Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
22. Kinh Ví Dụ Con Rắn
(Alagaddūpama Sutta)
Tên kinh lấy từ một ví dụ ở trong phần đầu của pháp thoại. Trong dụ ngôn
nầy người học Phật pháp phải cẩn trọng và khéo léo như người bắt rắn. Sự vụng
về có thể mang lại hậu quả tai hại. Trước kinh bài kinh nầy còn có tên thuần
Hán Việt là Kinh Xà Dụ.
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Sāvatthī (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm),
vườn ông Anāthapṇḍika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ, Tỷ-kheo tên là Ariṭṭha,
xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, khởi lên ác tà kiến như sau: "Theo
như ta hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng, khi thọ dụng những pháp
được Thế Tôn gọi là chướng ngại pháp, thật sự không có chướng
ngại gì". Một số đông Tỷ-kheo nghe như sau: "Tỷ-kheo tên Ariṭṭha,
xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, khởi lên ác tà kiến như sau:
"Theo như ta hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng, khi thọ dụng những
pháp được Thế Tôn gọi là chướng ngại pháp, thật sự không có
chướng ngại gì". Rồi những Tỷ-kheo ấy đi đến chỗ Tỷ- kheo Ariṭṭha,
xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, khi đến xong, liền nói với Tỷ-kheo
Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng như sau:
-- Này Hiền giả Ariṭṭha, có đúng sự thật rằng, Hiền giả khởi lên ác tà kiến như sau: "Theo như tôi hiểu... thật sự không có chướng ngại gì"?
-- Thật sự là vậy, chư Hiền. Theo như tôi hiểu... không có chướng ngại gì.
Rồi
những Tỷ-kheo ấy muốn Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim
ưng từ bỏ ác tà kiến ấy, liền cật vấn, nạn vấn lý do, thảo luận:
--"Hiền giả Ariṭṭha, chớ nói như vậy, chớ xuyên tạc Thế Tôn.
Xuyên tạc Thế Tôn là không tốt. Thế Tôn không có nói như vậy.
Hiền giả Ariṭṭha, Thế Tôn đã dùng nhiều pháp môn thuyết chướng đạo
pháp. Và những ai thọ dụng chúng tự đủ bị chướng ngại. Thế Tôn
đã thuyết các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, do vậy nguy hiểm
càng nhiều hơn. Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như khúc
xương... Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như một miếng thịt...
Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như bó đuốc cỏ khô... Thế Tôn
đã thuyết các dục được ví như hố than hừng... Thế Tôn đã thuyết các
dục được ví như cơn mộng... Thế Tôn đã thuyết các dục được ví
như vật dụng cho mượn... Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như
trái cây... Thế Tôn đã thuyết các dục vọng được ví như lò
thịt... Thế Tôn đã thuyết các dục vọng được ví như gậy nhọn...
Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như đầu rắn, vui ít khổ nhiều,
não nhiều và do vậy, nguy hiểm càng nhiều hơn".
Tỷ-kheo Ariṭṭha xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, dầu được các Tỷ-kheo ấy cật vấn, chất vấn thảo luận, vẫn nói lên ác tà kiến ấy, cứng đầu, chấp chặt, nắm chặt tà kiến ấy: "Thật sự là vậy, theo như tôi hiểu, pháp Thế Tôn thuyết giảng... không có chướng ngại gì".
Vì các Tỷ-kheo không thể làm cho Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, từ bỏ ác tà kiến ấy, nên họ đến chỗ Thế Tôn ở, khi đến xong, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, những Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, khởi lên ác tà kiến như sau: "Theo tôi hiểu, pháp Thế Tôn thuyết giảng... không có chướng ngại gì". Bạch Thế Tôn, chúng con nghe: "Tỷ-kheo tên Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng... không có chướng ngại gì". Bạch Thế Tôn, rồi chúng con đi đến chỗ Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, khi đến xong, liền nói với Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng: --"Này Hiền giả Ariṭṭha, có đúng sự thật chăng? Hiền giả khởi lên ác tà kiến như sau: "Theo như tôi hiểu... thật sự không có chướng ngại gì".
Bạch Thế Tôn, khi nghe nói vậy, Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, nói với chúng con như sau: --"Thật sự là vậy. Chư Hiền, theo như tôi hiểu... thật sự không có chướng ngại gì.
Bạch Thế Tôn, chúng con muốn khiến Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, từ bỏ ác tà kiến ấy, liền cật vấn, nạn vấn lý do, thảo luận: --"Hiền giả Ariṭṭha, chớ nói như vậy! Chớ xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc Thế Tôn là không tốt. Thế Tôn không có nói như vậy, Hiền giả Ariṭṭha, Thế Tôn đã dùng nhiều pháp môn, thuyết chướng đạo pháp. Và những ai thọ dụng chúng, tự đủ bị chướng ngại. Thế Tôn đã thuyết các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn. Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như khúc xương... Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như đầu rắn, vui ít, khổ nhiều, não nhiều, và do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn.
Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, dầu được chúng con cật vấn, nạn vấn lý do, thảo luận, vẫn nói lên ác tà kiến ấy, cứng đầu, chấp chặt, nắm chặt tà kiến ấy: "Thật sự là vậy, theo tôi hiểu, pháp Thế Tôn thuyết giảng... không có chướng ngại gì". Bạch Thế Tôn, vì chúng con không thể làm cho Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, từ bỏ ác tà kiến ấy, nên chúng con đến hỏi Thế Tôn ý nghĩa này.
Rồi Thế Tôn cho gọi một Tỷ-kheo khác:
-- Này Tỷ-kheo, hãy đi và nhân danh Ta gọi Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng rằng: "Hiền giả Ariṭṭha, bậc Ðạo Sư gọi Hiền giả".
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tỷ-kheo
ấy vâng lời Thế Tôn, đến chỗ Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn
luyện chim ưng, sau khi đến, liền nói với Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm
nghề huấn luyện chim ưng:
-- Hiền giả Ariṭṭha, bậc Ðạo sư gọi Hiền giả.
-- Thưa vâng, Hiền giả.
Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, đáp lời Tỷ-kheo ấy, đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, đang ngồi xuống một bên:
-- Này Ariṭṭha, có thật chăng, Ông khởi lên ác tà kiến như sau: "Theo như tôi hiểu... thật sự không có chướng ngại gì"?
-- Thật sự là vậy, bạch Thế Tôn. Theo như con hiểu, thật sự không có chướng ngại gì.
-- Này kẻ ngu si kia, sao Ông lại hiểu pháp Ta thuyết giảng như vậy? Này kẻ ngu si kia, có phải chăng, Ta đã dùng nhiều pháp môn thuyết chướng đạo pháp. Và những ai thọ dụng chúng tự đủ bị chướng ngại? Ta đã thuyết các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn. Ta đã thuyết các dục được ví như khúc xương... Ta đã thuyết các dục được ví như miếng thịt... được ví như bó đuốc cỏ khô... được ví như hố than hừng... được ví như cơn mộng... được ví như vật dụng cho mượn... được ví như trái cây... được ví như lò thịt... được ví như gậy nhọn... Ta đã thuyết các dục được ví như đầu rắn, vui ít, khổ nhiều, não nhiều, và do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn. Và này kẻ ngu si kia, không những Ông xuyên tạc Ta, vì Ông đã tự chấp thủ sai lạc, Ông tự phá hoại Ông và tạo nên nhiều tổn đức. Này kẻ ngu si kia, và như vậy sẽ đưa đến bất hạnh và đau khổ lâu dài cho Ông.
Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
-- Chư Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng này có thể khởi lên tia lửa sáng gì trong pháp luật này không?
-- Bạch Thế Tôn, làm sao có thể được! Không thể được, bạch Thế Tôn.
Ðược nói vậy, Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, im lặng, hổ thẹn, thụt vai, cúi đầu, lo âu, câm miệng. Rồi Thế Tôn, sau khi biết được Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng đang im lặng, hổ thẹn, thụt vai, cúi đầu, lo âu, câm miệng, bèn nói với Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng:
-- Này kẻ ngu si kia, người ta sẽ được biết Ông qua ác tà kiến của chính Ông.
Ở đây, Ta sẽ hỏi các Tỷ- kheo.
Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
-- Chư Tỷ-kheo, các Ông có hiểu pháp Ta thuyết giảng, giống như Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng này, không những đã xuyên tạc Ta vì đã tự chấp thủ sai lạc, mà còn tự phá hoại mình và gây nên nhiều tổn đức?
-- Bạch Thế Tôn, không. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn đã dùng nhiều pháp môn thuyết chướng đạo pháp; và những ai thọ dụng chúng, tự đủ bị chướng ngại. Thế Tôn đã thuyết các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn, Thế Tôn đã thuyết các dục ví như khúc xương... (như trên)... Thế Tôn đã thuyết các dục ví như đầu rắn, vui ít, khổ nhiều, não nhiều và do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn.
-- Lành thay, chư Tỷ-kheo! Lành thay, chư Tỷ-kheo! Các Ông hiểu pháp Ta thuyết giảng như vậy. Chư Tỷ-kheo, Ta đã dùng nhiều pháp môn thuyết chướng đạo pháp, và những ai thọ dụng chúng, tự đủ bị chướng ngại. Ta đã thuyết các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, và do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn. Ta đã thuyết các dục ví như khúc xương... (như trên)... Ta đã thuyết các dục ví như đầu rắn, vui ít, khổ nhiều, não nhiều, và do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn. Nhưng Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, không những xuyên tạc Ta vì đã tự chấp thủ sai lạc mà còn tự phá hoại mình và tạo nên nhiều tổn đức, và như vậy sẽ đưa đến bất hạnh, đau khổ lâu ngày cho kẻ ngu si ấy.
Thật sự, này các Tỷ-kheo, sự kiện này không xảy ra, người ta có thể thọ dụng các dục ngoài các dục, ngoài các dục tưởng, ngoài các dục tầm.
106. Ngay cả sự học hỏi giáo pháp nếu không đúng cách cũng có những nguy hiểm
Chỉ học Phật pháp bằng trí nhớ chưa đủ mà còn cần lãnh hội chân xác và ứng dụng đúng cách:
(Ví dụ con rắn)
Chư
Tỷ-kheo, ở đây có một số người ngu si học pháp, như Kinh, Ứng
tụng, Giải thuyết, Kệ tụng, Cảm hứng ngữ, Như thị ngữ, Bổn sanh,
Vị tằng hữu pháp, Phương quảng. Sau khi học các pháp này, họ không
quán sát ý nghĩa những pháp ấy với trí tuệ. Những pháp ấy, vì ý
nghĩa không được trí tuệ quán sát, nên không trở thành rõ ràng.
Họ học các pháp chỉ vì lợi ích, muốn chỉ trích người khác, chỉ
vì lợi ích, muốn khoái khẩu biện luận, và họ không đạt được mục
tiêu mà sự học pháp hướng đến. Những pháp ấy vì nắm giữ sai lạc
nên đưa họ đến bất hạnh, đau khổ lâu dài. Vì sao vậy? Này các
Tỷ-kheo, vì nắm giữ sai lạc các pháp.
nhân
này mà bị chết hay bị đau khổ gần như chết. Vì sao vậy? Chư
Tỷ-kheo, vì nắm bắt con rắn một cách sai lạc. Cũng vậy này các
Tỷ-kheo, ở đây, một số người ngu si học pháp... Chư Tỷ-kheo, vì sự
chấp thủ các pháp sai lạc.
Chư
Tỷ-kheo, ví như một người ưa muốn rắn nước, tìm cầu rắn nước đi
khắp chỗ để tìm rắn nước. Người đó thấy một con rắn nước lớn.
Người đó có thể khéo đè con rắn nước với cây gậy có nạng. Sau
khi khéo đè với cây gậy có nạng, người đó có thể khéo nắm giữ
cổ rắn. Chư Tỷ-kheo, dầu cho con rắn nước ấy có thể cuốn thân nó
xung quanh tay, hay cánh tay, hay một thân phần nào khác, người đó
cũng không vì nhân duyên ấy đi đến chỗ chết hay đến sự đau khổ gần
như chết. Vì sao vậy? Chư Tỷ-kheo, vì khéo nắm giữ con rắn nước
vậy.
107. Chấp
thủ chánh pháp là điều sai mà chấp thủ tà pháp còn sai hơn
Chư
Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng pháp cho các Ông, ví như chiếc bè để vượt
qua, không phải để nắm giữ lấy. Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ
giảng.
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn thuyết giảng như sau:
-- Này các Tỷ-kheo, ví như có người đang đi trên con đường lớn dài, đến một vùng nước rộng, bờ bên này nguy hiểm và hãi hùng, bờ bên kia an ổn và không kinh hãi, nhưng không có thuyền để vượt qua hay không có cầu bắc qua từ bờ này đến bờ kia. Người đó tự suy nghĩ: "Ðây là vùng nước rộng, bờ bên này nguy hiểm và hãi hùng, bờ bên kia an ổn và không kinh hãi, nhưng không có thuyền để vượt qua hay không có cầu bắc qua từ bờ này đến bờ kia. Nay ta hãy thâu góp cỏ, cây, nhánh, lá, cột lại thành chiếc bè, và dựa trên chiếc bè này, tinh tấn dùng tay chân, có thể vượt qua bờ bên kia một cách an toàn". Chư Tỷ-kheo, rồi người đó thâu góp cỏ, cây, nhánh, lá cột lại thành chiếc bè, và nhờ chiếc bè này, tinh tấn dùng tay chân vượt qua bờ bên kia một cách an toàn. Khi qua bờ bên kia rồi, Người đó suy nghĩ: "Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn. Nay ta hãy đội chiếc bè này trên đầu hay vác nó trên vai, và đi đến chỗ nào ta muốn". Chư Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Chư Tỷ-kheo, nếu người đó làm như vậy, thì có làm đúng với sở dụng của chiếc bè chăng?
-- Bạch Thế Tôn, không.
-- Chư Tỷ-kheo, người đó phải làm thế nào cho đúng sở dụng của chiếc bè? Ở đây, chư Tỷ-kheo, người đó sau khi vượt qua bờ bên kia, có thể suy nghĩ: "Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta. Nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân đã vượt qua bờ bên kia một cách an toàn. Nay ta hãy kéo chiếc bè này lên trên bờ đất khô, hay nhận chìm xuống nước, và đi đến chỗ nào ta muốn". Chư Tỷ-kheo, làm như vậy, người đó làm đúng sở dụng chiếc bè ấy. Cũng vậy, này chư Tỷ-kheo, Ta thuyết pháp như chiếc bè để vượt qua, không phải để nắm giữ lấy.
Chư Tỷ-kheo, các Ông cần hiểu ví dụ cái bè. Chánh pháp còn phải bỏ đi, huống nữa là phi pháp.
(còn tiếp)
Kinh số 22 [tóm
tắt]
Kinh Ví Dụ Con Rắn
(Alagaddūpama Sutta)
(M.i, 130)
Đức Phật dạy học chánh pháp cần phải nắm chánh pháp một cách
chơn chánh, nếu nắm sai lạc thời sẽ có hại. Như người bắt rắn,
nắm cái đuôi thời bị nạn con rắn quay lại cắn; nếu lấy cái nạng
đè đầu con rắn và nắm nơi cái cổ con rắn thời tránh khỏi tai nạn.
Tỷ-kheo Ariṭṭha khởi lên ác tà kiến, cho rằng các chướng ngại
pháp Phật dạy không có làm chướng ngại cho người thọ dụng. Đức
Phật cho gọi Ariṭṭha và giảng kinh này.
Trước hết đức Phật quở trách Ariṭṭha đã hiểu sai lạc và xuyên
tạc lời Phật dạy, vì Ngài đã dạy các dục vui ít, khổ nhiều, não
nhiều, nguy hiểm lại nhiều hơn. Ngài ví dục như khúc xương, như
miếng thịt, như bó đuốc cỏ khô, như hố than hừng, như cơn mộng,
như vật dụng cho mượn, như lò thịt, như gậy nhọn, như đầu rắn.
Như vậy, những ai thọ dụng các dục, là có đủ chướng ngại. Rồi
đức Phật khiển trách Ariṭṭha vì đã chấp thủ sai lời Phật dạy. Một
số người học pháp, học kinh điển, nhưng không quán sát ý nghĩa
với trí tuệ, học pháp chỉ để chỉ trích người, chỉ muốn khoái
khẩu biện luận, không hướng đến mục tiêu chính học pháp, nắm giữ
sai lạc pháp nên bị khổ đau luân hồi. Như con người đi bắt rắn,
bắt cái đuôi thì bị nạn rắn quay đầu lại cắn, nếu lấy cái nạng
đè đầu, nắm cái cổ thì không gặp nạn rắn cắn. Như vậy, học pháp
cần phải quán sát ý nghĩa với trí tuệ, học không phải để chỉ
trích người, để khoái khẩu biện luận, học phải hướng đến mục
tiêu chính của học pháp, như vậy mới được hạnh phúc lâu dài.
