhau thiện thuyết, cùng nhau tùy hỷ.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 24 [toát yếu]
Kinh Trạm Xe
(Rathavinīta Sutta)
(M.i, 145)
I.
TOÁT YẾU
Rathavivūta Sutta - the relay
chariots.
The venerable Punna Mantāniputta explains
to Sāriputta that the goal of the holy life, final Nibbāna, is to be reached
by way of the seven stages of purification.
Những cỗ xe tiếp vận.
Tôn giả Phú-lâu-na (PLN) giải thích
cho Xá-lợi-phất (XLP) biết rằng Niết bàn, mục tiêu của đời sống
phạm hạnh, được đạt đến là nhờ bảy giai đoạn thanh tịnh.
II.
TÓM TẮT
Xá-lợi-phất đến thăm Phú-lâu-na
lần đầu. Hai vị tôn giả đã nghe tiếng nhau nhưng chưa từng gặp.
XLP: Mục đích sống đời phạm hạnh,
có phải để viên mãn giới?
PLN: Không.
XLP: Có phải để đoạn nghi, để đạt
tri kiến, để phân biệt được chính tà, để thấy biết đường chính,
để có tri kiến.
PLN: Không.
XLP: Thế thì vì mục đích gì?
PLN: Vì đạt NB vô thủ trước.
XLP: Niết-bàn vô thủ trước là gì,
là giới thanh tịnh chăng?
PLN: Không, vì thế là còn thủ
trước giới. XLP: Là Tâm thanh tịnh chăng?
PLN: Không, vì thế là còn thủ
trước định. XLP: Là kiến thanh tịnh chăng?
PLN: Không, vì thế là còn thủ trước kiến.
XLP: Là đoạn nghi thanh tịnh chăng?
PLN: Không, vì thế là còn thủ trước đoạn nghi. XLP: Là đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh chăng?
Sau khi nghe giảng giải, tôn giả
Xá-lợi-phất hết lời khen ngợi và hỏi tính danh. Khi hỏi lại danh
tính người đối thoại, Phú lâu na mới ngạc nhiên thốt lên:
III.
CHÚ GIẢI
Nghe
tin Phú-lâu-na
Sau khi viếng thăm Phật
Đã vào rừng An-đa (Andhavana)
Thu
tử cũng vào rừng.
Chưa
từng biết mặt nhau
Cùng
độc cư thiền định
Dưới
cây trong rừng sâu.
Đến bên Phú-lâu-na
Chào
thăm rồi phỏng vấn
"Mục
đích gì xuất gia?"
Có
phải vì mục đích
Khiến Giới không tì vết
Được
thanh tịnh vẹn toàn?
"Không
phải đâu, hiền giả."
Đạt đến Tâm thanh tịnh
Trừ
chướng ngại, đắc định?
"Không
phải đâu, hiền giả."
Dứt
sạch những hoài nghi
Mà
sống đời phạm hạnh?
"Không
phải đâu, hiền giả."
Phân biệt được chính tà
- Đạo phi đạo tri kiến?
"Không
phải đâu, hiền giả."
Thanh
lọc những thấy biết
-
Đạo tri kiến thanh tịnh?
"Không
phải đâu, hiền giả."
Đạt tri kiến thanh tịnh
Các cảnh giới siêu thế?
"Không
phải đâu, hiền giả."
Đạt Cái thấy thanh tịnh
Thấy
vô ngã khổ không?
"Không
phải đâu, hiền giả."
Bạn
theo đức Thế Tôn?
"Hiền
giả, với mục đích
Vô
thủ trước Niết-bàn."
Là
vô trước Niết-bàn?
Không
phải đâu, hiền giả
Vì
còn chấp vào Giới.
Là
vô trước Niết-bàn?
Không
phải đâu, hiền giả
Vì
còn chấp vào Định.
Là
vô trước Niết-bàn?
Không
phải đâu, hiền giả
Vì
còn chấp vào Kiến.
Là
vô trước Niết-bàn?
Không
phải đâu, hiền giả
Vì
còn chấp Đoạn nghi.
Là vô trước Niết-bàn?
Không
phải đâu hiền giả
Vì
chấp đạo phi đạo.
Đạo
tri kiến thanh tịnh
Là
vô trước Niết-bàn?
Không
phải đâu hiền giả
Vì
còn chấp tri kiến.
Ngoài
các pháp ấy ra
Vô
thủ trước Niết-bàn
Có
thể đạt được chăng?
Phú-lâu-na
đáp liền
"Không
đâu, thưa hiền giả
Không
thể có Niết-bàn
Ngoài
các pháp kể trên."
"Vậy
do nhân duyên gì
Hiền
giả đều phủ nhận
Vô
thủ trước Niết-bàn
Không
phải mỗi pháp ấy?
Và
lại còn xác định
Ở ngoài các pháp ấy
Cũng
không thể có được
Vô
thủ trước Niết-bàn?"
Nếu
nói Giới thanh tịnh
Là
vô trước Niết-bàn
Tức
thì Niết-bàn ấy
Vì còn chấp vào Giới.
Với
các "thanh tịnh" khác
Đều
nên hiểu như vậy.
Ngoài
các pháp ấy ra
Có vô trước Niết-bàn
Thì
vô cùng phi lý
Cũng
sẽ được Niết-bàn
– Họ ở ngoài pháp ấy
tức hoàn toàn không tu –
Như vua đi đường dài
Phải
thay xe nhiều trạm
Ngồi
cỗ xe cuối cùng
Đến
nơi, khi được hỏi
Phải
chăng cỗ xe này
Đưa
vua suốt đường dài?
