Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
27. Tiểu Kinh Dụ Dấu Chân Voi
(Cūḷahatthipadopama Sutta)
Gọi là Tiểu kinh Ví Dụ Dấu Chân Voi (Cūlahatthipadopama
sutta) vì sau bài kinh nầy có bài kinh khác cũng mang ví dụ dấu chân voi nhưng
dài hơn nên được gọi là Đại kinh Ví Dụ Dấu Chân Voi. Mặc dù đều là dấu chân voi
nhưng thí dụ trong hai bài kinh được dùng để minh hoạ hai ý niệm khác nhau. Trước
kia bài kinh nầy còn có tên thuần Hán Việt là Tượng Tích Dụ Tiểu Kinh.
Như vầy tôi nghe
Này Tôn giả,
như một người săn voi thiện xảo vào một khu rừng có voi ở, và
thấy một dấu chân voi lớn, dài bề dài và rộng bề ngang. Người đó
đi đến kết luận: "Con voi này là con voi lớn". Cũng vậy, này
Tôn giả, tôi đã thấy bốn dấu chân của Sa-môn Gotama và đi đến kết
luận: "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn
khéo giảng, và Tăng chúng khéo hành trì". Thế nào là bốn?
140. Kính tin cao độ nhưng chưa hẳn có chiều sâu
Một người ca tụng xưng tán Đức Phật chưa hẳn
là niềm tin trọn vẹn bởi vì một người hiểu biết, tin tưởng, và xưng tán Tam Bảo
một cách chân xác phải là người có học pháp, thực hành và thực chứng. Nếu chỉ
xưng tán với ấn tượng ban đầu thì không thể nói là đầy đủ sự hiểu biết để đánh
giá.
Khi được nói vậy,
Bà-la-môn Jāṇussoṇi, từ cỗ xe toàn trắng do ngựa cái kéo, bước
xuống, đắp thượng y lên một bên vai, chấp tay hướng về Thế Tôn
vái lạy, và thốt ra ba lần cảm hứng ngữ sau đây: "Ðảnh lễ Thế
Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác! Ðảnh lễ Thế Tôn, bậc A-la-hán,
Chánh Ðẳng Giác! Ðảnh lễ Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác!
Rất có thể, chúng ta sẽ gặp Tôn giả Gotama tại một lúc nào, một
chỗ nào đó. Rất có thể, sẽ có một cuộc đàm luận". Rồi
Bà-la-môn Jāṇussoṇi đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, nói lên những
lời chào đón hỏi thăm xã giao với Thế Tôn, rồi ngồi xuống một
bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Jāṇussoṇi đem tất cả câu
chuyện của Du Sĩ Pilotika, thuật lại với Thế Tôn. Sau khi nghe vậy,
Thế Tôn nói với Bà-la-môn Jāṇussoṇi:
-- Này Bà-la-môn, ví dụ dấu chân voi như vậy chưa được đầy đủ một cách rộng rãi. Này Bà-la-môn, với tầm mức như thế nào ví dụ dấu chân voi được đầy đủ một cách rộng rãi, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói:
-- Thưa vâng, Tôn giả.
Phát
khởi niềm tin ban đầu với ý thức giá trị về con đường tu tập nội tâm.
Bà-la-môn Jāṇussoṇi vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn thuyết giảng như sau:
-- Này Bà-la-môn, ví như một người săn voi vào một khu rừng có voi ở. Người đó thấy một dấu chân voi lớn trong rừng voi, dài bề dài và rộng bề ngang. Nếu người đó là một thợ săn voi thiện xảo, người đó không đi đến kết luận: "Con voi này chắc chắn to lớn". Vì sao vậy? Này Bà-la-môn, trong rừng voi, có những loại voi cái lùn thấp, có dấu chân lớn, có thể dấu chân này thuộc loại voi này. Người đó đi theo dấu chân ấy. Trong khi đi theo, người đó thấy trong rừng voi một dấu chân voi lớn, dài bề dài và rộng bề ngang, và những vật cao đều bị cọ xát. Nếu người đó là một thợ săn voi thiện xảo, người đó không đi đến kết luận: "Con voi này chắc chắn to lớn vì sao vậy? Này Bà-la-môn, trong rừng voi, có những loại voi cái có ngà, có dấu chân lớn, có thể dấu chân này thuộc loại voi này. Người đó đi theo dấu chân ấy. Trong khi đi theo, người đó thấy trong rừng voi, một dấu chân voi lớn, dài bề dài và rộng bề ngang, những vật cao bị cọ xát, và những vật cao bị ngà voi cắt chém. Nếu người đó là một thợ săn voi thiện xảo, người đó không đi đến kết luận: "Con voi này chắc chắn to lớn". Vì sao vậy? Này Bà-la-môn, trong rừng voi, có những loại voi cái có ngà lớn, có dấu chân lớn, có thể dấu chân này thuộc loại voi này. Người đó đi theo dấu chân ấy. Trong khi đi theo, người đó thấy trong rừng voi một dấu chân voi lớn, dài bề dài và rộng bề ngang, những vật cao bị cọ xát, những vật cao bị ngà voi cắt chém, và những vật cao bị gãy các cành. Và người đó thấy một con voi đực dưới gốc cây hay ở ngoài trời, đang đi, đang đứng, đang ngồi hay đang nằm, người đó đi đến kết luận: "Con voi này thật là con voi đực lớn".