Rồi đức Phật dạy, Ngài giảng Pháp ví như chiếc bè để vượt
qua, không phải để nắm giữ. Nếu nhờ cái bè vượt qua sông, rồi
tiếc nuối chiếc bè, đội trên đầu hay vác trên vai mà đi, thời như
vậy không biết sử dụng chiếc bè. Trái lại nếu đến bờ kia rồi, kéo
cái bè lên trên bờ hay nhận chìm xuống nước rồi ra đi, như vậy là
biết sử dụng chiếc bè. Các Tỷ-kheo cần phải hiểu, chánh pháp ví
dụ như chiếc bè, chánh pháp còn phải bỏ đi huống nữa là phi pháp.
Rồi đức Phật dạy có sáu kiến xứ (diṭṭhaṭṭhānāni), năm
kiến xứ thuộc về năm uẩn, kẻ vô văn phàm phu xem năm uẩn là: “Cái
này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”. Kiến
xứ thứ sáu là xem thế giới và tự ngã, sau khi chết sẽ thường còn,
thường hằng, không biến chuyển và xem như vậy là: “Cái này là của
tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”.
Còn các bậc Thánh thời xem năm uẩn là: “Cái này không phải của
tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của
tôi”. Và đối với kiến xứ chấp rằng thế giới và tự ngã là thường
còn, vị ấy xem kiến xứ ấy là: “Cái này không phải của tôi, cái
này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”. Do
quán sát như vậy, đối với sự vật chẳng thật có, nên không có lo
âu phiền não.
Tiếp đến đức Phật giải thích có thể có cái không thực có ở
ngoài có thể gây ra lo âu phiền muộn, như có người có ý nghĩ:
“Cái gì chắc chắn đã là của tôi, nay chắc chắn không còn là của
tôi. Cái gì chắc chắn có thể là của tôi, chắc chắn tôi không có
cái ấy”. Vị ấy lo âu sầu não, đấm ngực, đi đến bất tỉnh. Người
không có ý nghĩ trên thời sẽ không có lo âu sầu muộn.
Có thể có cái không thực có ở bên trong có thể gây ra lo âu
phiền muộn. Như có người có tà kiến cho rằng tự ngã và thế giới
là thường còn, nay nghe Như Lai hay đệ tử của Như Lai thuyết pháp
để nhổ lên tất cả kiến xứ, quyết định, chấp thủ, thiên chấp, tùy
miên (diṭṭhiṭṭhānā- dhiṭṭhāna-pariyuṭṭhānabhinivesa-anusaya),
sự tịnh chỉ tất cả hành, sự từ bỏ tất cả sanh y, ái diệt, ly tham,
đoạn diệt, Niết-bàn. Vị ấy nghe như vậy, có thể nghĩ: “Ta sẽ bị
đoạn diệt, hoại diệt, không còn tồn tại” và như vậy vị ấy lo âu,
than khóc, đi đến bất tỉnh. Nếu người ấy không có ý nghĩ như trên
thời sẽ không có lo âu phiền muộn.
Không có thể nắm và không thấy một vật sở hữu nào mà vật sở
hữu ấy lại thường còn, không biến hoại, nếu có chấp ngã luận thủ
nào thời có khởi lên sầu bi khổ ưu não, nếu có y chỉ kiến y nào
thời thế nào sầu bi khổ ưu não cũng khởi lên.
Nếu có ngã thời có ngã sở thuộc, nếu có ngã sở thuộc thời có
ngã. Nếu ngã và ngã sở thuộc không thể chấp nhận là thường còn,
thời kiến xứ đây là tự ngã thường còn, thường hằng là một kiến
xứ hoàn toàn ngu si.
Lại sắc, thọ, tưởng, hành, thức thực sự biến hoại, thời không
thể xem năm uẩn là: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này
là tự ngã của tôi”. Cho nên cần phải quán sát tất cả sắc pháp,
thọ, tưởng, hành, thức là “Không phải của tôi, không phải là tôi,
không phải tự ngã của tôi”.
Do vậy, bậc đa văn Thánh đệ tử nhàm chán năm uẩn, do nhàm chán
nên không tham ái, do không tham ái nên được giải thoát khỏi sanh,
lão, bệnh, tử. Như vậy vị Tỷ- kheo được xem đã cất đi các chướng ngại vật tức
là đã đoạn trừ vô minh, đã lấp đầy các thông hào tức là đoạn tận
tái sanh, đã nhổ lên cột trụ tức là đã đoạn trừ năm hạ phần kiết
sử, là bậc Thánh đã hạ cây cờ xuống, đã đặt gánh nặng xuống,
không còn gì phiền trược, tức là đoạn trừ ngã mạn.
Vị Tỷ-kheo đã giải thoát thời không ai tìm được dấu vết. Như
Lai cũng vậy, không có dấu vết. Đức Phật tuyên bố như vậy nên bị
ngoại đạo kết tội là theo chủ nghĩa hư vô (venayika), đề cao
đoạn diệt, hủy diệt. Thật sự đức Phật chỉ nói lên sự khổ và sự
diệt khổ. Dù có ai nhiếc mắng, đức Phật cũng không sân hận; dù có
ai tán thán, Ngài cũng không hoan hỷ, Ngài chỉ suy nghĩ: “Đây là
điều xưa nay Ta biết rõ: Ở đây là những trách nhiệm Ta phải làm”,
và khuyên các Tỷ-kheo nên học tập theo Ngài.
Cuối cùng đức Phật khuyên các Tỷ-kheo: “Hãy từ bỏ cái gì không
phải của các ngươi”, có từ bỏ mới được an lạc. Tức là từ bỏ
năm uẩn. Vì pháp được đức Phật khéo giảng nên những Tỷ-kheo đã
chứng được quả A-la-hán, các lậu hoặc được đoạn tận, tu hành
thành mãn, việc nên làm đã làm, gánh nặng đã đặt xuống, lý tưởng
đã thành đạt, hữu kiết sử đã đoạn trừ, được giải thoát nhờ chánh
trí.
Những Tỷ-kheo nào đã đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, được hóa
sanh nhập diệt tại đấy, không còn trở lui lại đời này nữa, thành
bậc Bất lai.
Những Tỷ-kheo nào đã đoạn trừ được ba kiết sử, làm cho muội
lược tham, sân, si, thành bậc Nhất lai, chỉ đến đời này một lần
nữa rồi đoạn tận khổ đau.
Những Tỷ-kheo nào đoạn trừ ba hạ phần kiết sử, trở thành các
bậc Dự lưu, không còn bị đọa lạc ác thú, quyết định hướng đến
Chánh giác.
Những Tỷ-kheo nào là những vị tùy pháp hành, tùy tín hành, tất
cả những vị này sẽ hướng về Chánh giác.
Tất cả những vị nào đặt lòng tin nơi Thế Tôn, chỉ có lòng
thương mến Ngài, những vị ấy hướng về chư Thiên.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 22 [dàn
ý]
Kinh Ví Dụ Con Rắn
(Alagaddūpama Sutta)
(M.i, 130)
A. Duyên khởi:
Tỷ-kheo Ariṭṭha khởi lên ác tà kiến: Các ái dục không phải là chướng ngại pháp. Các
Tỷ-kheo khuyên can nhưng không được nên trình lên Thế Tôn. Thế Tôn cho gọi
Tỷ-kheo Ariṭṭha lên, quở trách Ariṭṭha và xác chứng lời dạy của mình về
các dục rồi thuyết giảng kinh này.
B. Chánh kinh:
Thế Tôn
thuyết giảng cho các Tỷ-kheo.
I. Thế
Tôn hỏi các Tỷ-kheo đã hiểu đúng lời dạy của Thế Tôn về các dục thế nào và xác
chứng lại quan điểm của mình về các dục.
II. Thế
Tôn nói đến 2 hạng người học pháp: Một hạng người học sai lạc, nên đi đến tai
họa khổ đau. Một hạng người học đúng đắn, không nắm giữ sai lạc, nên đi đến
hạnh phúc.
III. Phật
dạy Phật giảng pháp cho các Tỷ-kheo ví như chiếc bè để vượt qua sông, không
phải để nắm giữ lấy, chánh pháp còn phải bỏ đi, huống nữa là phi pháp.
IV. 6
kiến xứ, thái độ của kẻ phàm phu và vị đa văn thánh đệ tử đối với 6 kiến xứ
1. Kẻ vô
văn phàm phu chấp 6 kiến xứ là của tôi, là tôi, là tự ngã của tôi, nên lo âu
phiền muộn.
2. Bậc đa
văn thánh đệ tử không chấp 6 kiến xứ là của tôi, là tôi, là tự ngã của tôi, nên
không lo âu phiền muộn.
V. Các
nguy hiểm của 6 kiến xứ
1. Âu lo
phiền muộn và không âu lo phiền muộn tuỳ thuộc chấp thủ hay không chấp thủ 6
kiến xứ này.
2. Phàm
nắm giữ một sở hữu nào, sở hữu ấy không thường trú được. Phàm chấp ngã luận thủ
nào, thì đưa đến sầu bi khổ ưu não. Phàm y chỉ kiến y nào đều đưa đến sầu bi
khổ ưu não.
3. Nếu có
ngã, thời có ngã sở thuộc, nếu có ngã sở thuộc, thời có ngã. Ngã và ngã sở
thuộc là vô thường.
VI.
Phương pháp đối trị 6 kiến xứ
1. Chấp
ngã là ngu si.
2. Quan
điểm vô ngã của Đức Phật.
3. Vị
Thánh đệ tử quán vô ngã, được giải thoát.
VII.
Những đặc tánh của một vị đã giải thoát
1. Đã vất
đi các chướng ngại vật.
2. Đã lấp
đầy các thông hào.
3. Đã nhổ
lên cột trụ.
4. Đã mở
tung các lề khóa.
5. Đã hạ
cây cờ xuống, đã đặt gánh nặng xuống, không có gì triền phược.
VIII. Một
vị giải thoát như vậy không để lại dấu vết. Do thuyết vô ngã, Thế Tôn bị chỉ
trích là chủ trương lý thuyết hư vô, đề cao sự hủy diệt của loài hữu tình. Thái
độ của Đức Phật trước những lời chỉ trích.
IX. Lời
khuyến giáo của Đức Phật
- Hãy từ
bỏ những gì không phải của ngươi
- Từ bỏ
như vậy sẽ đem lại hạnh phúc an lạc.
X. Lợi
ích của thuyết pháp
Đưa các
Tỷ-kheo chứng được 4 Thánh quả, tuỳ pháp hành, tuỳ tín hành, được sanh thiên.
C. Kết luận:
Các Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ lời Thế
Tôn dạy.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 22 [toát yếu]
Kinh Ví Dụ Con Rắn
(Alagaddūpama Sutta)
(M.i, 130)
I. TOÁT YẾU
Alaggadūpama Sutta - The simile of the snake.
A
bhikkhu named Arittha gives rise to a pernicious view that conduct prohibited
by the Buddha is not really an obstruction. The Buddha reprimands him and, with
a series of memorable similes, stresses the dangers in misapplying and misrepresenting
the Dhamma. The sutta culminates in one of the most impressive disquisitions on
non-self found in the Canon.
Ví dụ con rắn
Một
tỳ kheo tên Ariṭṭha khởi lên
tà kiến cho rằng hành vi mà
Phật
cấm thực sự không phải là chướng ngại (cho giải thoát). Phật quở
trách ông, và nói nhiều với nhiều ví dụ đáng nhớ, Ngài nhấn mạnh
những nguy hiểm của việc áp dụng sai và giải thích Pháp một cách
sai lạc. Cao điểm kinh này là một trong những thiên trường luận khởi
sắc nhất về vô ngã được thấy trong Kinh Tạng.
II. TÓM TẮT
Do
tỳ kheo Ariṭṭha khởi lên tà kiến "dâm dục không chướng ngại
đạo như Phật đã nói." Phật quở và dạy kinh này, gồm các phần:
mục đích chính của việc học Pháp; các cách nắm giữ sai lạc; nguy
hiểm của dục; các kiến xứ và nguy hiểm của kiến chấp.
A)
Phật quở Ariṭṭha xuyên tạc lời Ngài dạy. Ngài đã nhiều lần dạy về
nguy hiểm của dục, vậy mà Ariṭṭha vẫn ôm giữ tà kiến "dục
không chướng ngại đạo". Phật dạy, ai học pháp để hý luận và
chỉ trích - như thái độ của Ariṭṭha - thì không đạt mục đích việc
họ pháp và sẽ đau khổ lâu dài. Lại nữa, học pháp cần nắm vững ý
nghĩa với trí tuệ, nếu nắm không vững, tức hiểu sai, sẽ vô cùng
tai hại, như bắt rắn đằng đuôi bị rắn quay đầu cắn. Phật ví dụ
pháp Ngài dạy như chiếc bè để qua sông, không phải để ôm giữ. Ngay
cả Pháp cũng nên bỏ, huống hồ phi pháp [như các dục].
B) Kế tiếp
Ngài dạy sáu kiến xứ, năm kiến xứ đầu là 5 uẩn tức nội thân,
kiến xứ thứ sáu là ngoại giới hay đối tượng của năm uẩn, những
gì được thấy, nghe, cảm, biết (kiến văn giác tri) qua sáu giác quan.
Tất cả cần phải chân chính thấy là không phải "tôi", "của
tôi" hay "tự ngã của tôi". Thấy như vậy gọi là thấy
như thật với trí tuệ, sẽ đoạn trừ tham ái chấp thủ, đạt vô
thượng an ổn khỏi các khổ ách. Nếu thấy có "tôi" và
"của tôi" thì sẽ đau khổ khi mất mát do vô thường, biến
hoại. Cái gì vô thường là khổ. Cái gì đã vô thường, khổ thì
không nên xem là "tôi" và "của tôi". Trong sáu
kiến xứ, nếu thấy không gì là tôi hay của tôi, thì gọi là
"xả pháp", trong khi phần trên nói dạy từ bỏ dục gọi là
"xả phi pháp".
C) Vì bất cứ
gì ta yêu mến đều không bền, thay đổi, nên "dục thủ" là
khổ. Kiến thủ, Ngã luận thủ - chấp có ngã - cũng vậy đều là những
hình thức chấp ngã, đều đưa đến khổ.
III. CHÚ GIẢI
Nói "dục
không chướng ngại đạo" là nói ngược lại một trong Bốn Vô úy
của Phật.
Tự ngã của
tôi:
một linh hồn trường cửu vẫn tồn tại sau khi chết.
IV. PHÁP SỐ
Ba thủ: dục, kiến, ngã luận.
Ba pháp ấn: vô thường, khổ, vô ngã.
Bốn quả sa môn
Năm uẩn
Sáu
kiến xứ: sắc, thọ, tưởng,
hành, thức, và kiến xứ thứ sáu bao gồm tất cả những gì thấy nghe
hay biết.
V. KỆ TỤNG
A. Mục đích học
Pháp
1. Khởi nguyên của kinh
này
Tà kiến A-ri-tha
"Dục không chướng ngại gì
Như Thế Tôn thuyết
giảng."
Phật gọi đến quở trách:
"Học pháp cần tư duy
Quán sát với trí tuệ
Để đạt được mục tiêu
Mà pháp ấy nhắm đến.
Nếu người học Pháp ta
Cốt để mà chỉ trích
Và khoái khẩu biện luận
Nắm giữ pháp sai lạc
Sẽ đau khổ lâu dài
Không đạt đến mục tiêu.
2. Ta đã nhiều lần dạy
"Dục vui ít khổ nhiều
Nguy hiểm càng nhiều hơn."
"Dục như khúc xương
khô
Như vật dùng mượn tạm
Như ôm đuốc ngược gió
Như hố than đỏ
hừng."
Nếu có ai bảo rằng
"Dục không chướng ngại đạo"
Là xuyên tạc Như Lai
Tại nên nhiều tổn đức
Sẽ đau khổ lâu dài.
B. Con rắn và chiếc
bè
3. Ví như người bắt rắn
Nắm lấy rắn đằng đuôi
Thì bị rắn quay lại
Cắn người ấy chết tươi.
Học Pháp cũng như vậy
Chấp thủ pháp sai lạc
Là thái độ nguy hiểm
Gây đau khổ lâu dài.
4. Lại như kẻ dùng bè
Vượt qua dòng sông rộng
Vác bè đi nghênh ngang
Là không biết dùng bè.
Pháp ta dạy cũng thế
Như bè để qua sông
Chánh pháp còn nên bỏ
Huống hồ là phi pháp?
C. Sáu kiến xứ
5. Đã bỏ dục - "phi
pháp"
Lại còn nên bỏ
"pháp"
Phật dạy sáu kiến xứ
Là để trừ pháp chấp.
Phàm phu không học Pháp
Đối với thân năm uẩn
Sắc, thọ, tưởng, hành, thức
Và những gì nhận biết
Qua sáu ngõ giác quan
Đều xem "tôi", "của tôi"
Và "tự ngã của tôi"
Thường hằng, không biến đổi.