Vua
phải nói làm sao?
"Từ
trạm xe thứ nhất
Ta
lên xe khởi hành
Qua
tất cả bảy trạm
Mỗi
nơi đều đổi xe
Với
cỗ xe thứ bảy
Ta về đến cung thành."
Cũng
thế, thưa hiền giả
Giới
là để có Định
Định để đạt đến Kiến
[- Thấy vô thường vô ngã.]
[-
Hiểu rõ lý duyên sinh]
Đoạn
nghi là cốt được
Đạo
phi đạo tri kiến.
[- Phân biệt được tà chính]
Là
chỉ cốt đạt được
Đạo tri kiến thanh tịnh.
Đạo
tri kiến thanh tịnh
[-
lối thấy biết xuất thế]
Là
cốt đạt cho đến
Các cảnh giới siêu thế
Tức
tri kiến thanh tịnh.
Thấy
biết trong sáng này
Có
mục đích duy nhất:
Niết-bàn
vô thủ trước.
Khi
ấy Xá-lợi-phất
Hỏi
tên Phú lâu na
Thưa
hiền giả tên gì
Đồng
đạo gọi là chi?
"Tôi
tên Phú-lâu-na"
Đồng
phạm hạnh còn gọi
"Di-đa-la-ni
tử."
Còn hiền giả tên gì?
Các
vị đồng phạm hạnh
Còn
gọi tên "Thu tử"
Xá-lợi-phất
là tôi.
Với
tướng quân chính pháp
Ngang
hàng đấng Đạo sư
Lành
thay, thưa hiền giả.
Ngài
là Xá-lợi-phất
Chắc
không dám ba hoa
Múa
rìu qua mắt thợ."
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
24.
Rathavinītasuttaṃ [Mūla]
252. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ
samayaṃ Bhagavā rājagahe viharati veḷuvane kalandakanivāpe. Atha kho
sambahulā jātibhūmakā bhikkhū jātibhūmiyaṃ vassaṃvuṭṭhā yena Bhagavā
tenupasaṅkamiṃsu upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu.
Ekamantaṃ nisinne kho te bhikkhū Bhagavā etadavoca : ''ko nu kho,
bhikkhave, jātibhūmiyaṃ jātibhūmakānaṃ bhikkhūnaṃ sabrahmacārīnaṃ evaṃ
sambhāvito : 'attanā ca appiccho appicchakathañca bhikkhūnaṃ kattā, attanā ca
santuṭṭho santuṭṭhikathañca bhikkhūnaṃ kattā, attanā ca pavivitto
pavivekakathañca bhikkhūnaṃ kattā, attanā ca asaṃsaṭṭho asaṃsaggakathañca
bhikkhūnaṃ kattā, attanā ca āraddhavīriyo vīriyārambhakathañca bhikkhūnaṃ
kattā, attanā ca sīlasampanno sīlasampadākathañca bhikkhūnaṃ kattā, attanā ca
samādhisampanno samādhisampadākathañca bhikkhūnaṃ kattā, attanā ca
paññāsampanno paññāsampadākathañca bhikkhūnaṃ kattā, attanā ca vimuttisampanno
vimuttisampadākathañca bhikkhūnaṃ kattā, attanā ca vimuttiñāṇadassanasampanno
vimuttiñāṇadassanasampadākathañca bhikkhūnaṃ kattā, ovādako viññāpako
sandassako samādapako samuttejako
sampahaṃsako sabrahmacārīnanti? ''puṇṇo nāma, bhante, āyasmā mantāṇiputto jātibhūmiyaṃ jātibhūmakānaṃ bhikkhūnaṃ
sabrahmacārīnaṃ evaṃ sambhāvito : 'attanā ca appiccho appicchakathañca
bhikkhūnaṃ kattā, attanā ca santuṭṭho - pe - ovādako viññāpako sandassako
samādapako samuttejako sampahaṃsako sabrahmacārīnanti.
254. Atha kho Bhagavā
rājagahe yathābhirantaṃ viharitvā yena sāvatthi tena cārikaṃ pakkāmi.
Anupubbena cārikaṃ caramāno yena sāvatthi tadavasari. Tatra sudaṃ Bhagavā
sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa
ārāme. Assosi kho āyasmā puṇṇo mantāṇiputto : ''Bhagavā kira
sāvatthiṃ anuppatto sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāmeti.
Rathavinītasuttaṃ niṭṭhitaṃ catutthaṃ.
24.
Rathavinītasuttavaṇṇanā [Atthakathā]
252. Evaṃ me sutanti rathavinītasuttaṃ. Tattha rājagaheti evaṃnāmake
nagare, tañhi mandhātumahāgovindādīhi pariggahitattā rājagahanti vuccati.
Aññepettha pakāre vaṇṇayanti. Kiṃ tehi? Nāmametaṃ tassa nagarassa. Taṃ panetaṃ
buddhakāle ca cakkavattikāle ca nagaraṃ hoti, sesakāle suññaṃ hoti
yakkhapariggahitaṃ, tesaṃ vasantavanaṃ hutvā tiṭṭhati. Veḷuvane
kalandakanivāpeti veḷuvananti tassa uyyānassa nāmaṃ, taṃ kira veḷūhi
parikkhittaṃ ahosi aṭṭhārasahatthena ca pākārena, gopuraṭṭālakayuttaṃ nīlobhāsaṃ
manoramaṃ, tena veḷuvananti vuccati. Kalandakānañcettha nivāpaṃ adaṃsu, tena
kalandakanivāpoti vuccati.
