Thắng Pháp Abhidhamma
Bài 17
Tâm Tham
Tâm tham – lobhacitta – trong Phật học đặc biệt là trong Thắng Pháp
Abhidhamma là một thuật ngữ thường được hiểu tương đối hời hợt. Trong đời sống
bình thường chữ “tham” chỉ cho sự ham muốn quá đáng, quá độ. Thí dụ người ta
cho mình một nhưng vì quá muốn nên tìm cách xin thêm. Trong Phật học đó chỉ là
một biểu tỏ thô tháo. Ham muốn chừng mực cũng là tham. Một ý niệm dính mắc cái
gì đó cũng là tham. Sự tự hào cũng là nằm trong tâm tham. Sự chấp giữ tư kiến
sai lạc cũng nằm trong tâm tham.
a. Phấn khích hay bình đạm. Thí dụ lần đầu ăn được món lạ rất ngon với
tâm rất vui (thọ hỷ) nhưng sau nầy được ăn nhiều thì vẫn muốn ăn nhưng tâm bình
thản (thọ xã)
b. Đi chung với tà kiến hay không đi chung với tà kiến. Thí dụ một người
đánh bắt cá với quan niệm chấp thủ là đó là những thứ trời sanh để nuôi con người
nên sự đánh bắt cá là chuyện “thiên kinh
địa nghĩa” (tà kiến); còn có người đánh bắt cá đơn thuần vì sinh kế nên không hẳn
là đi chung với tà kiến.
c. Có tác động hay không có tác động. Có những tâm tham sanh khởi mau
chóng hay mạnh mẽ do thói quen hay bản chất cố hữu đó là thứ tâm tham không có
tác động. Trái lại có những thứ tâm tham sanh khởi do sự rũ rê hay xúi giục thì
đó là tâm tham có tác động.
(somanassasahagataṃ diṭṭhigatasampayuttaṃ asaṅkhārikam)
Là tâm ham muốn có phấn khích, đi chung với tà kiến, không cần tác
động.
(somanassasahagataṃ diṭṭhigatasampayuttaṃ sasaṅkhārikam)
Là tâm ham muốn có phấn khích, đi chung với tà kiến, sanh do tác động.
(somanassasahagataṃ diṭṭhigatavippayuttaṃ asaṅkhārikam)
Là tâm ham muốn có phấn khích ,không đi chung với tà kiến, không cần
tác động
(somanassasahagataṃ diṭṭhigatavippayuttaṃ sasaṅkhārikam)
Là tâm ham muốn có phấn khích ,không đi chung với tà kiến, sanh do
tác động
(upekkhāsahagataṃ diṭṭhigatasampayuttaṃ asaṅkhārikam)
(upekkhāsahagataṃ diṭṭhigatasampayuttaṃ sasaṅkhārikam)
(upekkhāsahagataṃ diṭṭhigatavippayuttaṃ asaṅkhārikam)
(upekkhāsahagataṃ diṭṭhigatavippayuttaṃ sasaṅkhārikam)
(Vi Diệu Pháp Khái Luận, Narada, bản dịch của Phạm Kim Khánh)
Hai
từ vựng tham(lobha) và ái (tanha) là hai thuật ngữ được dùng “chồng tréo” trong
Phật học. Ái là thuộc tánh tham; là tập đế hay nguyên nhân của đau khổ; thường được
dùng với ý nghĩa “đậm đặt”. Tham thường mang ý nghĩa phổ quát trên bình diện rộng;
trong Phật thường dùng là tâm tham, tâm tham ái, tâm ái dục, tâm ái chấp nhưng
không nói ngắn là tâm ái.
Chữ sasaṅkhārikam thường được dịch là hữu trợ, hoặc hữu dẫn, hay
“bị xúi giục” đều mang ý nghĩa tương đối. Một người muốn ăn cắp đồ gì đó nhưng
e ngại phải suy nghĩ một lúc mới ra tay thì là sasaṅkhārikam không nhất thiết
phải có ai xúi giục hay có sự hỗ trợ. Nên hiểu là có tác động chứ không sanh khởi
lập tức.
Trong
sở thích về trang phục có người thích nhiều màu sắc sặc sỡ, có người chuộng màu
đơn điệu tối giản. Cả hai đều có dính mắc chứ không có nghĩa là chỉ có người thích
nhiều màu sắc mới có ham muốn. Tâm tham là một trạng thái dính mắc đối lập với
vô tham. Vô tham được thí dụ như lá sen với nước: tiếp xúc nhưng không lưu lại. Bất cứ sự dính mắc nào cũng là biểu lộ của
tham.
Tâm
tham là tâm dính mắc đối với cảnh.
Tám
thứ tâm tham:
Tâm
tham trong biểu đồ chư pháp:
Bài
học trước là: Những Tâm Bất thiện
Bài
học tiếp theo sẽ là: Tâm Sân
No comments:
Post a Comment