6. Thánh đệ tử ngược
lại
Đối với cả năm uẩn
Và kiến văn giác tri
Không xem "tôi",
"của tôi"
Không thấy gì trường
cửu
Đáng gọi "tự ngã
tôi"
Do quán sát như vậy
Không phiền muộn, âu
sầu.
7. Thân, tài sản không
thực
Do xem "tôi",
"của tôi"
Nên khi nó hư hoại
Kẻ phàm phu lo sầu.
Thân, tài sản không thực
Không xem "tôi",
"của tôi"
Nên khi nó hư hoại
Thánh đệ tử không sầu.
8. "Tự ngã tôi
trường cửu
Thế giới này thường
hằng"
Ai ôm tà kiến ấy
Phải đấm ngực khóc than
Tưởng chừng như mất hết
Thế giới này vỡ tan
Khi nghe Như Lai dạy
"Ái diệt là Niết-bàn."
9. Ai không ôm tà kiến
"Tự ngã và thế giới
Trường tồn không biến chuyển"
Kẻ ấy không sầu muộn
Không than "ta mất
hết
Còn chi nữa, ta ơi"
Khi nghe Như Lai dạy
"Ái diệt là
Niết-bàn."
D. Ba thủ
10. Bất cứ người, vật
gì
Ta vô cùng yêu mến
Đều vô thường, biến hoại:
Dục thủ là khổ đau.
Chỗ nào có chấp trước
Liên hệ đến bản ngã
Đều có khổ, sầu ưu:
Ngã luận thủ là khổ.
Chấp trước một quan điểm
Dựa kiến văn giác tri
Cũng đều là chấp ngã
Dưới hình thức tinh vi.
Đã không "tôi",
"của tôi"
Mà còn có "tôi
thấy"
Ấy gọi là kiến thủ
Thực hoàn toàn ngu si.
E. Ba pháp ấn
11. Sắc, thọ, tưởng,
hành, thức
Năm uẩn đều vô thường
Vì biến đổi, hoại diệt
Do vô thường nên khổ
Đã vô thường, đau khổ
Đừng xem "tôi",
"của tôi".
F. Năm uẩn vô ngã
12. Bởi thế, Phật đã dạy
Này hỡi các tỳ kheo
Các ngươi hãy từ bỏ
Cái không phải của ngươi:
Sắc không phải của
ngươi
Ngươi nên từ bỏ sắc;
Các ngươi từ bỏ sắc,
Được an lạc dài lâu.
Thọ không phải của ngươi
Ngươi nên từ bỏ thọ;
Các ngươi từ bỏ thọ,
Được an lạc dài lâu.
Tưởng không phải của
ngươi
Ngươi nên từ bỏ tưởng;
Các ngươi từ bỏ tưởng,
Được an lạc dài lâu.
Hành không phải của
ngươi
Ngươi nên từ bỏ hành;
Hành nếu ngươi từ bỏ,
Được an lạc dài lâu.
Thức không phải của
ngươi
Ngươi nên từ bỏ thức;
Các ngươi từ bỏ thức,
Được an lạc dài lâu.
Thánh đệ tử quán sát
Yểm ly đối với sắc
Và thọ tưởng hành thức
Nên ly tham, giải thoát.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm
tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
22. Alagaddūpamasuttaṃ [Mūla]
234. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ samayaṃ Bhagavā
sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Tena kho pana samayena
ariṭṭhassa nāma bhikkhuno gaddhabādhipubbassa [gandhabādhipubbassa (ka.)]
evarūpaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ uppannaṃ hoti : ''tathāhaṃ bhagavatā dhammaṃ
desitaṃ ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato
nālaṃ antarāyāyāti. Assosuṃ kho sambahulā bhikkhū : ''ariṭṭhassa kira nāma
bhikkhuno gaddhabādhipubbassa evarūpaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ uppannaṃ : 'tathāhaṃ
bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā
te paṭisevato nālaṃ antarāyāyāti. Atha kho te bhikkhū yena ariṭṭho bhikkhu
gaddhabādhipubbo tenupasaṅkamiṃsu upasaṅkamitvā ariṭṭhaṃ bhikkhuṃ
gaddhabādhipubbaṃ etadavocuṃ : ''saccaṃ kira te, āvuso ariṭṭha, evarūpaṃ
pāpakaṃ diṭṭhigataṃ uppannaṃ : 'tathāhaṃ bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi
yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato nālaṃ antarāyāyāti.
''Evaṃbyākho [evaṃ kho (?) bhagavato sammukhāyevassa ''evaṃbyākhoti] ahaṃ,
āvuso, bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā
bhagavatā te paṭisevato nālaṃ antarāyāyāti.
Atha kho tepi bhikkhū ariṭṭhaṃ bhikkhuṃ
gaddhabādhipubbaṃ etasmā pāpakā
diṭṭhigatā vivecetukāmā samanuyuñjanti samanugāhanti [samanuggāhanti (syā.)]
samanubhāsanti : ''mā hevaṃ, āvuso ariṭṭha, avaca, mā bhagavantaṃ abbhācikkhi
na hi sādhu bhagavato abbhakkhānaṃ [abbhācikkhanaṃ (ka.)], na hi Bhagavā
evaṃ vadeyya. Anekapariyāyenāvuso ariṭṭha, antarāyikā dhammā antarāyikā vuttā
bhagavatā, alañca pana te paṭisevato antarāyāya. Appassādā kāmā vuttā bhagavatā
bahudukkhā bahupāyāsā,ādīnavo ettha bhiyyo. Aṭṭhikaṅkalūpamā kāmā vuttā
bhagavatā - pe - maṃsapesūpamā kāmā vuttā bhagavatā... tiṇukkūpamā kāmā vuttā
bhagavatā... aṅgārakāsūpamā kāmā vuttā bhagavatā... supinakūpamā kāmā vuttā
bhagavatā... yācitakūpamā kāmā vuttā bhagavatā... rukkhaphalūpamā kāmā vuttā
bhagavatā... asisūnūpamā kāmā vuttā bhagavatā... sattisūlūpamā kāmā vuttā
bhagavatā... sappasirūpamā kāmā vuttā
bhagavatā bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyoti. Evampi kho
ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo tehi
bhikkhūhi samanuyuñjiyamāno samanugāhiyamāno [samanuggāhiyamāno (syā.
vinayepi)] samanubhāsiyamāno tadeva [tatheva taṃ (vinaye)] pāpakaṃ diṭṭhigataṃ
thāmasā parāmāsā abhinivissa voharati : ''evaṃbyākho ahaṃ, āvuso, bhagavatā
dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato
nālaṃ antarāyāyāti.
235. Yato kho te bhikkhū nāsakkhiṃsu ariṭṭhaṃ bhikkhuṃ
gaddhabādhipubbaṃ etasmā pāpakā
diṭṭhigatā vivecetuṃ, atha kho te bhikkhū yena Bhagavā tenupasaṅkamiṃsu
upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā
kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ : ''ariṭṭhassa nāma, bhante, bhikkhuno
gaddhabādhipubbassa evarūpaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ uppannaṃ : 'tathāhaṃ bhagavatā
dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te
paṭisevato nālaṃ antarāyāyāti. Assumha kho mayaṃ, bhante : 'ariṭṭhassa kira
nāma bhikkhuno gaddhabādhipubbassa evarūpaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ uppannaṃ :
tathāhaṃ bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā
bhagavatā te paṭisevato nālaṃ antarāyāyāti. Atha kho mayaṃ, bhante, yena
ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo tenupasaṅkamimha upasaṅkamitvā ariṭṭhaṃ
bhikkhuṃ gaddhabādhipubbaṃ etadavocumha : 'saccaṃ kira te, āvuso ariṭṭha,
evarūpaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ uppannaṃ : tathāhaṃ bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi
yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato nālaṃ antarāyāyāti?
''evaṃ vutte, bhante, ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo amhe etadavoca :
'evaṃbyākho ahaṃ, āvuso, bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā yeme
antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato nālaṃ antarāyāyāti. Atha kho
mayaṃ, bhante, ariṭṭhaṃ bhikkhuṃ gaddhabādhipubbaṃ etasmā pāpakā diṭṭhigatā
vivecetukāmā samanuyuñjimha samanugāhimha samanubhāsimha : 'mā hevaṃ, āvuso ariṭṭha, avaca, mā
bhagavantaṃ abbhācikkhi na hi sādhu bhagavato abbhakkhānaṃ , na hi Bhagavā
evaṃ vadeyya. Anekapariyāyenāvuso ariṭṭha, antarāyikā dhammā antarāyikā vuttā
bhagavatā, alañca pana te paṭisevato antarāyāya. Appassādā kāmā vuttā bhagavatā
bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo. Aṭṭhikaṅkalūpamā kāmā vuttā
bhagavatā - pe - sappasirūpamā kāmā vuttā bhagavatā bahudukkhā bahupāyāsā,
ādīnavo ettha bhiyyoti. Evampi kho, bhante, ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo
amhehi samanuyuñjiyamāno samanugāhiyamāno
samanubhāsiyamāno tadeva pāpakaṃ diṭṭhigataṃ thāmasā parāmāsā
abhinivissa voharati : 'evaṃbyākho ahaṃ, āvuso, bhagavatā dhammaṃ desitaṃ
ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato nālaṃ
antarāyāyāti. Yato kho mayaṃ, bhante, nāsakkhimha ariṭṭhaṃ bhikkhuṃ
gaddhabādhipubbaṃ etasmā pāpakā diṭṭhigatā vivecetuṃ, atha mayaṃ etamatthaṃ
bhagavato ārocemāti.
236. Atha kho Bhagavā aññataraṃ bhikkhuṃ āmantesi : ''ehi tvaṃ,
bhikkhu, mama vacanena ariṭṭhaṃ bhikkhuṃ gaddhabādhipubbaṃ āmantehi : 'satthā
taṃ, āvuso ariṭṭha, āmantetīti. ''Evaṃ , bhanteti kho so bhikkhu bhagavato
paṭissutvā, yena ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo tenupasaṅkami upasaṅkamitvā
ariṭṭhaṃ bhikkhuṃ gaddhabādhipubbaṃ etadavoca : ''satthā taṃ, āvuso ariṭṭha, āmantetīti. ''Evamāvusoti
kho ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo tassa bhikkhuno paṭissutvā yena Bhagavā
tenupasaṅkami upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ
nisinnaṃ kho ariṭṭhaṃ bhikkhuṃ gaddhabādhipubbaṃ Bhagavā etadavoca :
''saccaṃ kira te, ariṭṭha, evarūpaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ uppannaṃ : 'tathāhaṃ
bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā
te paṭisevato nālaṃ antarāyāyāti? ''evaṃbyākho ahaṃ, bhante, bhagavatā dhammaṃ
desitaṃ ājānāmi : 'yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato
nālaṃ antarāyāyāti. ''Kassa kho nāma tvaṃ, moghapurisa, mayā evaṃ dhammaṃ
desitaṃ ājānāsi? nanu mayā, moghapurisa, anekapariyāyena antarāyikā dhammā
antarāyikā vuttā? alañca pana te paṭisevato antarāyāya. Appassādā kāmā vuttā
mayā, bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo. Aṭṭhikaṅkalūpamā kāmā vuttā
mayā... maṃsapesūpamā kāmā vuttā mayā...
tiṇukkūpamā kāmā vuttā mayā... aṅgārakāsūpamā kāmā vuttā mayā... supinakūpamā
kāmā vuttā mayā... yācitakūpamā kāmā vuttā mayā... rukkhaphalūpamā kāmā vuttā
mayā... asisūnūpamā kāmā vuttā mayā... sattisūlūpamā kāmā vuttā mayā...
sappasirūpamā kāmā vuttā mayā, bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo.
Atha ca pana tvaṃ, moghapurisa, attanā duggahitena amhe ceva abbhācikkhasi, attānañca khanasi,
bahuñca apuññaṃ pasavasi. Tañhi te, moghapurisa, bhavissati dīgharattaṃ ahitāya
dukkhāyāti. Atha kho Bhagavā
bhikkhū āmantesi : ''taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, api nāyaṃ ariṭṭho bhikkhu
gaddhabādhipubbo usmīkatopi imasmiṃ dhammavinayeti? ''kiñhi [kiṃti (ka.)] siyā,
bhante no hetaṃ, bhanteti. Evaṃ vutte, ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo
tuṇhībhūto maṅkubhūto pattakkhandho adhomukho pajjhāyanto appaṭibhāno nisīdi.
Atha kho Bhagavā ariṭṭhaṃ bhikkhuṃ gaddhabādhipubbaṃ tuṇhībhūtaṃ
maṅkubhūtaṃ pattakkhandhaṃ adhomukhaṃ pajjhāyantaṃ appaṭibhānaṃ viditvā
ariṭṭhaṃ bhikkhuṃ gaddhabādhipubbaṃ etadavoca : ''paññāyissasi kho tvaṃ,
moghapurisa, etena sakena pāpakena diṭṭhigatena. Idhāhaṃ bhikkhū
paṭipucchissāmīti.
237. Atha kho Bhagavā bhikkhū āmantesi : ''tumhepi me, bhikkhave ,
evaṃ dhammaṃ desitaṃ ājānātha yathāyaṃ ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo attanā
duggahitena amhe ceva abbhācikkhati, attānañca khanati, bahuñca apuññaṃ
pasavatīti? ''no hetaṃ, bhante. Anekapariyāyena hi no, bhante, antarāyikā
dhammā antarāyikā vuttā bhagavatā alañca pana te paṭisevato antarāyāya.
Appassādā kāmā vuttā bhagavatā bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo.
Aṭṭhikaṅkalūpamā kāmā vuttā bhagavatā - pe - sappasirūpamā kāmā vuttā bhagavatā
bahudukkhā bahupāyāsā , ādīnavo ettha bhiyyoti. ''Sādhu sādhu, bhikkhave, sādhu,
kho me tumhe, bhikkhave, evaṃ dhammaṃ desitaṃ ājānātha. Anekapariyāyena hi kho,
bhikkhave, antarāyikā dhammā vuttā mayā, alañca pana te paṭisevato antarāyāya.
Appassādā kāmā vuttā mayā , bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo.
Aṭṭhikaṅkalūpamā kāmā vuttā mayā - pe - sappasirūpamā kāmā vuttā mayā,
bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo. Atha ca panāyaṃ ariṭṭho bhikkhu
gaddhabādhipubbo attanā duggahitena amhe ceva abbhācikkhati, attānañca khanati,
bahuñca apuññaṃ pasavati. Tañhi tassa moghapurisassa bhavissati dīgharattaṃ
ahitāya dukkhāya. So vata, bhikkhave, aññatreva kāmehi aññatra kāmasaññāya
aññatra kāmavitakkehi kāme paṭisevissatīti : netaṃ ṭhānaṃ vijjati.
238. ''Idha, bhikkhave, ekacce moghapurisā dhammaṃ pariyāpuṇanti : suttaṃ,
geyyaṃ, veyyākaraṇaṃ, gāthaṃ, udānaṃ, itivuttakaṃ, jātakaṃ, abbhutadhammaṃ,
vedallaṃ. Te taṃ dhammaṃ pariyāpuṇitvā tesaṃ dhammānaṃ paññāya atthaṃ na
upaparikkhanti. Tesaṃ te dhammā paññāya atthaṃ anupaparikkhataṃ na nijjhānaṃ khamanti. Te upārambhānisaṃsā
ceva dhammaṃ pariyāpuṇanti itivādappamokkhānisaṃsā ca. Yassa catthāya dhammaṃ
pariyāpuṇanti tañcassa atthaṃ
nānubhonti. Tesaṃ te dhammā duggahitā dīgharattaṃ ahitāya dukkhāya
saṃvattanti. Taṃ kissa hetu? duggahitattā, bhikkhave, dhammānaṃ. ''Seyyathāpi,
bhikkhave, puriso alagaddatthiko alagaddagavesī alagaddapariyesanaṃ caramāno.
So passeyya mahantaṃ alagaddaṃ. Tamenaṃ bhoge vā naṅguṭṭhe vā gaṇheyya. Tassa
so alagaddo paṭiparivattitvā [paṭinivattitvā (syā. ka.)] hatthe vā bāhāya vā
aññatarasmiṃ vā aṅgapaccaṅge ḍaṃseyya [ḍaseyya (sī. pī.)]. So tatonidānaṃ maraṇaṃ vā nigaccheyya maraṇamattaṃ vā
dukkhaṃ. Taṃ kissa hetu? duggahitattā, bhikkhave, alagaddassa. Evameva kho,
bhikkhave, idhekacce moghapurisā dhammaṃ pariyāpuṇanti : suttaṃ, geyyaṃ,
veyyākaraṇaṃ, gāthaṃ, udānaṃ, itivuttakaṃ, jātakaṃ, abbhutadhammaṃ, vedallaṃ.
Te taṃ dhammaṃ pariyāpuṇitvā tesaṃ dhammānaṃ paññāya atthaṃ na upaparikkhanti.