Dhammagarubhāvavaṇṇanā
Vassaṃvuṭṭhāti temāsaṃ vassaṃvuṭṭhā pavāritapavāraṇā hutvā. Bhagavā
etadavocāti ‘‘kacci, bhikkhave, khamanīya’’ntiādīhi vacanehi āgantukapaṭisanthāraṃ
katvā etaṃ, ‘‘ko nu kho, bhikkhave’’tiādivacanamavoca. Te kira bhikkhu, –
‘‘kacci, bhikkhave, khamanīyaṃ kacci yāpanīyaṃ, kaccittha appakilamathena
addhānaṃ āgatā, na ca piṇḍakena kilamittha, kuto ca tumhe, bhikkhave,
āgacchathā’’ti paṭisanthāravasena pucchitā – ‘‘bhagavā sākiyajanapade
kapilavatthāhārato jātibhūmito āgacchāmā’’ti āhaṃsu. Atha bhagavā neva
suddhodanamahārājassa, na sakkodanassa, na sukkodanassa, na dhotodanassa, na
amitodanassa, na amittāya deviyā, na mahāpajāpatiyā, na sakalassa sākiyamaṇḍalassa
ārogyaṃ pucchi. Atha kho attanā ca dasakathāvatthulābhiṃ parañca tattha samādapetāraṃ
paṭipattisampannaṃ bhikkhuṃ pucchanto idaṃ – ‘‘ko nu kho,
bhikkhave’’tiādivacanaṃ avoca.
Kasmā pana bhagavā suddhodanādīnaṃ ārogyaṃ apucchitvā evarūpaṃ bhikkhumeva pucchati? Piyatāya. Buddhānañhi paṭipannakā bhikkhū bhikkhuniyo upāsakā upāsikāyo ca piyā honti manāpā. Kiṃ kāraṇā? Dhammagarutāya. Dhammagaruno hi tathāgatā, so ca nesaṃ dhammagarubhāvo, ‘‘dukkhaṃ kho agāravo viharati, appatisso’’ti (a. ni. 4.21) iminā ajapālanigrodhamūle uppannajjhāsayena veditabbo. Dhammagarutāyeva hi bhagavā mahākassapattherassa abhinikkhamanadivase paccuggamanaṃ karonto tigāvutaṃ maggaṃ agamāsi. Atirekatiyojanasataṃ maggaṃ gantvā gaṅgātīre dhammaṃ desetvā mahākappinaṃ saparisaṃ arahatte patiṭṭhapesi. Ekasmiṃ pacchābhatte pañcacattālīsayojanaṃ maggaṃ gantvā kumbhakārassa nivesane tiyāmarattiṃ dhammakathaṃ katvā pukkusātikulaputtaṃ anāgāmiphale patiṭṭhapesi. Vīsayojanasataṃ gantvā vanavāsisāmaṇerassa anuggahaṃ akāsi. Saṭṭhiyojanamaggaṃ gantvā khadiravaniyattherassa dhammaṃ desesi. Anuruddhatthero pācīnavaṃsadāye nisinno mahāpurisavitakkaṃ vitakketīti ñatvā tattha ākāsena gantvā therassa purato oruyha sādhukāramadāsi. Koṭikaṇṇasoṇattherassa ekagandhakuṭiyaṃ senāsanaṃ paññapāpetvā paccūsakāle dhammadesanaṃ ajjhesitvā sarabhaññapariyosāne sādhukāramadāsi. Tigāvutaṃ maggaṃ gantvā tiṇṇaṃ kulaputtānaṃ vasanaṭṭhāne gosiṅgasālavane sāmaggirasānisaṃsaṃ kathesi. Kassapopi bhagavā – ‘‘anāgāmiphale patiṭṭhito ariyasāvako aya’’nti vissāsaṃ uppādetvā ghaṭikārassa kumbhakārassa nivesanaṃ gantvā sahatthā āmisaṃ gahetvā paribhuñji.
Amhākaṃyeva bhagavā upakaṭṭhāya vassūpanāyikāya jetavanato bhikkhusaṅghaparivuto
cārikaṃ nikkhami. Kosalamahārājaanāthapiṇḍikādayo nivattetuṃ nāsakkhiṃsu.
Anāthapiṇḍiko gharaṃ āgantvā domanassappatto nisīdi. Atha naṃ puṇṇā nāma dāsī
domanassappattosi sāmīti āha. ‘‘Āma je, satthāraṃ nivattetuṃ nāsakkhiṃ, atha me
imaṃ temāsaṃ dhammaṃ vā sotuṃ, yathādhippāyaṃ vā dānaṃ dātuṃ na labhissāmī’’ti
cintā uppannāti. Ahampi sāmi satthāraṃ nivattessāmīti. Sace nivattetuṃ sakkosi,
bhujissāyeva tvanti. Sā gantvā dasabalassa pādamūle nipajjitvā ‘‘nivattatha
bhagavā’’ti āha. Puṇṇe tvaṃ parapaṭibaddhajīvikā kiṃ me karissasīti. Bhagavā
mayhaṃ deyyadhammo natthīti tumhepi jānātha, tumhākaṃ nivattanapaccayā panāhaṃ
tīsu saraṇesu pañcasu sīlesu patiṭṭhahissāmīti. Bhagavā sādhu sādhu puṇṇeti
sādhukāraṃ katvā nivattetvā jetavanameva paviṭṭho. Ayaṃ kathā pākaṭā ahosi. Seṭṭhi
sutvā puṇṇāya kira bhagavā nivattitoti taṃ bhujissaṃ katvā dhītuṭṭhāne ṭhapesi.
Sā pabbajjaṃ yācitvā pabbaji, pabbajitvā vipassanaṃ ārabhi. Athassā satthā
āraddhavipassakabhāvaṃ ñatvā imaṃ obhāsagāthaṃ vissajjesi –
‘‘Puṇṇe pūresi saddhammaṃ, cando pannaraso yathā;
Paripuṇṇāya paññāya, dukkhassantaṃ karissasī’’ti. (therīgā. 3);
Gāthāpariyosāne arahattaṃ patvā abhiññātā sāvikā ahosīti. Evaṃ
dhammagaruno tathāgatā.
Appicchatādivaṇṇanā
Appicchoti icchāvirahito niiccho nittaṇho. Ettha hi byañjanaṃ sāvasesaṃ
viya, attho pana niravaseso. Na hi tassa anto aṇumattāpi pāpikā icchā nāma
atthi. Khīṇāsavo hesa sabbaso pahīnataṇho. Apicettha atricchatā pāpicchatā
mahicchatā appicchatāti ayaṃ bhedo veditabbo.
Tattha sakalābhe atittassa paralābhe patthanā atricchatā nāma. Tāya
samannāgatassa ekabhājena pakkapūvopi attano patte patito na supakko viya
khuddako viya ca khāyati. Sveva parassa patte pakkhitto supakko viya mahanto
viya ca khāyati. Asantaguṇasambhāvanatā pana paṭiggahaṇe ca amattaññutā
pāpicchatā nāma, sā, ‘‘idhekacco assaddho samāno saddhoti maṃ jano
jānātū’’tiādinā nayena abhidhamme āgatāyeva, tāya samannāgato puggalo kohaññe
patiṭṭhāti. Santaguṇasambhāvanā pana paṭiggahaṇe ca amattaññutā mahicchatā
nāma. Sāpi, ‘‘idhekacco saddho samāno saddhoti maṃ jano jānātūti icchati,
sīlavā samāno sīlavāti maṃ jano jānātū’’ti (vibha. 851) iminā nayena āgatāyeva,
tāya samannāgato puggalo dussantappayo hoti, vijātamātāpissa cittaṃ gahetuṃ na
sakkoti. Tenetaṃ vuccati –
‘‘Aggikkhandho samuddo ca, mahiccho cāpi puggalo;
Sakaṭena paccayaṃ detu, tayopete atappayā’’ti.
Santaguṇanigūhanatā pana paṭiggahaṇe ca mattaññutā appicchatā nāma, tāya
samannāgato puggalo attani vijjamānampi guṇaṃ paṭicchādetukāmatāya, ‘‘saddho
samāno saddhoti maṃ jano jānātūti na icchati. Sīlavā, pavivitto, bahussuto,
āraddhavīriyo, samādhisampanno, paññavā, khīṇāsavo samāno khīṇāsavoti maṃ jano
jānātū’’ti na icchati, seyyathāpi majjhantikatthero.
Dhutaṅgasamādānassa attani atthibhāvaṃ najānāpetukāmo dhutaṅgaappiccho
nāma. Tassa vibhāvanatthaṃ imāni vatthūni – sosānikamahāsumanatthero kira saṭṭhi
vassāni susāne vasi, añño ekabhikkhupi na aññāsi, tenevāha –
‘‘Susāne saṭṭhi vassāni, abbokiṇṇaṃ vasāmahaṃ;
Dutiyo maṃ na jāneyya, aho sosānikuttamo’’ti.
Cetiyapabbate dvebhātiyattherā vasiṃsu. Tesu kaniṭṭho upaṭṭhākena pesitā
ucchukhaṇḍikā gahetvā jeṭṭhassa santikaṃ agamāsi. Paribhogaṃ, bhante,
karothāti. Therassa ca bhattakiccaṃ katvā mukhaṃ vikkhālanakālo ahosi. So alaṃ,
āvusoti āha. Kacci, bhante, ekāsanikatthāti. Āharāvuso, ucchukhaṇḍikāti paññāsa
vassāni ekāsaniko samānopi dhutaṅgaṃ nigūhamāno paribhogaṃ katvā mukhaṃ
vikkhāletvā puna dhutaṅgaṃ adhiṭṭhāya gato.
Dvādasavidhasantosavaṇṇanā
Idāni attanā ca santuṭṭhotiādīsu visesatthameva dīpayissāma. Yojanā pana
vuttanayeneva veditabbā. Santuṭṭhoti itarītarapaccayasantosena samannāgato. So
panesa santoso dvādasavidho hoti. Seyyathidaṃ, cīvare yathālābhasantoso
yathābalasantoso yathasāruppasantosoti tividho, evaṃ piṇḍapātādīsu. Tassāyaṃ
pabhedasaṃvaṇṇanā.