Tesaṃ te dhammā paññāya atthaṃ anupaparikkhataṃ na nijjhānaṃ khamanti. Te
upārambhānisaṃsā ceva dhammaṃ pariyāpuṇanti itivādappamokkhānisaṃsā ca. Yassa
catthāya dhammaṃ pariyāpuṇanti tañcassa atthaṃ nānubhonti. Tesaṃ te dhammā
duggahitā dīgharattaṃ ahitāya dukkhāya saṃvattanti. Taṃ kissa hetu?
duggahitattā bhikkhave dhammānaṃ.
239. ''Idha pana, bhikkhave, ekacce
kulaputtā dhammaṃ pariyāpuṇanti : suttaṃ, geyyaṃ, veyyākaraṇaṃ, gāthaṃ, udānaṃ,
itivuttakaṃ, jātakaṃ, abbhutadhammaṃ, vedallaṃ. Te taṃ dhammaṃ pariyāpuṇitvā
tesaṃ dhammānaṃ paññāya atthaṃ upaparikkhanti. Tesaṃ te dhammā paññāya atthaṃ
upaparikkhataṃ nijjhānaṃ khamanti. Te na
ceva upārambhānisaṃsā dhammaṃ pariyāpuṇanti na itivādappamokkhānisaṃsā ca [na
ca itivādappamokkhānisaṃsā (?)]. Yassa catthāya dhammaṃ pariyāpuṇanti tañcassa
atthaṃ anubhonti. Tesaṃ te dhammā suggahitā dīgharattaṃ hitāya sukhāya
saṃvattanti. Taṃ kissa hetu? suggahitattā bhikkhave dhammānaṃ. ''Seyyathāpi,
bhikkhave, puriso alagaddatthiko alagaddagavesī alagaddapariyesanaṃ caramāno.
So passeyya mahantaṃ alagaddaṃ. Tamenaṃ ajapadena daṇḍena suniggahitaṃ
niggaṇheyya. Ajapadena daṇḍena suniggahitaṃ niggahitvā, gīvāya suggahitaṃ
gaṇheyya. Kiñcāpi so, bhikkhave , alagaddo tassa purisassa hatthaṃ vā bāhaṃ vā
aññataraṃ vā aṅgapaccaṅgaṃ bhogehi paliveṭheyya, atha kho so neva tatonidānaṃ
maraṇaṃ vā nigaccheyya maraṇamattaṃ vā dukkhaṃ. Taṃ kissa hetu? suggahitattā, bhikkhave,
alagaddassa. Evameva kho, bhikkhave, idhekacce kulaputtā dhammaṃ pariyāpuṇanti
: suttaṃ, geyyaṃ, veyyākaraṇaṃ, gāthaṃ, udānaṃ, itivuttakaṃ, jātakaṃ,
abbhutadhammaṃ, vedallaṃ. Te taṃ dhammaṃ pariyāpuṇitvā tesaṃ dhammānaṃ paññāya
atthaṃ upaparikkhanti. Tesaṃ te dhammā paññāya atthaṃ upaparikkhataṃ nijjhānaṃ
khamanti. Te na ceva upārambhānisaṃsā dhammaṃ pariyāpuṇanti, na
itivādappamokkhānisaṃsā ca. Yassa catthāya dhammaṃ pariyāpuṇanti, tañcassa
atthaṃ anubhonti. Tesaṃ te dhammā suggahitā dīgharattaṃ atthāya hitāya sukhāya
saṃvattanti. Taṃ kissa hetu? suggahitattā, bhikkhave, dhammānaṃ. Tasmātiha,
bhikkhave, yassa me bhāsitassa atthaṃ
ājāneyyātha, tathā naṃ dhāreyyātha. Yassa ca pana me bhāsitassa atthaṃ na ājāneyyātha,
ahaṃ vo tattha paṭipucchitabbo, ye vā panāssu viyattā bhikkhū.
240. ''Kullūpamaṃ vo, bhikkhave, dhammaṃ desessāmi nittharaṇatthāya, no
gahaṇatthāya. Taṃ suṇātha, sādhukaṃ manasikarotha, bhāsissāmīti. ''Evaṃ,
bhanteti kho te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ. Bhagavā etadavoca : ''seyyathāpi
, bhikkhave, puriso addhānamaggappaṭipanno. So passeyya mahantaṃ udakaṇṇavaṃ,
orimaṃ tīraṃ sāsaṅkaṃ sappaṭibhayaṃ, pārimaṃ tīraṃ khemaṃ appaṭibhayaṃ na cassa
nāvā santāraṇī uttarasetu vā apārā pāraṃ gamanāya. Tassa evamassa : 'ayaṃ kho mahāudakaṇṇavo, orimaṃ tīraṃ
sāsaṅkaṃ sappaṭibhayaṃ, pārimaṃ tīraṃ khemaṃ appaṭibhayaṃ natthi ca nāvā
santāraṇī uttarasetu vā apārā pāraṃ gamanāya. Yaṃnūnāhaṃ tiṇakaṭṭhasākhāpalāsaṃ
saṃkaḍḍhitvā, kullaṃ bandhitvā, taṃ kullaṃ nissāya hatthehi ca pādehi ca
vāyamamāno sotthinā pāraṃ uttareyyanti. Atha kho so, bhikkhave, puriso
tiṇakaṭṭhasākhāpalāsaṃ saṃkaḍḍhitvā, kullaṃ bandhitvā taṃ kullaṃ nissāya
hatthehi ca pādehi ca vāyamamāno sotthinā pāraṃ uttareyya. Tassa purisassa
uttiṇṇassa [tiṇṇassa (pī. ka.)] pāraṅgatassa evamassa : 'bahukāro kho me ayaṃ
kullo imāhaṃ kullaṃ nissāya hatthehi ca pādehi ca vāyamamāno sotthinā pāraṃ
uttiṇṇo. Yaṃnūnāhaṃ imaṃ kullaṃ sīse vā āropetvā khandhe vā uccāretvā [uccopetvā (ka.)] yena kāmaṃ
pakkameyyanti. Taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, api nu so puriso evaṃkārī tasmiṃ
kulle kiccakārī assāti? ''no hetaṃ, bhante. ''Kathaṃkārī ca so, bhikkhave,
puriso tasmiṃ kulle kiccakārī assa? idha, bhikkhave, tassa purisassa uttiṇṇassa
pāraṅgatassa evamassa : 'bahukāro kho me ayaṃ kullo imāhaṃ kullaṃ nissāya hatthehi ca pādehi ca vāyamamāno sotthinā
pāraṃ uttiṇṇo. Yaṃnūnāhaṃ imaṃ kullaṃ thale vā ussādetvā [ussāretvā (ka.)]
udake vā opilāpetvā yena kāmaṃ pakkameyyanti. Evaṃkārī kho so, bhikkhave,
puriso tasmiṃ kulle kiccakārī assa. Evameva kho, bhikkhave, kullūpamo mayā
dhammo desito nittharaṇatthāya, no gahaṇatthāya. Kullūpamaṃ vo, bhikkhave,
dhammaṃ desitaṃ, ājānantehi dhammāpi vo pahātabbā pageva adhammā.
241. ''Chayimāni, bhikkhave, diṭṭhiṭṭhānāni. Katamāni cha? idha, bhikkhave,
assutavā puthujjano ariyānaṃ adassāvī ariyadhammassa akovido ariyadhamme
avinīto, sappurisānaṃ adassāvī sappurisadhammassa akovido sappurisadhamme
avinīto, rūpaṃ 'etaṃ mama, esohamasmi, eso me attāti samanupassati vedanaṃ 'etaṃ mama, esohamasmi,
eso me attāti samanupassati saññaṃ 'etaṃ mama, esohamasmi, eso me attāti
samanupassati saṅkhāre 'etaṃ mama, esohamasmi, eso me attāti samanupassati yampi taṃ diṭṭhaṃ
sutaṃ mutaṃ viññātaṃ pattaṃ pariyesitaṃ, anuvicaritaṃ manasā tampi 'etaṃ mama,
esohamasmi, eso me attāti samanupassati yampi taṃ diṭṭhiṭṭhānaṃ : so loko so
attā, so pecca bhavissāmi nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo , sassatisamaṃ
tatheva ṭhassāmīti : tampi 'etaṃ mama, esohamasmi, eso me attāti samanupassati.
Sutavā ca kho, bhikkhave, ariyasāvako ariyānaṃ dassāvī ariyadhammassa kovido
ariyadhamme suvinīto, sappurisānaṃ dassāvī sappurisadhammassa kovido
sappurisadhamme suvinīto, rūpaṃ 'netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attāti
samanupassati vedanaṃ 'netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attāti samanupassati
saññaṃ 'netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attāti samanupassati saṅkhāre 'netaṃ
mama, nesohamasmi, na meso attāti samanupassati yampi taṃ diṭṭhaṃ sutaṃ mutaṃ
viññātaṃ pattaṃ pariyesitaṃ, anuvicaritaṃ manasā, tampi 'netaṃ mama,
nesohamasmi, na meso attāti samanupassati yampi taṃ diṭṭhiṭṭhānaṃ : so loko so
attā, so pecca bhavissāmi nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo, sassatisamaṃ
tatheva ṭhassāmīti : tampi 'netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attāti
samanupassati. So evaṃ samanupassanto asati na paritassatīti.
242. Evaṃ vutte, aññataro bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca : ''siyā nu kho,
bhante, bahiddhā asati paritassanāti? ''siyā, bhikkhūti : Bhagavā avoca. ''Idha bhikkhu ekaccassa evaṃ hoti : 'ahu vata me, taṃ vata me natthi
siyā vata me, taṃ vatāhaṃ na labhāmīti. So socati kilamati paridevati urattāḷiṃ
kandati sammohaṃ āpajjati. Evaṃ kho, bhikkhu, bahiddhā asati paritassanā
hotīti. ''Siyā pana, bhante, bahiddhā asati aparitassanāti? ''siyā, bhikkhūti :
Bhagavā avoca. ''Idha bhikkhu ekaccassa na evaṃ hoti : 'ahu vata me, taṃ
vata me natthi siyā vata me, taṃ vatāhaṃ na labhāmīti. So na socati na kilamati na paridevati na urattāḷiṃ
kandati na sammohaṃ āpajjati. Evaṃ kho, bhikkhu, bahiddhā asati aparitassanā
hotīti. ''Siyā nu kho, bhante, ajjhattaṃ asati paritassanāti? ''siyā, bhikkhūti
: Bhagavā avoca. ''Idha, bhikkhu, ekaccassa evaṃ diṭṭhi hoti : 'so loko
so attā, so pecca bhavissāmi nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo,
sassatisamaṃ tatheva ṭhassāmīti. So suṇāti tathāgatassa vā tathāgatasāvakassa
vā sabbesaṃ diṭṭhiṭṭhānādhiṭṭhānapariyuṭṭhānābhinivesānusayānaṃ samugghātāya
sabbasaṅkhārasamathāya sabbūpadhipaṭinissaggāya taṇhākkhayāya virāgāya
nirodhāya nibbānāya dhammaṃ desentassa. Tassa evaṃ hoti : 'ucchijjissāmi nāmassu, vinassissāmi
nāmassu, nassu nāma bhavissāmīti. So socati kilamati paridevati urattāḷiṃ
kandati sammohaṃ āpajjati. Evaṃ kho, bhikkhu, ajjhattaṃ asati paritassanā
hotīti. ''Siyā pana, bhante, ajjhattaṃ asati aparitassanāti? ''siyā,
bhikkhūti Bhagavā avoca. ''Idha,
bhikkhu, ekaccassa na evaṃ diṭṭhi hoti : 'so loko so attā, so pecca bhavissāmi
nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo, sassatisamaṃ tatheva ṭhassāmīti. So
suṇāti tathāgatassa vā tathāgatasāvakassa vā sabbesaṃ
diṭṭhiṭṭhānādhiṭṭhānapariyuṭṭhānābhinivesānusayānaṃ samugghātāya
sabbasaṅkhārasamathāya sabbūpadhipaṭinissaggāya taṇhākkhayāya virāgāya nirodhāya
nibbānāya dhammaṃ desentassa. Tassa na evaṃ hoti : 'ucchijjissāmi nāmassu,
vinassissāmi nāmassu, nassu nāma bhavissāmīti. So na socati na kilamati na paridevati na urattāḷiṃ
kandati na sammohaṃ āpajjati. Evaṃ kho, bhikkhu, ajjhattaṃ asati aparitassanā
hoti.
243. ''Taṃ [tañca (ka.)], bhikkhave, pariggahaṃ pariggaṇheyyātha, yvāssa
[yvāssu (ka.)] pariggaho nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo, sassatisamaṃ
tatheva tiṭṭheyya. Passatha no tumhe, bhikkhave, taṃ pariggahaṃ yvāssa
pariggaho nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo, sassatisamaṃ tatheva
tiṭṭheyyāti? ''no hetaṃ, bhante. ''Sādhu, bhikkhave. Ahampi kho taṃ, bhikkhave,
pariggahaṃ na samanupassāmi yvāssa
pariggaho nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo sassatisamaṃ tatheva tiṭṭheyya.
''Taṃ, bhikkhave, attavādupādānaṃ upādiyetha, yaṃsa [yassa (syā. ka.)]
attavādupādānaṃ upādiyato na uppajjeyyuṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā.
Passatha no tumhe, bhikkhave, taṃ attavādupādānaṃ yaṃsa attavādupādānaṃ upādiyato na
uppajjeyyuṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsāti? ''no hetaṃ, bhante. ''Sādhu,
bhikkhave. Ahampi kho taṃ, bhikkhave, attavādupādānaṃ na samanupassāmi yaṃsa
attavādupādānaṃ upādiyato na uppajjeyyuṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā.
''Taṃ, bhikkhave, diṭṭhinissayaṃ nissayetha yaṃsa diṭṭhinissayaṃ nissayato na
uppajjeyyuṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā. Passatha no tumhe, bhikkhave,
taṃ diṭṭhinissayaṃ yaṃsa diṭṭhinissayaṃ nissayato na uppajjeyyuṃ
sokaparidevadukkhadomanassupāyāsāti? ''no hetaṃ, bhante. ''Sādhu, bhikkhave.
Ahampi kho taṃ, bhikkhave, diṭṭhinissayaṃ na samanupassāmi yaṃsa diṭṭhinissayaṃ
nissayato na uppajjeyyuṃ
sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā.
244. ''Attani vā, bhikkhave, sati attaniyaṃ me ti assāti? ''evaṃ, bhante.
''Attaniye vā, bhikkhave, sati attā me ti assāti? ''evaṃ, bhante. ''Attani ca, bhikkhave, attaniye ca saccato thetato
anupalabbhamāne, yampi taṃ diṭṭhiṭṭhānaṃ : 'so loko so attā, so pecca
bhavissāmi nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo, sassatisamaṃ tatheva
ṭhassāmīti : nanāyaṃ [na ca khoyaṃ (ka.)], bhikkhave, kevalo paripūro bāladhammoti?
''kiñhi no siyā, bhante, kevalo hi, bhante, paripūro [kevalo paripūro (sī.
pī.)] bāladhammoti. ''Taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, rūpaṃ niccaṃ vā aniccaṃ
vāti? ''aniccaṃ, bhante . ''Yaṃ panāniccaṃ, dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vāti?
''dukkhaṃ, bhante. ''Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu taṃ
samanupassituṃ : etaṃ mama, esohamasmi, eso me attāti? ''no hetaṃ, bhante.
''Taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, vedanā - pe - saññā... saṅkhārā... viññāṇaṃ
niccaṃ vā aniccaṃ vāti? ''aniccaṃ, bhante. ''Yaṃ panāniccaṃ, dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vāti? ''dukkhaṃ, bhante.
''Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ
vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ : etaṃ mama, esohamasmi, eso me
attāti? ''no hetaṃ, bhante. ''Tasmātiha, bhikkhave, yaṃ kiñci rūpaṃ
atītānāgatapaccuppannaṃ, ajjhattaṃ vā bahiddhā vā , oḷārikaṃ vā sukhumaṃ vā,
hīnaṃ vā paṇītaṃ vā, yaṃ dūre santike vā, sabbaṃ rūpaṃ 'netaṃ mama,
nesohamasmi, na meso attāti : evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya daṭṭhabbaṃ. Yā
kāci vedanā - pe - yā kāci saññā... ye keci saṅkhārā... yaṃ kiñci viññāṇaṃ
atītānāgatapaccuppannaṃ, ajjhattaṃ vā bahiddhā vā, oḷārikaṃ vā sukhumaṃ vā,
hīnaṃ vā paṇītaṃ vā, yaṃ dūre santike vā, sabbaṃ viññāṇaṃ 'netaṃ mama,
nesohamasmi, na meso attāti : evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya daṭṭhabbaṃ.