Idha pana bhikkhu bhesajjaṃ labhati lūkhaṃ vā paṇītaṃ vā, so yaṃ
labhati, teneva santussati, aññaṃ na pattheti, labhantopi na gaṇhāti, ayamassa
gilānapaccaye yathālābhasantoso. Yo pana telena atthiko phāṇitaṃ labhati, so taṃ
sabhāgassa bhikkhuno datvā tassa hatthato telaṃ gahetvā aññadeva vā pariyesitvā
tehi bhesajjaṃ karontopi santuṭṭhova hoti, ayamassa gilānapaccaye
yathābalasantoso. Aparo mahāpuñño bahuṃ telamadhuphāṇitādipaṇītabhesajjaṃ
labhati, so taṃ cīvaraṃ viya cirapabbajitabahussutaappalābhigilānānaṃ datvā
tesaṃ ābhatakena yena kenaci yāpentopi santuṭṭhova hoti. Yo pana ekasmiṃ
bhājane muttaharītakaṃ ṭhapetvā ekasmiṃ catumadhuraṃ, ‘‘gaṇha, bhante,
yadicchasī’’ti vuccamāno sacassa tesu aññatarenapi rogo vūpasammati, atha
muttaharītakaṃ nāma buddhādīhi vaṇṇitanti catumadhuraṃ paṭikkhipitvā
muttaharītakeneva bhesajjaṃ karonto paramasantuṭṭhova hoti, ayamassa
gilānapaccaye yathāsāruppasantoso.
Imesaṃ pana paccekaṃ paccayesu tiṇṇaṃ tiṇṇaṃ santosānaṃ
yathāsāruppasantosova aggo. Āyasmā puṇṇo ekekasmiṃ paccaye imehi tīhi santosehi
santuṭṭho ahosi. Santuṭṭhikathañcāti bhikkhūnampi ca imaṃ santuṭṭhikathaṃ
kattāva ahosi.
Tividhapavivekavaṇṇanā
Pavivittoti kāyapaviveko cittapaviveko upadhipavivekoti imehi tīhi
pavivekehi samannāgato. Tattha eko gacchati, eko tiṭṭhati, eko nisīdati, eko
seyyaṃ kappeti, eko gāmaṃ piṇḍāya pavisati, eko paṭikkamati, eko caṅkamamadhiṭṭhāti,
eko carati, eko viharatīti ayaṃ kāyapaviveko nāma. Aṭṭha samāpattiyo pana
cittapaviveko nāma. Nibbānaṃ upadhipaviveko nāma. Vuttampi hetaṃ –
‘‘kāyapaviveko ca vivekaṭṭhakāyānaṃ nekkhammābhiratānaṃ. Cittapaviveko ca
parisuddhacittānaṃ paramavodānappattānaṃ. Upadhiviveko ca nirupadhīnaṃ
puggalānaṃ visaṅkhāragatāna’’nti (mahāni. 57). Pavivekakathanti bhikkhūnampi ca
imaṃ pavivekakathaṃ kattā.
Pañcavidhasaṃsaggavaṇṇanā
Asaṃsaṭṭhoti pañcavidhena saṃsaggena virahito. Savanasaṃsaggo dassanasaṃsaggo
samullapanasaṃsaggo sambhogasaṃsaggo kāyasaṃsaggoti pañcavidho saṃsaggo. Tesu
idha bhikkhu suṇāti, ‘‘asukasmiṃ gāme vā nigame vā itthī vā kumārikā vā
abhirūpā dassanīyā pāsādikā paramāya vaṇṇapokkharatāya samannāgatā’’ti. So taṃ
sutvā saṃsīdati visīdati na sakkoti brahmacariyaṃ sandhāretuṃ, sikkhādubbalyaṃ
anāvikatvā hīnāyāvattatīti evaṃ parehi vā kathīyamānaṃ rūpādisampattiṃ attanā
vā hasitalapitagītasaddaṃ suṇantassa sotaviññāṇavīthivasena uppanno rāgo
savanasaṃsaggo nāma. So anitthigandhapaccekabodhisattassa ca pañcaggaḷaleṇavāsītissadaharassa
ca vasena veditabbo –
Daharo kira ākāsena gacchanto girigāmavāsikammāradhītāya pañcahi
kumārīhi saddhiṃ padumasaraṃ gantvā nhatvā padumāni ca pilandhitvā
madhurassarena gāyantiyā saddaṃ sutvā kāmarāgena viddho visesā parihāyitvā
anayabyasanaṃ pāpuṇi. Idha bhikkhu na heva kho suṇāti, apica kho sāmaṃ passati
itthiṃ vā kumāriṃ vā abhirūpaṃ dassanīyaṃ pāsādikaṃ paramāya vaṇṇapokkharatāya
samannāgataṃ. So taṃ disvā saṃsīdati visīdati na sakkoti brahmacariyaṃ
sandhāretuṃ, sikkhādubbalyaṃ anāvikatvā hīnāyāvattatīti evaṃ visabhāgarūpaṃ
olokentassa pana cakkhuviññāṇavīthivasena uppannarāgo dassanasaṃsaggo nāma. So
evaṃ veditabbo –
Eko kira daharo kāladīghavāpidvāravihāraṃ uddesatthāya gato. Ācariyo
tassa antarāyaṃ disvā okāsaṃ na karoti. So punappunnaṃ anubandhati. Ācariyo
sace antogāme na carissasi. Dassāmi te uddesanti āha. So sādhūti sampaṭicchitvā
uddese niṭṭhite ācariyaṃ vanditvā gacchanto ācariyo me imasmiṃ gāme carituṃ na
deti, kiṃ nu kho kāraṇanti cīvaraṃ pārupitvā gāmaṃ pāvisi, ekā kuladhītā
pītakavatthaṃ nivāsetvā gehe ṭhitā daharaṃ disvā sañjātarāgā uḷuṅkena yāguṃ
āharitvā tassa patte pakkhipitvā nivattitvā mañcake nipajji. Atha naṃ
mātāpitaro kiṃ ammāti pucchiṃsu, dvārena gataṃ daharaṃ labhamānā jīvissāmi,
alabhamānā marissāmīti. Mātāpitaro vegena gantvā gāmadvāre daharaṃ patvā
vanditvā, ‘‘nivattatha, bhante, bhikkhaṃ gaṇhāhī’’ti āhaṃsu. Daharo alaṃ
gacchāmīti. Te, ‘‘idaṃ nāma, bhante, kāraṇa’’nti yācitvā – ‘‘amhākaṃ, bhante,
gehe ettakaṃ nāma dhanaṃ atthi, ekāyeva no dhītā, tvaṃ no jeṭṭhaputtaṭṭhāne ṭhassasi,
sukhena sakkā jīvitu’’nti āhaṃsu. Daharo, ‘‘na mayhaṃ iminā palibodhena
attho’’ti anādiyitvāva pakkanto.
Gāhagāhakādivaṇṇanā
Imesu pana pañcasu saṃsaggesu bhikkhuno bhikkhūhi saddhiṃ savanadassanasamullapanasambhogakāyaparāmāsā
niccampi hontiyeva, bhikkhunīhi saddhiṃ ṭhapetvā kāyasaṃsaggaṃ sesā kālena kālaṃ
honti; tathā upāsakaupāsikāhi saddhiṃ sabbepi kālena kālaṃ honti. Tesu hi
kilesuppattito cittaṃ rakkhitabbaṃ. Eko hi bhikkhu gāhagāhako hoti, eko
gāhamuttako, eko muttagāhako, eko muttamuttako.
Sīlasampannotiādīsu sīlanti catupārisuddhisīlaṃ. Samādhīti
vipassanāpādakā aṭṭha samāpattiyo. Paññāti lokiyalokuttarañāṇaṃ. Vimuttīti
ariyaphalaṃ. Vimuttiñāṇadassananti ekūnavīsatividhaṃ paccavekkhaṇañāṇaṃ. Thero
sayampi sīlādīhi sampanno ahosi bhikkhūnampi sīlādikathaṃ kattā. Svāyaṃ dasahi
kathāvatthūhi ovadatīti ovādako. Yathā pana eko ovadatiyeva, sukhumaṃ atthaṃ
parivattetvā jānāpetuṃ na sakkoti. Na evaṃ thero. Thero pana tāni dasa
kathāvatthūni viññāpetīti viññāpako. Eko viññāpetuṃ sakkoti, kāraṇaṃ dassetuṃ
na sakkoti. Thero kāraṇampi sandassetīti sandassako. Eko vijjamānaṃ kāraṇaṃ
dasseti, gāhetuṃ pana na sakkoti. Thero gāhetumpi sakkotīti samādapako. Evaṃ
samādapetvā pana tesu kathāvatthūsu ussāhajananavasena bhikkhū samuttejetīti
samuttejako. Ussāhajāte vaṇṇaṃ vatvā sampahaṃsetīti sampahaṃsako.
Pañcalābhavaṇṇanā
253. Suladdhalābhāti aññesampi manussattabhāvapabbajjādiguṇalābhā nāma
honti. Āyasmato pana puṇṇassa suladdhalābhā ete, yassa satthu sammukhā evaṃ vaṇṇo
abbhuggatoti attho. Apica apaṇḍitehi vaṇṇakathanaṃ nāma na tathā lābho, paṇḍitehi
vaṇṇakathanaṃ pana lābho. Gihī hi vā vaṇṇakathanaṃ na tathā lābho, gihī hi ‘‘vaṇṇaṃ
kathessāmī’’ti, ‘‘amhākaṃ ayyo saṇho sakhilo sukhasambhāso, vihāraṃ āgatānaṃ
yāgubhattaphāṇitādīhi saṅgahaṃ karotī’’ti kathento avaṇṇameva katheti. ‘‘Avaṇṇaṃ
kathessāmī’’ti ‘‘ayaṃ thero mandamando viya abalabalo viya bhākuṭikabhākuṭiko
viya natthi iminā saddhiṃ vissāso’’ti kathento vaṇṇameva katheti.
Sabrahmacārīhipi satthu parammukhā vaṇṇakathanaṃ na tathā lābho, satthu
sammukhā pana atilābhoti imampi atthavasaṃ paṭicca ‘‘suladdhalābhā’’ti āha.
Anumassa anumassāti dasa kathāvatthūni anupavisitvā anupavisitvā. Tañca satthā
abbhanumodatīti tañcassa vaṇṇaṃ evametaṃ appiccho ca so bhikkhu santuṭṭho ca so
bhikkhūti anumodati. Iti viññūhi vaṇṇabhāsanaṃ eko lābho, sabrahmacārīhi eko,
satthu sammukhā eko, anumassa anumassa eko, satthārā abbhanumodanaṃ ekoti ime
pañca lābhe sandhāya ‘‘suladdhalābhā’’ti āha. Kadācīti kismiñcideva kāle.
Karahacīti tasseva vevacanaṃ. Appeva nāma siyā kocideva kathāsallāpoti api nāma
koci kathāsamudācāropi bhaveyya. Therena kira āyasmā puṇṇo neva diṭṭhapubbo,
nassa dhammakathā sutapubbā. Iti so tassa dassanampi dhammakathampi patthayamāno
evamāha.