245. ''Evaṃ passaṃ, bhikkhave, sutavā ariyasāvako rūpasmiṃ nibbindati,
vedanāya nibbindati, saññāya nibbindati, saṅkhāresu nibbindati, viññāṇasmiṃ
nibbindati, nibbidā virajjati [nibbindaṃ virajjati (sī. syā. pī.)], virāgā
vimuccati , vimuttasmiṃ vimuttamiti ñāṇaṃ hoti. 'Khīṇā jāti, vusitaṃ
brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyāti pajānāti. Ayaṃ vuccati,
bhikkhave, bhikkhu ukkhittapaligho itipi, saṃkiṇṇaparikkho itipi, abbūḷhesiko
itipi, niraggaḷo itipi, ariyo pannaddhajo pannabhāro visaṃyutto itipi. ''Kathañca,
bhikkhave, bhikkhu ukkhittapaligho hoti? idha, bhikkhave, bhikkhuno avijjā
pahīnā hoti, ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṃkatā, āyatiṃ anuppādadhammā.
Evaṃ kho, bhikkhave, bhikkhu ukkhittapaligho hoti. ''Kathañca, bhikkhave,
bhikkhu saṃkiṇṇaparikkho hoti? idha, bhikkhave, bhikkhuno ponobbhaviko jātisaṃsāro pahīno hoti, ucchinnamūlo
tālāvatthukato anabhāvaṃkato, āyatiṃ anuppādadhammo. Evaṃ kho, bhikkhave,
bhikkhu saṃkiṇṇaparikkho hoti. ''Kathañca, bhikkhave, bhikkhu abbūḷhesiko hoti?
idha, bhikkhave, bhikkhuno taṇhā pahīnā hoti, ucchinnamūlā tālāvatthukatā
anabhāvaṃkatā, āyatiṃ anuppādadhammā. Evaṃ kho, bhikkhave, bhikkhu abbūḷhesiko
hoti. ''Kathañca, bhikkhave, bhikkhu niraggaḷo hoti? idha, bhikkhave, bhikkhuno
pañca orambhāgiyāni saṃyojanāni pahīnāni honti, ucchinnamūlāni tālāvatthukatāni
anabhāvaṃkatāni, āyatiṃ anuppādadhammāni . Evaṃ kho, bhikkhave, bhikkhu
niraggaḷo hoti.
''Kathañca, bhikkhave, bhikkhu ariyo pannaddhajo
pannabhāro visaṃyutto hoti? idha, bhikkhave, bhikkhuno asmimāno pahīno hoti,
ucchinnamūlo tālāvatthukato anabhāvaṃkato , āyatiṃ anuppādadhammo . Evaṃ kho,
bhikkhave, bhikkhu ariyo pannaddhajo pannabhāro visaṃyutto hoti.
246. ''Evaṃ vimuttacittaṃ kho, bhikkhave, bhikkhuṃ saindā devā sabrahmakā
sapajāpatikā anvesaṃ nādhigacchanti : 'idaṃ nissitaṃ tathāgatassa viññāṇanti.
Taṃ kissa hetu? diṭṭhevāhaṃ, bhikkhave, dhamme tathāgataṃ ananuvijjoti vadāmi.
Evaṃvādiṃ kho maṃ, bhikkhave, evamakkhāyiṃ eke samaṇabrāhmaṇā asatā tucchā musā
abhūtena abbhācikkhanti : 'venayiko samaṇo gotamo, sato sattassa ucchedaṃ
vināsaṃ vibhavaṃ paññāpetīti. Yathā cāhaṃ na, bhikkhave [bhikkhave na (sī. syā.
pī.)], yathā cāhaṃ na vadāmi, tathā maṃ te bhonto samaṇabrāhmaṇā asatā tucchā
musā abhūtena abbhācikkhanti : 'venayiko samaṇo gotamo, sato sattassa ucchedaṃ
vināsaṃ vibhavaṃ paññāpetīti. Pubbe cāhaṃ bhikkhave, etarahi ca dukkhañceva
paññāpemi, dukkhassa ca nirodhaṃ. Tatra ce, bhikkhave, pare tathāgataṃ
akkosanti paribhāsanti rosenti vihesenti, tatra, bhikkhave, tathāgatassa na
hoti āghāto na appaccayo na cetaso anabhiraddhi. ''Tatra ce, bhikkhave, pare
tathāgataṃ sakkaronti garuṃ karonti mānenti pūjenti, tatra, bhikkhave,
tathāgatassa na hoti ānando na somanassaṃ na cetaso uppilāvitattaṃ. Tatra ce,
bhikkhave , pare vā tathāgataṃ
sakkaronti garuṃ karonti mānenti pūjenti, tatra, bhikkhave, tathāgatassa evaṃ
hoti : 'yaṃ kho idaṃ pubbe pariññātaṃ tattha me evarūpā kārā [sakkārā (ka.)]
karīyantīti. Tasmātiha, bhikkhave, tumhe cepi pare akkoseyyuṃ paribhāseyyuṃ
roseyyuṃ viheseyyuṃ, tatra tumhe hi na āghāto na appaccayo na cetaso
anabhiraddhi karaṇīyā. Tasmātiha, bhikkhave, tumhe cepi pare sakkareyyuṃ garuṃ
kareyyuṃ māneyyuṃ pūjeyyuṃ, tatra tumhehi na ānando na somanassaṃ na cetaso
uppilāvitattaṃ karaṇīyaṃ. Tasmātiha, bhikkhave, tumhe cepi pare sakkareyyuṃ
garuṃ kareyyuṃ māneyyuṃ pūjeyyuṃ, tatra
tumhākaṃ evamassa : 'yaṃ kho idaṃ pubbe pariññātaṃ, tattha me [tattha no (ka.)
tattha + imeti padacchedo] evarūpā kārā karīyantīti.
247. ''Tasmātiha, bhikkhave, yaṃ na tumhākaṃ taṃ pajahatha taṃ vo pahīnaṃ
dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissati. Kiñca, bhikkhave, na tumhākaṃ? rūpaṃ,
bhikkhave, na tumhākaṃ, taṃ pajahatha taṃ vo pahīnaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya
bhavissati. Vedanā, bhikkhave, na tumhākaṃ, taṃ
pajahatha sā vo pahīnā dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissati. Saññā,
bhikkhave, na tumhākaṃ, taṃ pajahatha sā vo pahīnā dīgharattaṃ hitāya sukhāya
bhavissati. Saṅkhārā, bhikkhave, na tumhākaṃ, te pajahatha te vo pahīnā
dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissanti. Viññāṇaṃ, bhikkhave, na tumhākaṃ, taṃ
pajahatha taṃ vo pahīnaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissati. Taṃ kiṃ
maññatha, bhikkhave, yaṃ imasmiṃ
jetavane tiṇakaṭṭhasākhāpalāsaṃ, taṃ jano hareyya vā daheyya vā yathāpaccayaṃ
vā kareyya. Api nu tumhākaṃ evamassa : 'amhe jano harati vā dahati vā
yathāpaccayaṃ vā karotīti? ''no hetaṃ, bhante. ''Taṃ kissa hetu? ''na hi no
etaṃ, bhante, attā vā attaniyaṃ vāti. ''Evameva kho, bhikkhave, yaṃ na tumhākaṃ
taṃ pajahatha taṃ vo pahīnaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissati. Kiñca,
bhikkhave, na tumhākaṃ? rūpaṃ, bhikkhave, na tumhākaṃ, taṃ pajahatha taṃ vo
pahīnaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissati. Vedanā, bhikkhave - pe - saññā,
bhikkhave... saṅkhārā, bhikkhave - pe - viññāṇaṃ, bhikkhave, na tumhākaṃ, taṃ
pajahatha taṃ vo pahīnaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissati.
248. ''Evaṃ svākkhāto, bhikkhave,
mayā dhammo uttāno vivaṭo pakāsito chinnapilotiko. Evaṃ svākkhāte, bhikkhave,
mayā dhamme uttāne vivaṭe pakāsite chinnapilotike ye te bhikkhū arahanto
khīṇāsavā vusitavanto katakaraṇīyā ohitabhārā anuppattasadatthā parikkhīṇabhavasaṃyojanā
sammadaññā vimuttā, vaṭṭaṃ tesaṃ natthi paññāpanāya. Evaṃ svākkhāto, bhikkhave,
mayā dhammo uttāno vivaṭo pakāsito chinnapilotiko. Evaṃ svākkhāte, bhikkhave,
mayā dhamme uttāne vivaṭe pakāsite chinnapilotike yesaṃ bhikkhūnaṃ
pañcorambhāgiyāni saṃyojanāni pahīnāni,
sabbe te opapātikā, tattha
parinibbāyino, anāvattidhammā tasmā lokā. Evaṃ svākkhāto, bhikkhave,
mayā dhammo uttāno vivaṭo pakāsito chinnapilotiko. Evaṃ svākkhāte, bhikkhave,
mayā dhamme uttāne vivaṭe pakāsite chinnapilotike yesaṃ bhikkhūnaṃ tīṇi
saṃyojanāni pahīnāni, rāgadosamohā tanubhūtā, sabbe te sakadāgāmino, sakideva
imaṃ lokaṃ āgantvā dukkhassantaṃ karissanti. Evaṃ svākkhāto, bhikkhave, mayā
dhammo uttāno vivaṭo pakāsito chinnapilotiko. Evaṃ svākkhāte, bhikkhave, mayā
dhamme uttāne vivaṭe pakāsite chinnapilotike yesaṃ bhikkhūnaṃ tīṇi saṃyojanāni
pahīnāni, sabbe te sotāpannā, avinipātadhammā , niyatā sambodhiparāyanā. Evaṃ
svākkhāto, bhikkhave, mayā dhammo uttāno vivaṭo pakāsito chinnapilotiko. Evaṃ
svākkhāte, bhikkhave, mayā dhamme uttāne vivaṭe pakāsite chinnapilotike ye te
bhikkhū dhammānusārino saddhānusārino sabbe te sambodhiparāyanā. Evaṃ
svākkhāto, bhikkhave, mayā dhammo uttāno vivaṭo pakāsito chinnapilotiko. Evaṃ
svākkhāte, bhikkhave, mayā dhamme uttāne vivaṭe pakāsite chinnapilotike yesaṃ
mayi saddhāmattaṃ pemamattaṃ sabbe te saggaparāyanāti. Idamavoca Bhagavā.
Attamanā te bhikkhū bhagavato bhāsitaṃ abhinandunti.
Alagaddūpamasuttaṃ niṭṭhitaṃ dutiyaṃ.
-ooOoo-
22. Alagaddūpamasuttavaṇṇanā
[Atthakathā]
234. Evaṃ me sutanti alagaddūpamasuttaṃ. Tattha gaddhe bādhayiṃsūti
gaddhabādhino, gaddhabādhino pubbapurisā assāti gaddhabādhipubbo, tassa
gaddhabādhipubbassa, gijjhaghātakakulappasutassāti attho. Saggamokkhānaṃ
antarāyaṃ karontīti antarāyikā. Te kammakilesavipākaupavādaāṇāvītikkamavasena
pañcavidhā. Tattha pañcānantariyadhammā kammantarāyikā nāma. Tathā
bhikkhunīdūsakakammaṃ, taṃ pana mokkhasseva antarāyaṃ karoti, na saggassa.
Niyatamicchādiṭṭhidhammā kilesantarāyikā nāma.
Paṇḍakatiracchānagataubhatobyañjanakānaṃ paṭisandhidhammā vipākantarāyikā nāma.
Ariyūpavādadhammā upavādantarāyikā nāma, te pana yāva ariye na khamāpenti,
tāvadeva, na tato paraṃ. Sañcicca vītikkantā satta āpattikkhandhā
āṇāvītikkamantarāyikā nāma. Tepi yāva bhikkhubhāvaṃ vā paṭijānāti, na vuṭṭhāti
vā, na deseti vā, tāvadeva, na tato paraṃ.
Tatrāyaṃ bhikkhu bahussuto dhammakathiko
sesantarāyike jānāti, vinaye pana akovidattā paṇṇattivītikkamantarāyike na
jānāti, tasmā rahogato evaṃ cintesi – ime āgārikā pañca kāmaguṇe paribhuñjantā
sotāpannāpi sakadāgāminopi anāgāminopi honti. Bhikkhūpi manāpikāni
cakkhuviññeyyāni rūpāni passanti…pe… kāyaviññeyye phoṭṭhabbe phusanti, mudukāni
attharaṇapāvuraṇādīni paribhuñjanti, etaṃ sabbaṃ vaṭṭati. Kasmā itthīnaṃyeva
rūpasaddagandharasaphoṭṭhabbā na vaṭṭanti? Etepi vaṭṭantīti. Evaṃ rasena rasaṃ
saṃsandetvā sacchandarāgaparibhogañca nicchandarāgaparibhogañca ekaṃ katvā
thūlavākehi saddhiṃ atisukhumasuttaṃ upanento viya, sāsapena saddhiṃ sineruṃ
upasaṃharanto viya, pāpakaṃ diṭṭhigataṃ uppādetvā, ‘‘kiṃ bhagavatā mahāsamuddaṃ
bandhantena viya mahatā ussāhena paṭhamapārājikaṃ paññattaṃ, natthi ettha
doso’’ti sabbaññutaññāṇena saddhiṃ paṭivirujjhanto vesārajjañāṇaṃ paṭibāhanto
ariyamagge khāṇukaṇṭakādīni pakkhipanto methunadhamme doso natthīti jinassa
āṇācakke pahāraṃ adāsi. Tenāha – ‘‘tathāhaṃ bhagavatā dhammaṃ desitaṃ
ājānāmī’’tiādi.
Evaṃ byā khoti evaṃ viya kho. Samanuyuñjantītiādīsu
kiṃ laddhiko tvaṃ, laddhiṃ vadehīti pucchamānā samanuyuñjanti nāma. Diṭṭhiṃ
patiṭṭhāpentā samanuggāhanti nāma. Kena kāraṇena evaṃ vadasīti kāraṇaṃ
pucchantā samanubhāsanti nāma. Aṭṭhikaṅkalūpamātiādīsu (ma. ni. 2.42-48)
aṭṭhikaṅkalūpamā appassādaṭṭhena. Maṃsapesūpamā bahusādhāraṇaṭṭhena.
Tiṇukkūpamā anudahanaṭṭhena. Aṅgārakāsūpamā mahābhitāpanaṭṭhena. Supinakūpamā
ittarapaccupaṭṭhānaṭṭhena. Yācitakūpamā tāvakālikaṭṭhena. Rukkhaphalūpamā
sabbaṅgapaccaṅgapalibhañjanaṭṭhena. Asisūnūpamā adhikuṭṭanaṭṭhena.
Sattisūlūpamā vinivijjhanaṭṭhena. Sappasirūpamā sāsaṅkasappaṭibhayaṭṭhena.
Thāmasāti diṭṭhithāmena. Parāmāsāti diṭṭhiparāmāsena. Abhinivissa voharatīti
adhiṭṭhahitvā voharati dīpeti vā.
235. Yato kho te bhikkhūti yadā te bhikkhū. Evaṃ
byā kho ahaṃ, bhante, bhagavatāti idaṃ esa attano ajjhāsayena natthīti
vattukāmopi bhagavato ānubhāvena sampaṭicchati, buddhānaṃ kira sammukhā dve
kathā kathetuṃ samattho nāma natthi.
236. Kassa kho nāma tvaṃ moghapurisāti tvaṃ
moghapurisa kassa khattiyassa vā brāhmaṇassa vā vessassa vā suddassa vā
gahaṭṭhassa vā pabbajitassa vā devassa vā manussassa vā mayā evaṃ dhammaṃ
desitaṃ ājānāsi. Atha kho bhagavā bhikkhū āmantesīti ayaṃ pāṭiyekko anusandhi.
Ariṭṭho kira cintesi – ‘‘bhagavā maṃ moghapurisoti vadati, na kho pana
moghapurisāti vuttamattakena maggaphalānaṃ upanissayo na hoti. Upasenampi hi
vaṅgantaputtaṃ, ‘atilahuṃ kho tvaṃ, moghapurisa, bāhullāya āvatto’ti (mahāva.
75) bhagavā moghapurisavādena ovadi. Thero aparabhāge ghaṭento vāyamanto cha
abhiññā sacchākāsi. Ahampi tathārūpaṃ vīriyaṃ paggaṇhitvā maggaphalāni
nibbattessāmī’’ti. Athassa bhagavā bandhanā pavuttassa paṇḍupalāsassa viya
aviruḷhibhāvaṃ dassento imaṃ desanaṃ ārabhi.