Cārikādivaṇṇanā
254. Yathābhirantanti yathāajjhāsayaṃ viharitvā. Buddhānañhi ekasmiṃ ṭhāne
vasantānaṃ chāyūdakādivipattiṃ vā apphāsukasenāsanaṃ vā, manussānaṃ
assaddhādibhāvaṃ vā āgamma anabhirati nāma natthi. Tesaṃ sampattiyā ‘‘idha
phāsu viharāmā’’ti abhiramitvā ciravihāropi natthi. Yattha pana tathāgate
viharante sattā saraṇesu vā patiṭṭhahanti, sīlāni vā samādiyanti, pabbajanti
vā, tato sotāpattimaggādīnaṃ vā pana tesaṃ upanissayo hoti. Tattha buddhā satte
tāsu sampattīsu patiṭṭhāpanaajjhāsayena vasanti; tāsaṃ abhāve pakkamanti. Tena
vuttaṃ – ‘‘yathāajjhāsayaṃ viharitvā’’ti. Cārikaṃ caramānoti addhānagamanaṃ
gacchanto. Cārikā ca nāmesā bhagavato duvidhā hoti turitacārikā ca,
aturitacārikā ca.
Sace pana antovasse bhikkhūnaṃ samathavipassanā taruṇā hoti, mahāpavāraṇāya apavāretvā pavāraṇāsaṅgahaṃ datvā kattikapuṇṇamāya pavāretvā migasirassa paṭhamadivase mahābhikkhusaṅghaparivāro nikkhamitvā majjhimamaṇḍalaṃ osarati. Aññenapi kāraṇena majjhimamaṇḍale cārikaṃ caritukāmo catumāsaṃ vasitvāva nikkhamati. Vuttanayeneva itaresu dvīsu maṇḍalesu sakkāro majjhimamaṇḍale osarati. Bhagavā purimanayeneva lokaṃ anuggaṇhanto aṭṭhahi māsehi cārikaṃ pariyosāpeti.
Sace pana catumāsaṃ vuṭṭhavassassāpi bhagavato veneyyasattā
aparipakkindriyā honti, tesaṃ indriyaparipākaṃ āgamayamāno aparampi ekaṃ māsaṃ
vā dviticatumāsaṃ vā tattheva vasitvā mahābhikkhusaṅghaparivāro nikkhamati.
Vuttanayeneva itaresu dvīsu maṇḍalesu sakkāro antomaṇḍale osarati. Bhagavā
purimanayeneva lokaṃ anuggaṇhanto sattahi vā chahi vā pañcahi vā catūhi vā
māsehi cārikaṃ pariyosāpeti. Iti imesu tīsu maṇḍalesu yattha katthaci cārikaṃ
caranto na cīvarādihetu carati. Atha kho ye duggatā bālā jiṇṇā byādhitā, te
kadā tathāgataṃ āgantvā passissanti? Mayi pana cārikaṃ carante mahājano
tathāgatadassanaṃ labhissati, tattha keci cittāni pasādessanti, keci mālādīhi
pūjessanti, keci kaṭacchubhikkhaṃ dassanti, keci micchādassanaṃ pahāya sammādiṭṭhikā
bhavissanti, taṃ tesaṃ bhavissati dīgharattaṃ hitāya sukhāyāti evaṃ
lokānukampāya cārikaṃ carati.
Sattavisuddhipañhavaṇṇanā
256. Abhiṇhaṃ kittayamāno ahosīti punappunaṃ vaṇṇaṃ kittayamāno vihāsi.
Thero kira tato paṭṭhāya divase divase saṅghamajjhe ‘‘puṇṇo kira nāma mantāṇiputto
catūhi parisāhi saddhiṃ asaṃsaṭṭho, so dasabalassa dassanatthāya āgamissati;
kacci nu kho maṃ adisvāva gamissatī’’ti theranavamajjhimānaṃ satikaraṇatthaṃ
āyasmato puṇṇassa guṇaṃ bhāsati. Evaṃ kirassa ahosi – ‘‘mahallakabhikkhū nāma
na sabbakālaṃ antovihāre honti; guṇakathāya panassa kathitāya yo ca naṃ bhikkhuṃ
passissati; so āgantvā ārocessatī’’ti. Athāyaṃ therasseva saddhivihāriko taṃ
āyasmantaṃ mantāṇiputtaṃ pattacīvaramādāya gandhakuṭiṃ pavisantaṃ addasa. Kathaṃ
pana naṃ esa aññāsīti? Puṇṇa, puṇṇāti vatvā kathentassa bhagavato dhammakathāya
aññāsi – ‘‘ayaṃ so thero, yassa me upajjhāyo abhiṇhaṃ kittayamāno hotī’’ti. Iti
so āgantvā therassa ārocesi. Nisīdanaṃ ādāyāti nisīdanaṃ nāma sadasaṃ vuccati
avāyimaṃ. Thero pana cammakhaṇḍaṃ gahetvā agamāsi. Piṭṭhito piṭṭhitoti pacchato
pacchato. Sīsānulokīti yo unnataṭṭhāne piṭṭhiṃ passanto ninnaṭṭhāne sīsaṃ
passanto gacchati, ayampi sīsānulokīti vuccati. Tādiso hutvā anubandhi. Thero
hi kiñcāpi saṃyatapadasaddatāya accāsanno hutvā gacchantopi padasaddena na
bādhati, ‘‘nāyaṃ sammodanakālo’’ti ñatvā pana na accāsanno, andhavanaṃ nāma
mahantaṃ, ekasmiṃ ṭhāne nilīnaṃ apassantena, āvuso puṇṇa, puṇṇāti aphāsukasaddo
kātabbo hotīti nisinnaṭṭhānajānanatthaṃ nātidūre hutvā sīsānulokī agamāsi.
Divāvihāraṃ nisīdīti divāvihāratthāya nisīdi.
Kimatthaṃ carahāvusoti yadi sīlavisuddhiādīnaṃ atthāya brahmacariyaṃ na vussati, atha kimatthaṃ vussatīti pucchi. Anupādāparinibbānatthaṃ kho, āvusoti ettha anupādāparinibbānaṃ nāma appaccayaparinibbānaṃ. Dvedhā upādānāni gahaṇūpādānañca paccayūpādānañca. Gahaṇūpādānaṃ nāma kāmupādānādikaṃ catubbidhaṃ, paccayūpādānaṃ nāma avijjāpaccayā saṅkhārāti evaṃ vuttapaccayā. Tattha gahaṇūpādānavādino ācariyā anupādāparinibbānanti catūsu upādānesu aññatarenāpi kañci dhammaṃ aggahetvā pavattaṃ arahattaphalaṃ anupādāparinibbānanti kathenti. Tañhi na ca upādānasampayuttaṃ hutvā kañci dhammaṃ upādiyati, kilesānañca parinibbutante jātattā parinibbānanti vuccati. Paccayūpādānavādino pana anupādāparinibbānanti appaccayaparinibbānaṃ. Paccayavasena anuppannaṃ asaṅkhataṃ amatadhātumeva anupādāparinibbānanti kathenti. Ayaṃ anto, ayaṃ koṭi, ayaṃ niṭṭhā. Appaccayaparinibbānaṃ pattassa hi brahmacariyavāso matthakaṃ patto nāma hoti, tasmā thero ‘‘anupādāparinibbānattha’’nti āha. Atha naṃ anuyuñjanto āyasmā sāriputto ‘‘kiṃ nu kho, āvuso, sīlavisuddhi anupādāparinibbāna’’nti puna pucchaṃ ārabhi.
Sattarathavinītavaṇṇanā
259. Satta rathavinītānīti vinītaassājāniyayutte satta rathe. Yāvadeva,
cittavisuddhatthāti, āvuso, ayaṃ sīlavisuddhi nāma, yāvadeva,
cittavisuddhatthā. Cittavisuddhatthāti nissakkavacanametaṃ. Ayaṃ panettha
attho, yāvadeva, cittavisuddhisaṅkhātā atthā, tāva ayaṃ sīlavisuddhi nāma
icchitabbā. Yā pana ayaṃ cittavisuddhi, esā sīlavisuddhiyā attho, ayaṃ koṭi, idaṃ
pariyosānaṃ, cittavisuddhiyaṃ ṭhitassa hi sīlavisuddhikiccaṃ kataṃ nāma hotīti.
Esa nayo sabbapadesu.
Idaṃ panettha opammasaṃsandanaṃ – rājā pasenadi kosalo viya hi jarāmaraṇabhīruko yogāvacaro daṭṭhabbo. Sāvatthinagaraṃ viya sakkāyanagaraṃ, sāketanagaraṃ viya nibbānanagaraṃ, rañño sākete vaḍḍhiāvahassa sīghaṃ gantvā pāpuṇitabbassa accāyikassa kiccassa uppādakālo viya yogino anabhisametānaṃ catunnaṃ ariyasaccānaṃ abhisamayakiccassa uppādakālo. Satta rathavinītāni viya satta visuddhiyo, paṭhamaṃ rathavinītaṃ āruḷhakālo viya sīlavisuddhiyaṃ ṭhitakālo, paṭhamarathavinītādīhi dutiyādīni āruḷhakālo viya sīlavisuddhiādīhi cittavisuddhiādīsu ṭhitakālo. Sattamena rathavinītena sākete antepuradvāre oruyha uparipāsāde ñātimittagaṇaparivutassa surasabhojanaparibhogakālo viya yogino ñāṇadassanavisuddhiyā sabbakilese khepetvā dhammavarapāsādaṃ āruyha paropaṇṇāsakusaladhammaparivārassa nibbānārammaṇaṃ phalasamāpattiṃ appetvā nirodhasayane nisinnassa lokuttarasukhānubhavanakālo daṭṭhabbo.
Ettakampi no nappaṭibhāseyyāti paṭisambhidāpattassa appaṭibhānaṃ nāma natthi. Yā panāyaṃ upamā āhaṭā, taṃ na āhareyyāma, atthameva katheyyāma. Upamā hi ajānantānaṃ āharīyatīti ayamettha adhippāyo. Aṭṭhakathāyaṃ pana idampi paṭikkhipitvā upamā nāma buddhānampi santike āharīyati, theraṃ panesa apacāyamāno evamāhāti.
Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Rathavinītasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
Thảo luận 1. Khi tam học (giới, định, tuệ) được khai triển rộng thành thất tịnh thì cho chúng ta những lợi ích gì? - TT Pháp Tân
Thảo luận 2. Tại sao theo Phật học sự thanh tịnh của tâm vẫn chưa đủ mà còn phải thanh tịnh tri kiến? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 3. Xin giải rõ ý nghĩa cụm từ "vô thủ trước Bát-niết-bàn (anupādāparinibbāna)" - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 4. Phải chăng trong thất tịnh có những trường hợp "nhảy vọt" không cần tu giới tịnh, tâm tịnh mà đi thẳng vào các phần thanh tịnh thuộc tuệ? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 5.TT Giác Đẳng đúc kết phần thảo luận
No comments:
Post a Comment