Usmīkatopīti, bhikkhave, tumhe kinti maññatha, ayaṃ
ariṭṭho evaṃladdhiko sabbaññutaññāṇena paṭivirujjhitvā vesārajjañāṇaṃ
paṭibāhitvā tathāgatassa āṇācakke pahāraṃ dadamāno api nu imasmiṃ dhammavinaye
usmīkatopi? Yathā nibbutepi mahante aggikkhandhe khajjupanakamattāpi
aggipapaṭikā hotiyeva, yaṃ nissāya puna mahāaggikkhandho bhaveyya. Kiṃ nu kho
evaṃ imassa appamattikāpi ñāṇusmā atthi, yaṃ nissāya vāyamanto maggaphalāni
nibbatteyyāti? No hetaṃ, bhanteti, bhante, evaṃladdhikassa kuto evarūpā
ñāṇusmāti? Maggaphalānaṃ paccayasamatthāya ñāṇusmāya usmīkatabhāvaṃ
paṭikkhipantā vadanti. Maṅkubhūtoti nittejabhūto. Pattakkhandhoti
patitakkhandho. Appaṭibhānoti kiñci paṭibhānaṃ apassanto bhinnapaṭibhāno
evarūpampi nāma niyyānikasāsanaṃ labhitvā aviruḷhidhammo kiramhi
samugghātitapaccayo jātoti attano abhabbataṃ paccavekkhanto pādaṅguṭṭhakena
bhūmiṃ khaṇamāno nisīdi.
Paññāyissasi khoti ayampi pāṭiyekko anusandhi.
Ariṭṭho kira cintesi – ‘‘bhagavā mayhaṃ maggaphalānaṃ upanissayo pacchinnoti
vadati, na kho pana buddhā saupanissayānaṃyeva dhammaṃ desenti,
anupanissayānampi desenti, ahaṃ satthu santikā sugatovādaṃ labhitvā attano
sampattūpagaṃ kusalaṃ karissāmī’’ti. Athassa bhagavā ovādaṃ paṭipassambhento
‘‘paññāyissasī’’tiādimāha. Tassattho, tvaṃyeva, moghapurisa, iminā pāpakena
diṭṭhigatena nirayādīsu paññāyissasi, mama santikā tuyhaṃ sugatovādo nāma
natthi, na me tayā attho, idhāhaṃ bhikkhū paṭipucchissāmīti.
237. Atha kho bhagavāti ayampi pāṭiyekko anusandhi. Imasmiñhi ṭhāne bhagavā
parisaṃ sodheti, ariṭṭhaṃ gaṇato nissāreti. Sace hi parisagatānaṃ kassaci evaṃ
bhaveyya – ‘‘ayaṃ ariṭṭho bhagavatā akathitaṃ kathetuṃ kiṃ sakkhissati, kacci
nu kho parisamajjhe bhagavatā kathāya samāraddhāya sahasā kathita’’nti. Evaṃ
kathitaṃ pana na ariṭṭhova suṇāti, aññenapi sutaṃ bhavissati. Athāpissa siyā
‘‘yathā satthā ariṭṭhaṃ niggaṇhāti, mampi evaṃ niggaṇheyyāti sutvāpi
tuṇhībhāvaṃ āpajjeyyā’’ti. ‘‘Taṃ sabbaṃ na karissantī’’ti. Mayāpi na kathitaṃ,
aññena sutampi natthīti ‘‘tumhepime, bhikkhave’’tiādinā parisāya laddhiṃ
sodheti. Parisāya pana laddhisodhaneneva ariṭṭho gaṇato nissārito nāma hoti.
Idāni ariṭṭhassa laddhiṃ pakāsento so vata,
bhikkhavetiādimāha. Tattha aññatreva kāmehītiādīsu yo so, bhikkhave, bhikkhu
‘‘te paṭisevato nālaṃ antarāyāyā’’ti evaṃladdhiko, so vata kilesakāmehi ceva
kilesakāmasampayuttehi saññāvitakkehi ca aññatra, ete dhamme pahāya, vinā etehi
dhammehi, vatthukāme paṭisevissati, methunasamācāraṃ samācarissatīti netaṃ
ṭhānaṃ vijjati. Idaṃ kāraṇaṃ nāma natthi, aṭṭhānametaṃ anavakāsoti.
238. Evaṃ bhagavā ayaṃ ariṭṭho yathā nāma rajako sugandhānipi duggandhānipi
jiṇṇānipi navānipi suddhānipi asuddhānipi vatthāni ekato bhaṇḍikaṃ karoti,
evameva bhikkhūnaṃ nicchandarāgapaṇītacīvarādiparibhogañca anibaddhasīlānaṃ
gahaṭṭhānaṃ antarāyakaraṃ sacchandarāgaparibhogañca nibaddhasīlānaṃ bhikkhūnaṃ
āvaraṇakaraṃ sacchandarāgaparibhogañca sabbaṃ ekasadisaṃ karotīti ariṭṭhassa
laddhiṃ pakāsetvā idāni duggahitāya pariyattiyā dosaṃ dassento idha, bhikkhave,
ekaccetiādimāha. Tattha pariyāpuṇantīti uggaṇhanti. Suttantiādīsu
ubhatovibhaṅganiddesakhandhakaparivārā, suttanipāte
maṅgalasuttaratanasuttanālakasuātuvaṭṭakasuttāni, aññampi ca suttanāmakaṃ
tathāgatavacanaṃ suttanti veditabbaṃ. Sabbampi sagāthakaṃ suttaṃ geyyanti
veditabbaṃ, visesena saṃyuttake sakalopi sagāthāvaggo. Sakalaṃ
abhidhammapiṭakaṃ, niggāthakaṃ suttaṃ, yañca aññampi aṭṭhahi aṅgehi asaṅgahitaṃ
buddhavacanaṃ, taṃ veyyākaraṇanti veditabbaṃ. Dhammapadaṃ, theragāthā,
therigāthā, suttanipāte nosuttanāmikā suddhikagāthā ca gāthāti veditabbā.
Somanassañāṇamayikagāthāpaṭisaṃyuttā dveasītisuttantā udānanti veditabbā.
‘‘Vuttañhetaṃ bhagavatā’’tiādinayappavattā (itivu. 1,2) dasuttarasatasuttantā
itivuttakanti veditabbā. Apaṇṇakajātakādīni paṇṇāsādhikāni pañcajātakasatāni
jātakanti veditabbāni. ‘‘Cattārome, bhikkhave, acchariyā abbhutā dhammā
ānande’’tiādinayappavattā (a. ni. 4.129) sabbepi
acchariyaabbhutadhammappaṭisaṃyuttā suttantā abbhutadhammanti veditabbā.
Cūḷavedallamahāvedallasammādiṭṭhisakkapañhasaṅkhārabhājaniyamahāpuṇṇamasuttādayo
sabbepi vedañca tuṭṭhiñca laddhā laddhā pucchitasuttantā vedallanti veditabbā.
Atthaṃ na upaparikkhantīti atthatthaṃ kāraṇatthaṃ
na passanti na pariggaṇhanti. Anupaparikkhatanti anupaparikkhantānaṃ. Na
nijjhānaṃ khamantīti na upaṭṭhahanti na āpāthaṃ āgacchanti, imasmiṃ ṭhāne sīlaṃ
samādhi vipassanā maggo phalaṃ vaṭṭaṃ vivaṭṭaṃ kathitanti evaṃ jānituṃ na sakkā
hontīti attho. Te upārambhānisaṃsā cevāti te paresaṃ vāde dosāropanānisaṃsā
hutvā pariyāpuṇantīti attho. Itivādappamokkhānisaṃsā cāti evaṃ
vādapamokkhānisaṃsā, parehi sakavāde dose āropite taṃ dosaṃ evaṃ mocessāmāti
imināva kāraṇena pariyāpuṇantīti attho. Tañcassa atthaṃ nānubhontīti yassa ca
maggassa vā phalassa vā atthāya kulaputtā dhammaṃ pariyāpuṇanti, tañcassa
dhammassa atthaṃ ete duggahitaggāhino nānubhonti. Apica parassa vāde upārambhaṃ
āropetuṃ attano vādaṃ mocetuṃ asakkontāpi tañca atthaṃ nānubhontiyeva.
239. Alagaddatthikoti āsivisaatthiko. Gadoti hi visassa nāmaṃ, taṃ tassa
alaṃ paripuṇṇaṃ atthīti alagaddo. Bhogeti sarīre. Idha pana, bhikkhave, ekacce
kulaputtā dhammaṃ pariyāpuṇantīti nittharaṇapariyattivasena uggaṇhanti. Tisso
hi pariyattiyo alagaddapariyatti nittharaṇapariyatti bhaṇḍāgārikapariyattīti.
Tattha yo buddhavacanaṃ uggahetvā evaṃ cīvarādīni
vā labhissāmi, catuparisamajjhe vā maṃ jānissantīti lābhasakkārahetu
pariyāpuṇāti, tassa sā pariyatti alagaddapariyatti nāma. Evaṃ pariyāpuṇato hi
buddhavacanaṃ apariyāpuṇitvā niddokkamanaṃ varataraṃ.
Yo pana buddhavacanaṃ uggaṇhitvā sīlassa
āgataṭṭhāne sīlaṃ pūretvā samādhissa āgataṭṭhāne samādhigabbhaṃ gaṇhāpetvā
vipassanāya āgataṭṭhāne vipassanaṃ paṭṭhapetvā maggaphalānaṃ āgataṭṭhāne maggaṃ
bhāvessāmi phalaṃ sacchikarissāmīti uggaṇhāti, tassa sā pariyatti
nittharaṇapariyatti nāma hoti.
Khīṇāsavassa pana pariyatti bhaṇḍāgārikapariyatti
nāma. Tassa hi apariññātaṃ appahīnaṃ abhāvitaṃ asacchikataṃ vā natthi. So hi
pariññātakkhandho pahīnakileso bhāvitamaggo sacchikataphalo, tasmā
buddhavacanaṃ pariyāpuṇanto tantidhārako paveṇipālako vaṃsānurakkhakova hutvā
uggaṇhāti. Itissa sā pariyatti bhaṇḍāgārikapariyatti nāma hoti.
Yo pana puthujjano chātabhayādīsu ganthadharesu
ekasmiṃ ṭhāne vasituṃ asakkontesu sayaṃ bhikkhācārena akilamamāno atimadhuraṃ
buddhavacanaṃ mā nassatu, tantiṃ dhāressāmi, vaṃsaṃ ṭhapessāmi, paveṇiṃ
pālessāmīti pariyāpuṇāti, tassa pariyatti bhaṇḍāgārikapariyatti hoti, na
hotīti? Na hoti. Kasmā? Na attano ṭhāne ṭhatvā pariyāputattā. Puthujjanassa hi
pariyatti nāma alagaddā vā hoti nittharaṇā vā, sattannaṃ sekkhānaṃ
nittharaṇāva, khīṇāsavassa bhaṇḍāgārikapariyattiyeva. Imasmiṃ pana ṭhāne
nittharaṇapariyatti adhippetā.
Nijjhānaṃ khamantīti sīlādīnaṃ āgataṭṭhānesu idha
sīlaṃ kathitaṃ, idha samādhi, idha vipassanā, idha maggo, idha phalaṃ, idha
vaṭṭaṃ, idha vivaṭṭanti āpāthaṃ āgacchanti. Tañcassa atthaṃ anubhontīti yesaṃ
maggaphalānaṃ atthāya pariyāpuṇanti. Suggahitapariyattiṃ nissāya maggaṃ
bhāvetvā phalaṃ sacchikarontā tañcassa dhammassa atthaṃ anubhavanti. Paravāde
upārambhaṃ āropetuṃ sakkontāpi sakavāde āropitaṃ dosaṃ icchiticchitaṭṭhānaṃ
gahetvā mocetuṃ sakkontāpi anubhontiyeva. Dīgharattaṃ hitāya sukhāya
saṃvattantīti sīlādīnaṃ āgataṭṭhāne sīlādīni pūrentānampi, paresaṃ vāde
sahadhammena upārambhaṃ āropentānampi, sakavādato dosaṃ harantānampi, arahattaṃ
patvā parisamajjhe dhammaṃ desetvā dhammadesanāya pasannehi upanīte cattāro paccaye
paribhuñjantānampi dīgharattaṃ hitāya sukhāya saṃvattanti.
Evaṃ suggahite buddhavacane ānisaṃsaṃ dassetvā
idāni tattheva niyojento tasmā tiha, bhikkhavetiādimāha. Tattha tasmāti yasmā
duggahitapariyatti duggahitaalagaddo viya dīgharattaṃ ahitāya dukkhāya
saṃvattati, suggahitapariyatti suggahitaalagaddo viya dīgharattaṃ hitāya
sukhāya saṃvattati, tasmāti attho. Tathā naṃ dhāreyyāthāti tatheva naṃ
dhāreyyātha, teneva atthena gaṇheyyātha. Ye vā panāssu viyattā bhikkhūti ye vā
pana aññe sāriputtamoggallānamahākassapamahākaccānādikā byattā paṇḍitā bhikkhū
assu, te pucchitabbā. Ariṭṭhena viya pana mama sāsane na kalalaṃ vā kacavaraṃ
vā pakkhipitabbaṃ.
240. Kullūpamanti kullasadisaṃ. Nittharaṇatthāyāti
caturoghanittharaṇatthāya. Udakaṇṇavanti yañhi udakaṃ gambhīraṃ na puthulaṃ.
Puthulaṃ vā pana na gambhīraṃ, na taṃ aṇṇavoti vuccati. Yaṃ pana gambhīrañceva
puthulañca, taṃ aṇṇavoti vuccati. Tasmā mahantaṃ udakaṇṇavanti mahantaṃ
puthulaṃ gambhīraṃ udakanti ayamettha attho. Sāsaṅkaṃ nāma yattha corānaṃ
nivutthokāso dissati. Ṭhitokāso, nisinnokāso, nipannokāso dissati.
Sappaṭibhayaṃ nāma yattha corehi manussā hatā dissanti, viluttā dissanti,
ākoṭitā dissanti. Uttarasetūti udakaṇṇavassa upari baddho setu. Kullaṃ
bandhitvāti kullo nāma taraṇatthāya kalāpaṃ katvā baddho. Pattharitvā baddhā
pana padaracāṭiādayo uḷumpoti vuccanti. Uccāretvāti ṭhapetvā. Kiccakārīti
pattakārī yuttakārī, patirūpakārīti attho. Dhammāpi vo pahātabbāti ettha
dhammāti samathavipassanā. Bhagavā hi samathepi chandarāgaṃ pajahāpesi,
vipassanāyapi. Samathe chandarāgaṃ kattha pajahāpesi? ‘‘Iti kho, udāyi,
nevasaññānāsaññāyatanassapi pahānaṃ vadāmi, passasi no tvaṃ, udāyi, taṃ
saṃyojanaṃ aṇuṃ vā thūlaṃ vā, yassāhaṃ no pahānaṃ vadāmī’’ti (ma. ni. 2.156)
ettha samathe chandarāgaṃ pajahāpesi. ‘‘Imaṃ ce tumhe, bhikkhave, diṭṭhiṃ evaṃ
parisuddhaṃ evaṃ pariyodātaṃ na allīyetha na kelāyetha na dhanāyethā’’ti (ma.
ni. 1.401) ettha vipassanāya chandarāgaṃ pajahāpesi. Idha pana ubhayattha
pajahāpento ‘‘dhammāpi vo pahātabbā, pageva adhammā’’ti āha.
Tatrāyaṃ adhippāyo – bhikkhave, ahaṃ evarūpesu
santappaṇītesu dhammesu chandarāgappahānaṃ vadāmi, kiṃ pana imasmiṃ asaddhamme
gāmadhamme vasaladhamme duṭṭhulle odakantike, yattha ayaṃ ariṭṭho moghapuriso
niddosasaññī pañcasu kāmaguṇesu chandarāgaṃ nālaṃ antarāyāyāti vadati.
Ariṭṭhena viya na tumhehi mayhaṃ sāsane kalalaṃ vā kacavaraṃ vā
pakkhipitabbanti evaṃ bhagavā imināpi ovādena ariṭṭhaṃyeva niggaṇhāti.
241. Idāni yo pañcasu khandhesu tividhaggāhavasena ahaṃ mamanti gaṇhāti, so
mayhaṃ sāsane ayaṃ ariṭṭho viya kalalaṃ kacavaraṃ pakkhipatīti dassento
chayimāni, bhikkhavetiādimāha. Tattha diṭṭhiṭṭhānānīti diṭṭhipi diṭṭhiṭṭhānaṃ,
diṭṭhiyā ārammaṇampi diṭṭhiṭṭhānaṃ, diṭṭhiyā paccayopi. Rūpaṃ etaṃ mamātiādīsu
etaṃ mamāti taṇhāggāho. Esohamasmīti mānaggāho. Eso me attāti diṭṭhiggāho. Evaṃ
rūpārammaṇā taṇhāmānadiṭṭhiyo kathitā honti. Rūpaṃ pana attāti na vattabbaṃ.
Vedanādīsupi eseva nayo. Diṭṭhaṃ rūpāyatanaṃ, sutaṃ saddāyatanaṃ, mutaṃ
gandhāyatanaṃ rasāyatanaṃ phoṭṭhabbāyatanaṃ, tañhi patvā gahetabbato mutanti
vuttaṃ. Avasesāni sattāyatanāni viññātaṃ nāma. Pattanti pariyesitvā vā
apariyesitvā vā pattaṃ. Pariyesitanti pattaṃ vā appattaṃ vā pariyesitaṃ.
Anuvicaritaṃ manasāti cittena anusañcaritaṃ. Lokasmiñhi pariyesitvā pattampi
atthi, pariyesitvā nopattampi. Apariyesitvā pattampi atthi, apariyesitvā
nopattampi. Tattha pariyesitvā pattaṃ pattaṃ nāma. Pariyesitvā nopattaṃ
pariyesitaṃ nāma. Apariyesitvā pattañca, apariyesitvā nopattañca
manasānuvicaritaṃ nāma.
Atha vā pariyesitvā pattampi apariyesitvā pattampi
pattaṭṭhena pattaṃ nāma. Pariyesitvā nopattaṃ pariyesitaṃ nāma. Apariyesitvā
nopattaṃ manasānuvicaritaṃ nāma. Sabbaṃ vā etaṃ manasā anuvicaritattā
manasānuvicaritaṃ nāma. Iminā viññāṇārammaṇā taṇhāmānadiṭṭhiyo kathitā,
desanāvilāsena heṭṭhā diṭṭhādiārammaṇavasena viññāṇaṃ dassitaṃ. Yampi taṃ
diṭṭhiṭṭhānanti yampi etaṃ so lokotiādinā nayena pavattaṃ diṭṭhiṭṭhānaṃ.
So loko so attāti yā esā ‘‘rūpaṃ attato
samanupassatī’’tiādinā nayena pavattā diṭṭhi loko ca attā cāti gaṇhāti, taṃ
sandhāya vuttaṃ. So pecca bhavissāmīti so ahaṃ paralokaṃ gantvā nicco
bhavissāmi, dhuvo sassato avipariṇāmadhammo bhavissāmi,
sinerumahāpathavīmahāsamuddādīhi sassatīhi samaṃ tatheva ṭhassāmi. Tampi etaṃ
mamāti tampi dassanaṃ etaṃ mama, esohamasmi, eso me attāti samanupassati. Iminā
diṭṭhārammaṇā taṇhāmānadiṭṭhiyo kathitā. Vipassanāya paṭivipassanākāle viya
pacchimadiṭṭhiyā purimadiṭṭhiggahaṇakāle evaṃ hoti.
Sukkapakkhe rūpaṃ netaṃ mamāti rūpe
taṇhāmānadiṭṭhiggāhā paṭikkhittā. Vedanādīsupi eseva nayo. Samanupassatīti
imassa pana padassa taṇhāsamanupassanā mānasamanupassanā diṭṭhisamanupassanā
ñāṇasamanupassanāti catasso samanupassanāti attho. Tā kaṇhapakkhe tissannaṃ
samanupassanānaṃ, sukkapakkhe ñāṇasamanupassanāya vasena veditabbā. Asati na
paritassatīti avijjamāne bhayaparitassanāya taṇhāparitassanāya vā na
paritassati. Iminā bhagavā ajjhattakkhandhavināse aparitassamānaṃ khīṇāsavaṃ
dassento desanaṃ matthakaṃ pāpesi.
242. Evaṃ vutte aññataro bhikkhūti evaṃ bhagavatā vutte aññataro
anusandhikusalo bhikkhu – ‘‘bhagavatā ajjhattakkhandhavināse aparitassantaṃ
khīṇāsavaṃ dassetvā desanā niṭṭhāpitā, ajjhattaṃ aparitassante kho pana sati
ajjhattaṃ paritassakena bahiddhā parikkhāravināse paritassakena aparitassakena
cāpi bhavitabbaṃ. Iti imehi catūhi kāraṇehi ayaṃ pañho pucchitabbo’’ti cintetvā
ekaṃsaṃ cīvaraṃ katvā añjaliṃ paggayha bhagavantaṃ etadavoca. Bahiddhā asatīti
bahiddhā parikkhāravināse. Ahu vata meti ahosi vata me bhaddakaṃ yānaṃ vāhanaṃ
hiraññaṃ suvaṇṇanti attho. Taṃ vata me natthīti taṃ vata idāni mayhaṃ natthi,
rājūhi vā corehi vā haṭaṃ, agginā vā daḍḍhaṃ, udakena vā vuḷhaṃ, paribhogena vā
jiṇṇaṃ. Siyā vata meti bhaveyya vata mayhaṃ yānaṃ vāhanaṃ hiraññaṃ suvaṇṇaṃ
sāli vīhi yavo godhumo. Taṃ vatāhaṃ na labhāmīti tamahaṃ alabhamāno
tadanucchavikaṃ kammaṃ akatvā nisinnattā idāni na labhāmīti socati, ayaṃ
agāriyasocanā, anagāriyassa pattacīvarādīnaṃ vasena veditabbā.
Aparitassanāvāre na evaṃ hotīti yehi kilesehi evaṃ
bhaveyya, tesaṃ pahīnattā na evaṃ hoti.
Diṭṭhiṭṭhānādhiṭṭhānapariyuṭṭhānābhinivesānusayānanti diṭṭhīnañca
diṭṭhiṭṭhānānañca diṭṭhādhiṭṭhānānañca diṭṭhipariyuṭṭhānānañca
abhinivesānusayānañca. Sabbasaṅkhārasamathāyāti nibbānatthāya. Nibbānañhi
āgamma sabbasaṅkhārāiñjitāni, sabbasaṅkhāracalanāni sabbasaṅkhāravipphanditāni
sammanti vūpasammanti, tasmā taṃ, ‘‘sabbasaṅkhārasamatho’’ti vuccati. Tadeva ca
āgamma khandhūpadhi kilesūpadhi abhisaṅkhārūpadhi, pañcakāmaguṇūpadhīti ime
upadhayo paṭinissajjiyanti, taṇhā khīyati virajjati nirujjhati, tasmā taṃ,
‘‘sabbūpadhipaṭinissaggo taṇhākkhayo virāgo nirodho’’ti vuccati. Nibbānāyāti
ayaṃ panassa sarūpaniddeso, iti sabbeheva imehi padehi nibbānassa
sacchikiriyatthāya dhammaṃ desentassāti ayamattho dīpito. Tassevaṃ hotīti tassa
diṭṭhigatikassa ucchijjissāmi nāmassu, vinassissāmi nāmassu, nāssu nāma
bhavissāmīti evaṃ hoti. Diṭṭhigatikassa hi tilakkhaṇaṃ āropetvā
suññatāpaṭisaṃyuttaṃ katvā desiyamānaṃ dhammaṃ suṇantassa tāso uppajjati.
Vuttañhetaṃ – ‘‘tāso heso, bhikkhave, asutavato puthujjanassa no cassaṃ, no ca
me siyā’’ti (saṃ. ni. 3.55).
243. Ettāvatā bahiddhāparikkhāravināse tassanakassa ca notassanakassa ca
ajjhattakkhandhavināse tassanakassa ca notassanakassa cāti imesaṃ vasena
catukkoṭikā suññatā kathitā. Idāni bahiddhā parikkhāraṃ pariggahaṃ nāma katvā,
vīsativatthukaṃ sakkāyadiṭṭhiṃ attavādupādānaṃ nāma katvā, sakkāyadiṭṭhipamukhā
dvāsaṭṭhi diṭṭhiyo diṭṭhinissayaṃ nāma katvā tikoṭikaṃ suññataṃ dassetuṃ taṃ,
bhikkhave, pariggahantiādimāha. Tattha pariggahanti bahiddhā parikkhāraṃ.
Pariggaṇheyyāthāti yathā viññū manusso pariggaṇheyya. Ahampi kho taṃ,
bhikkhaveti, bhikkhave, tumhepi na passatha, ahampi na passāmi, iti evarūpo
pariggaho natthīti dasseti. Evaṃ sabbattha attho veditabbo.
244. Evaṃ tikoṭikaṃ suññataṃ dassetvā idāni ajjhattakkhandhe attāti bahiddhā
parikkhāre attaniyanti katvā dvikoṭikaṃ dassento attani vā, bhikkhave,
satītiādimāha. Tattha ayaṃ saṅkhepattho, bhikkhave, attani vā sati idaṃ me
parikkhārajātaṃ attaniyanti assa, attaniyeva vā parikkhāre sati ayaṃ me attā
imassa parikkhārassa sāmīti, evaṃ ahanti. Sati mamāti, mamāti sati ahanti
yuttaṃ bhaveyya. Saccatoti bhūtato, thetatoti tathato thirato vā.
Idāni ime pañcakkhandhe aniccaṃ dukkhaṃ anattāti
evaṃ tiparivaṭṭavasena aggaṇhanto ayaṃ ariṭṭho viya mayhaṃ sāsane kalalaṃ
kacavaraṃ pakkhipatīti dassento taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, rūpaṃ niccaṃ
vātiādimāha. Tattha aniccaṃ, bhanteti, bhante, yasmā hutvā na hoti, tasmā
aniccaṃ. Uppādavayavattito vipariṇāmatāvakālikaniccapaṭikkhepaṭṭhena vāti
catūhi kāraṇehi aniccaṃ. Dukkhaṃ, bhanteti, bhante, paṭipīḷanākārena dukkhaṃ,
santāpadukkhamadukkhavatthukasukhapaṭikkhepaṭṭhena vāti catūhi kāraṇehi
dukkhaṃ. Vipariṇāmadhammanti bhavasaṅkantiupagamanasabhāvaṃ
pakatibhāvavijahanasabhāvaṃ. Kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ etaṃ mama,
esohamasmi, eso me attāti yuttaṃ nu kho taṃ imesaṃ tiṇṇaṃ
taṇhāmānadiṭṭhiggāhānaṃ vasena ahaṃ mamāti evaṃ gahetuṃ. No hetaṃ, bhanteti
iminā te bhikkhū avasavattanākārena rūpaṃ, bhante, anattāti paṭijānanti.
Suññaassāmikaanissaraattapaṭikkhepaṭṭhena vāti catūhi kāraṇehi anattā.
Bhagavā hi katthaci aniccavasena anattattaṃ
dasseti, katthaci dukkhavasena, katthaci ubhayavasena. ‘‘Cakkhu attāti yo
vadeyya, taṃ na upapajjati, cakkhussa uppādopi vayopi paññāyati. Yassa kho pana
uppādopi vayopi paññāyati, attā me uppajjati ca veti cāti iccassa evamāgataṃ
hoti, tasmā taṃ na upapajjati cakkhu attāti yo vadeyya, iti cakkhu anattā’’ti
(ma. ni. 3.422) imasmiñhi chachakkasutte aniccavasena anattataṃ dasseti.
‘‘Rūpañca hidaṃ, bhikkhave, attā abhavissa, nayidaṃ rūpaṃ ābādhāya saṃvatteyya,
labbhetha ca rūpe ‘evaṃ me rūpaṃ hotu, evaṃ me rūpaṃ mā ahosī’ti. Yasmā ca kho,
bhikkhave, rūpaṃ anattā, tasmā rūpaṃ ābādhāya saṃvattati, na ca labbhati rūpe
‘evaṃ me rūpaṃ hotu, evaṃ me rūpaṃ mā ahosī’’’ti (mahāva. 20; saṃ. ni. 3.59)
imasmiṃ anattalakkhaṇasutte dukkhavasena anattataṃ dasseti. ‘‘Rūpaṃ, bhikkhave,
aniccaṃ, yadaniccaṃ taṃ dukkhaṃ, yaṃ dukkhaṃ tadanattā, yadanattā taṃ ‘netaṃ
mama, nesohamasmi, na meso attā’ti evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya
daṭṭhabba’’nti (saṃ. ni. 3.76) imasmiṃ arahattasutte ubhayavasena anattataṃ
dasseti. Kasmā? Aniccaṃ dukkhañca pākaṭaṃ. Anattāti na pākaṭaṃ.
Paribhogabhājanādīsu hi bhinnesu aho aniccanti
vadanti, aho anattāti vattā nāma natthi. Sarīre gaṇḍapiḷakādīsu vā uṭṭhitāsu
kaṇṭakena vā viddhā aho dukkhanti vadanti, aho anattāti pana vattā nāma natthi.
Kasmā? Idañhi anattalakkhaṇaṃ nāma avibhūtaṃ duddasaṃ duppaññāpanaṃ. Tena taṃ
bhagavā aniccavasena vā dukkhavasena vā ubhayavasena vā dasseti. Tayidaṃ
imasmimpi teparivaṭṭe aniccadukkhavaseneva dassitaṃ. Vedanādīsupi eseva nayo.
Tasmā tiha, bhikkhaveti, bhikkhave, yasmā etarahi
aññadāpi rūpaṃ aniccaṃ dukkhaṃ anattā, tasmāti attho. Yaṃkiñci rūpantiādīni
visuddhimagge khandhaniddese vitthāritāneva.
245. Nibbindatīti ukkaṇṭhati. Ettha ca nibbidāti vuṭṭhānagāminīvipassanā
adhippetā. Vuṭṭhānagāminīvipassanāya hi bahūni nāmāni. Esā hi katthaci
saññagganti vuttā. Katthaci dhammaṭṭhitiñāṇanti. Katthaci
pārisuddhipadhāniyaṅganti. Katthaci paṭipadāñāṇadassanavisuddhīti. Katthaci
tammayatāpariyādānanti. Katthaci tīhi nāmehi. Katthaci dvīhīti.
Tattha poṭṭhapādasutte tāva ‘‘saññā kho,
poṭṭhapāda, paṭhamaṃ uppajjati, pacchā ñāṇa’’nti (dī. ni. 1.416) evaṃ
saññagganti vuttā. Susimasutte ‘‘pubbe kho, susima, dhammaṭṭhitiñāṇaṃ, pacchā
nibbāne ñāṇa’’nti (saṃ. ni. 2.70) evaṃ dhammaṭṭhitiñāṇanti vuttā.
Dasuttarasutte ‘‘paṭipadāñāṇadassanavisuddhipadhāniyaṅga’’nti (dī. ni. 3.359)
evaṃ pārisuddhipadāniyaṅganti vuttā. Rathavinīte ‘‘kiṃ nu kho, āvuso,
paṭipadāñāṇadassanavisuddhatthaṃ bhagavati brahmacariyaṃ vussatī’’ti (ma. ni.
1.257) evaṃ paṭipadāñāṇadassanavisuddhīti vuttā. Saḷāyatanavibhaṅge
‘‘atammayataṃ, bhikkhave, nissāya atammayataṃ āgamma yāyaṃ upekkhā nānattā
nānattasitā, taṃ abhinivajjetvā yāyaṃ upekkhā ekattā ekattasitā, taṃ nissāya
taṃ āgamma evametissā pahānaṃ hoti, evametissā samatikkamo hotī’’ti (dī. ni.
3.310) evaṃ tammayatāpariyādānanti vuttā. Paṭisambhidāmagge ‘‘yā ca
muñcitukamyatā, yā ca paṭisaṅkhānupassanā, yā ca saṅkhārupekkhā, ime dhammā
ekatthā byañjanameva nāna’’nti (paṭi. ma. 1.54) evaṃ tīhi nāmehi vuttā.
Paṭṭhāne ‘‘anulomaṃ gotrabhussa anantarapaccayena paccayo, anulomaṃ vodānassa
anantarapaccayena paccayo’’ti (paṭṭhā. 1.1.417) evaṃ dvīhi nāmehi vuttā.
Imasmiṃ pana alagaddasutte nibbindatīti nibbidānāmena āgatā.
Nibbidā virajjatīti ettha virāgoti maggo virāgā
vimuccatīti ettha virāgena maggena vimuccatīti phalaṃ kathitaṃ. Vimuttasmiṃ
vimuttamiti ñāṇaṃ hotīti idha paccavekkhaṇā kathitā.
Evaṃ vimuttacittaṃ mahākhīṇāsavaṃ dassetvā idāni
tassa yathābhūtehi pañcahi kāraṇehi nāmaṃ gaṇhanto ayaṃ vuccati,
bhikkhavetiādimāha. Avijjāti vaṭṭamūlikā avijjā. Ayañhi durukkhipanaṭṭhena
palighoti vuccati. Tenesa tassa ukkhittattā ukkhittapalighoti vutto.
Tālāvatthukatāti sīsacchinnatālo viya katā, samūlaṃ vā tālaṃ uddharitvā tālassa
vatthu viya katā, yathā tasmiṃ vatthusmiṃ puna so tālo na paññāyati, evaṃ puna
apaññattibhāvaṃ nītāti attho. Ponobbhavikoti punabbhavadāyako.
Jātisaṃsārotiādīsu jāyanavasena ceva saṃsaraṇavasena ca evaṃ laddhanāmānaṃ
punabbhavakhandhānaṃ paccayo kammābhisaṅkhāro. So hi punappunaṃ
uppattikaraṇavasena parikkhipitvā ṭhitattā parikkhāti vuccati, tenesa tassā
saṃkiṇṇattā vikiṇṇattā saṃkiṇṇaparikkhoti vutto. Taṇhāti vaṭṭamūlikā taṇhā.
Ayañhi gambhīrānugataṭṭhena esikāti vuccati. Tenesa tassā abbūḷhattā luñcitvā
chaḍḍitattā abbūḷhesikoti vutto. Orambhāgiyānīti oraṃ bhajanakāni kāmabhave
upapattipaccayāni. Etāni hi kavāṭaṃ viya nagaradvāraṃ cittaṃ pidahitvā ṭhitattā
aggaḷāti vuccanti. Tenesa tesaṃ nirākatattā bhinnattā niraggaḷoti vutto.
Ariyoti nikkileso parisuddho. Pannaddhajoti patitamānaddhajo. Pannabhāroti
khandhabhārakilesabhāraabhisaṅkhārabhārapañckāmaguṇabhārā pannā orohitā assāti
pannabhāro. Apica idha mānabhārasseva oropitattā pannabhāroti adhippeto.
Visaṃyuttoti catūhi yogehi sabbakilesehi ca visaṃyutto. Idha pana
mānasaṃyogeneva visaṃyuttattā visaṃyuttoti adhippeto. Asmimānoti rūpe asmīti
māno, vedanāya… saññāya… saṅkhāresu… viññāṇe asmīti māno.
Ettāvatā bhagavatā maggena kilese khepetvā
nirodhasayanavaragatassa nibbānārammaṇaṃ phalasamāpattiṃ appetvā viharato
khīṇāsavassa kālo dassito. Yathā hi dve nagarāni ekaṃ coranagaraṃ, ekaṃ
khemanagaraṃ. Atha ekassa mahāyodhassa evaṃ bhaveyya – ‘‘yāvimaṃ coranagaraṃ
tiṭṭhati, tāva khemanagaraṃ bhayato na muccati, coranagaraṃ anagaraṃ
karissāmī’’ti sannāhaṃ katvā khaggaṃ gahetvā coranagaraṃ upasaṅkamitvā
nagaradvāre ussāpite esikatthambhe khaggena chinditvā sadvārabāhakaṃ kavāṭaṃ
chinditvā palighaṃ ukkhipitvā pākāraṃ bhindanto parikkhaṃ saṃkiritvā
nagarasobhanatthāya ussite dhaje pātetvā nagaraṃ agginā jhāpetvā khemanagaraṃ
pavisitvā pāsādaṃ abhiruyha ñātigaṇaparivuto surasabhojanaṃ bhuñjeyya, evaṃ
coranagaraṃ viya sakkāyo, khemanagaraṃ viya nibbānaṃ, mahāyodho viya
yogāvacaro. Tassevaṃ hoti, ‘‘yāva sakkāyavaṭṭaṃ vattati, tāva
dvattiṃsakammakāraṇaaṭṭhanavutirogapañcavīsatimahābhayehi -parimuccanaṃ
natthī’’ti. So mahāyodho viya sannāhaṃ sīlasannāhaṃ katvā, paññākhaggaṃ gahetvā
khaggena esikatthambhe viya arahattamaggena taṇhesikaṃ luñcitvā, so yodho
sadvārabāhakaṃ nagarakavāṭaṃ viya pañcorambhāgiyasaṃyojanaggaḷaṃ ugghāṭetvā, so
yodho palighaṃ viya, avijjāpalighaṃ ukkhipitvā, so yodho pākāraṃ bhindanto
parikkhaṃ viya kammābhisaṅkhāraṃ bhindanto jātisaṃsāraparikkhaṃ saṃkiritvā, so
yodho nagarasobhanatthāya ussāpite dhaje viya mānaddhaje pātetvā sakkāyanagaraṃ
jhāpetvā, so yodho khemanagare uparipāsāde surasabhojanaṃ viya kilesanibbānaṃ
nagaraṃ pavisitvā amatanirodhārammaṇaṃ phalasamāpattisukhaṃ anubhavamāno kālaṃ
vītināmeti.
246. Idāni evaṃ vimuttacittassa khīṇāsavassa parehi anadhigamanīyaviññāṇataṃ
dassento evaṃ vimuttacittaṃ khotiādimāha. Tattha anvesanti anvesantā gavesantā.
Idaṃ nissitanti idaṃ nāma nissitaṃ. Tathāgatassāti ettha sattopi tathāgatoti
adhippeto, uttamapuggalo khīṇāsavopi. Ananuvijjoti asaṃvijjamāno vā avindeyyo
vā. Tathāgatoti hi satte gahite asaṃvijjamānoti attho vaṭṭati, khīṇāsave gahite
avindeyyoti attho vaṭṭati.
Tattha purimanaye ayamadhippāyo – bhikkhave, ahaṃ
diṭṭheva dhamme dharamānakaṃyeva khīṇāsavaṃ tathāgato satto puggaloti na
paññapemi. Appaṭisandhikaṃ pana parinibbutaṃ khīṇāsavaṃ sattoti vā puggaloti vā
kiṃ paññapessāmi? Ananuvijjo tathāgato. Na hi paramatthato satto nāma koci
atthi, tassa avijjamānassa idaṃ nissitaṃ viññāṇanti anvesantāpi kiṃ
adhigacchissanti? Kathaṃ paṭilabhissantīti attho. Dutiyanaye ayamadhippāyo –
bhikkhave, ahaṃ diṭṭheva dhamme dharamānakaṃyeva khīṇāsavaṃ viññāṇavasena
indādīhi avindiyaṃ vadāmi. Na hi saindā devā sabrahmakā sapajāpatikā
anvesantāpi khīṇāsavassa vipassanācittaṃ vā maggacittaṃ vā phalacittaṃ vā, idaṃ
nāma ārammaṇaṃ nissāya vattatīti jānituṃ sakkonti. Te appaṭisandhikassa
parinibbutassa kiṃ jānissantīti?
Asatāti asantena. Tucchāti tucchakena. Musāti
musāvādena. Abhūtenāti yaṃ natthi, tena. Abbhācikkhantīti abhiācikkhanti,
abhibhavitvā vadanti. Venayikoti vinayati vināsetīti vinayo, so eva venayiko,
sattavināsakoti adhippāyo. Yathā cāhaṃ na, bhikkhaveti, bhikkhave, yena
vākārena ahaṃ na sattavināsako. Yathā cāhaṃ na vadāmīti yena vā kāraṇena ahaṃ
sattavināsaṃ na paññapemi. Idaṃ vuttaṃ hoti – yathāhaṃ na sattavināsako, yathā
ca na sattavināsaṃ paññapemi, tathā maṃ te bhonto samaṇabrāhmaṇā ‘‘venayiko
samaṇo gotamo’’ti vadantā sattavināsako samaṇo gotamoti ca, ‘‘sato sattassa
ucchedaṃ vināsaṃ vibhavaṃ paññapetī’’ti vadantā sattavināsaṃ paññapetīti ca
asatā tucchā musā abhūtena abbhācikkhantīti.
Pubbe cāti pubbe mahābodhimaṇḍamhiyeva ca. Etarahi
cāti etarahi dhammadesanāyañca. Dukkhañceva paññapemi, dukkhassa ca nirodhanti
dhammacakkaṃ appavattetvā bodhimaṇḍe viharantopi dhammacakkappavattanato
paṭṭhāya dhammaṃ desentopi catusaccameva paññapemīti attho. Ettha hi
dukkhaggahaṇena tassa mūlabhūto samudayo, nirodhaggahaṇena taṃsampāpako maggo
gahitova hotīti veditabbo. Tatra ceti tasmiṃ catusaccappakāsane. Pareti saccāni
ājānituṃ paṭivijjhituṃ asamatthapuggalā. Akkosantīti dasahi akkosavatthūhi
akkosanti. Paribhāsantīti vācāya paribhāsanti. Rosenti vihesentīti rosessāma
vihesessāmāti adhippāyena ghaṭṭenti dukkhāpenti. Tatrāti tesu akkosādīsu, tesu
vā parapuggalesu. Āghātoti kopo. Appaccayoti domanassaṃ. Anabhiraddhīti
atuṭṭhi.
Tatra ceti catusaccappakāsaneyeva. Pareti
catusaccappakāsanaṃ ājānituṃ paṭivijjhituṃ samatthapuggalā. Ānandoti
ānandapīti. Uppilāvitattanti uppilāpanapīti. Tatra ceti
catusaccappakāsanamhiyeva. Tatrāti sakkārādīsu. Yaṃ kho idaṃ pubbe pariññātanti
idaṃ khandhapañcakaṃ pubbe bodhimaṇḍe tīhi pariññāhi pariññātaṃ. Tatthameti
tasmiṃ khandhapañcake ime. Kiṃ vuttaṃ hoti? Tatrāpi tathāgatassa ime sakkārā
mayi karīyantīti vā ahaṃ ete anubhavāmīti vā na hoti. Pubbe
pariññātakkhandhapañcakaṃyeva ete sakkāre anubhotīti ettakameva hotīti. Tasmāti
yasmā saccāni paṭivijjhituṃ asamatthā tathāgatampi akkosanti, tasmā. Sesaṃ
vuttanayeneva veditabbaṃ.
247. Tasmā tiha, bhikkhave, yaṃ na tumhākanti yasmā attaniyepi
chandarāgappahānaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya saṃvattati, tasmā yaṃ na tumhākaṃ,
taṃ pajahathāti attho. Yathāpaccayaṃ vā kareyyāti yathā yathā iccheyya tathā
tathā kareyya. Na hi no etaṃ, bhante, attā vāti, bhante, etaṃ
tiṇakaṭṭhasākhāpalāsaṃ amhākaṃ neva attā na amhākaṃ rūpaṃ na viññāṇanti
vadanti. Attaniyaṃ vāti amhākaṃ cīvarādiparikkhāropi na hotīti attho. Evameva
kho, bhikkhave, yaṃ na tumhākaṃ taṃ pajahathāti bhagavā, khandhapañcakaṃyeva na
tumhākanti dassetvā pajahāpeti, tañca kho na uppāṭetvā, luñcitvā vā.
Chandarāgavinayena panetaṃ pajahāpeti.
248. Evaṃ svākkhātoti ettha tiparivaṭṭato paṭṭhāya yāva imaṃ ṭhānaṃ
āharitumpi vaṭṭati, paṭilomena pemamattakena saggaparāyaṇato paṭṭhāya yāva imaṃ
ṭhānaṃ āharitumpi vaṭṭati. Svākkhātoti sukathito. Sukathitattā eva uttāno
vivaṭo pakāsito. Chinnapilotikoti pilotikā vuccati chinnaṃ bhinnaṃ tattha
tattha sibbitaṃ gaṇṭhikataṃ jiṇṇaṃ vatthaṃ, taṃ yassa natthi, aṭṭhahatthaṃ vā
navahatthaṃ vā ahatasāṭakaṃ nivattho, so chinnapilotiko nāma. Ayampi dhammo
tādiso, na hettha kohaññādivasena chinnabhinnasibbitagaṇṭhikatabhāvo atthi.
Apica kacavaro pilotikoti vuccati. Imasmiñca sāsane samaṇakacavaraṃ nāma
patiṭṭhātuṃ na labhati. Tenevāha –
‘‘Kāraṇḍavaṃ niddhamatha, kasambuñcāpakassatha;
Tato palāpe vāhetha, assamaṇe samaṇamānine.
Niddhamitvāna pāpicche, pāpaācāragocare;
Suddhā suddhehi saṃvāsaṃ, kappayavho patissatā;
Tato samaggā nipakā, dukkhassantaṃ karissathā’’ti.
(su. ni. 283-285);
Iti samaṇakacavarassa chinnattāpi ayaṃ dhammo
chinnapilotiko nāma hoti. Vaṭṭaṃ tesaṃ natthi paññāpanāyāti tesaṃ vaṭṭaṃ
apaññattibhāvaṃ gataṃ nippaññattikaṃ jātaṃ. Evarūpo mahākhīṇāsavo evaṃ
svākkhāte sāsaneyeva uppajjati. Yathā ca khīṇāsavo, evaṃ anāgāmiādayopi.
Tattha dhammānusārino saddhānusārinoti ime dve
sotāpattimaggaṭṭhā honti. Yathāha – ‘‘katamo ca puggalo dhammānusārī? Yassa
puggalassa sotāpattiphalasacchikiriyāya paṭipannassa paññindriyaṃ adhimattaṃ
hoti, paññāvāhiṃ paññāpubbaṅgamaṃ ariyamaggaṃ bhāveti. Ayaṃ vuccati puggalo
dhammānusārī. Sotāpattiphalasacchikiriyāya paṭipanno puggalo dhammānusārī,
phale ṭhito diṭṭhippatto. Katamo ca puggalo saddhānusārī? Yassa puggalassa
sotāpattiphalasacchikiriyāya paṭipannassa saddhindriyaṃ adhimattaṃ hoti,
saddhāvāhiṃ saddhāpubbaṅgamaṃ ariyamaggaṃ bhāveti. Ayaṃ vuccati puggalo
saddhānusārī. Sotāpattiphalasacchikiriyāya paṭipanno puggalo saddhānusārī,
phale ṭhito saddhāvimutto’’ti (pu. pa. 30). Yesaṃ mayi saddhāmattaṃ
pemamattanti iminā yesaṃ añño ariyadhammo natthi, tathāgate pana saddhāmattaṃ
pemamattameva hoti. Te vipassakapuggalā adhippetā. Vipassakabhikkhūnañhi evaṃ
vipassanaṃ paṭṭhapetvā nisinnānaṃ dasabale ekā saddhā ekaṃ pemaṃ uppajjati.
Tāya saddhāya tena pemena hatthe gahetvā sagge ṭhapitā viya honti, niyatagatikā
kira ete. Porāṇakattherā pana evarūpaṃ bhikkhuṃ cūḷasotāpannoti vadanti. Sesaṃ
sabbattha uttānatthamevāti.
Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Alagaddūpamasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
-ooOoo-
Trắc nghiệm 1. Câu nào sau đây được xem là chính xác theo Tam Tạng kinh điển?
A. Có những lời Phật dạy chỉ vì hợp với tánh ý chúng sanh nhưng không nhất thiết là luôn đúng với sự thật (Phật chỉ vì phương tiện mà nói) /
B. Trọng tâm của những gì Phật dạy là liên hệ tới giác ngộ, giải thoát; những gì liên hệ đến giải thoát LUÔN LUÔN PHÙ HỢP VỚI SỰ THẬT; nếu hội đủ hai yếu tố trên thì dù chúng sanh nghe có thể thích hay không thích Đức Phật vẫn nói/
C. Nếu những gì ghi trong kinh sách mà phù hợp với kiến thức khoa học thì đó đúng là lời Phật dạy /
D. Nếu nghe ai nói điều gì đó do Phật nói cần suy xét
xem có logic hay không. Nếu hợp với lô gic thì là lời Phật dạy.
TT Pháp Đăng cho đáp án trắc nghiệm 1: B
Trắc nghiệm 2. Đôi khi Phật Pháp được ví dụ như thuốc trị bệnh. Câu nào sau đây nói đến khía cạnh xác đáng nhất của thí dụ?
A. Giá thành của thuốc. Thuốc hay là thuốc đắt tiền /
B. Cái đẹp của thuốc /
C. Hiệu năng của thuốc. Để trị bệnh /
D. Giá trị hiếm quý của thuốc. Giữ để làm của.
TT Pháp Tân cho đáp án trắc nghiệm 2: C
Trắc nghiệm 3. Câu nói “đạo nào cũng tốt” có thể rơi vào sai lầm nào sau đây? A. Giá trị không nằm ở nhãn hiệu. Không phải khi có chữ “Đạo” thì có nghĩa là đạo chân thực / B. Khi hai tín lý hoàn toàn trái người thì không thể nói cả hai đều đúng / C. Ngay cả thuốc hay mà uống không đúng cách thì vẫn tai hại. Giáo lý cao đẹp còn phải được khéo lãnh hội, khéo ứng dụng mới có lợi lạc / D. Cả ba câu trên đều đúng
Trắc nghiệm 4. Câu nào sau đây được tìm thấy trong Kinh Ví Dụ Con Rắn A. Các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn. / B. Hãy hiểu rõ ý nghĩa lời Ta thuyết giảng và thọ trì như vậy. Nếu có ai không hiểu rõ ý nghĩa lời Ta thuyết giảng thì ở nơi đây, các thầy hãy hỏi Như Lai hay hỏi những bậc Tỷ-kheo trí thức./ C. Chư Tỷ-kheo, các Ông cần hiểu ví dụ cái bè. Chánh pháp còn phải bỏ đi, huống nữa là phi pháp./ D. Cả ba câu trên
Trắc nghiệm 5. Khi Đức Phật dùng thí dụ người bắt rắn để nói về ý nghĩa thọ trì giáo pháp thì Ngài muốn dạy điều gì? A. Giáo pháp như rắn độc / B. Hành giả như rắn độc / C. Sự lãnh hội và ứng dụng pháp phải khéo léo như người bắt rắn / D. Không phải ai cũng nên tu
No comments:
Post a Comment