Thành tựu giới uẩn là chấp nhận và hành trì có học giới một cách nghiêm túc để nhiếp hoá thân, khẩu.
Cũng vậy, này Bà-la-môn, ở đây Như Lai sanh ra ở đời, là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Với thắng trí, Ngài tự thân chứng ngộ thế giới này, cùng với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, các loài Trời và loài Người. Khi đã chứng ngộ, Ngài còn tuyên thuyết điều Ngài đã chứng ngộ, Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, văn nghĩa đầy đủ. Ngài giảng dạy phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, trong sạch.
Người gia trưởng, hay con vị gia trưởng, hay một người sanh ở giai cấp (hạ tiện) nào nghe Pháp ấy, sau khi nghe Pháp, người ấy sanh lòng tín ngưỡng Như Lai. Khi có lòng tín ngưỡng, vị này suy nghĩ: "Ðời sống gia đình đầy những triền phược, con đường đầy những bụi đời. Ðời sống xuất gia phóng khoáng như hư không. Thật rất khó cho một người sống ở gia đình có thể sống theo phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình". Một thời gian sau, người ấy từ bỏ tài sản nhỏ hay từ bỏ tài sản lớn, từ bỏ bà con quyến thuộc nhỏ hay từ bỏ bà con quyến thuộc lớn, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, và xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Khi đã xuất gia như vậy, vị ấy thành tựu học giới và nếp sống các Tỷ-kheo, từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót tất cả chúng sanh và các loài hữu tình, từ bỏ lấy của không cho, tránh xa lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp, từ bỏ không phạm hạnh, sống theo phạm hạnh, sống tránh xa (không phạm hạnh), từ bỏ dâm dục tục pháp.
Từ bỏ nói láo, tránh xa nói láo, vị ấy nói những lời chân thật, y chỉ trên sự thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không phản lại đời, từ bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, không đến nói chỗ kia để sanh chia rẽ ở những người này, nghe điều gì ở chỗ kia, không đi nói với những người này để sanh chia rẽ ở những người kia. Vị ấy sống hòa hợp những kẻ ly gián, khuyến khích những kẻ hòa hợp, hoan hỷ trong hòa hợp, thoải mái trong hòa hợp, hân hoan trong hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp. Vị ấy từ bỏ nói lời độc ác, tránh xa nói lời độc ác, vị ấy nói những lời nhẹ nhàng, thuận tại, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người, vui lòng nhiều người, vị ấy nói những lời như vậy. Vị ấy từ bỏ nói phù phiếm, tránh xa nói lời phù phiếm, nói đúng thời, nói những lời chân thật, nói những lời có ý nghĩa, nói những lời về Chánh pháp, nói những lời về Luật, nói những lời đáng được gìn giữ, những lời hợp thời, thuận lý, có mạch lạc, hệ thống, có ích lợi.
Vị ấy từ bỏ làm hại đến các hột giống và các loại cây cỏ, dùng một ngày một bữa, không ăn ban đêm; từ bỏ ăn phi thời; từ bỏ đi xem múa, hát nhạc, các cuộc trình diễn; từ bỏ trang sức bằng vòng hoa hương liệu, dầu thoa, các thời trang, các thời sức; từ bỏ dùng giường cao và giường lớn; từ bỏ nhận các hạt sống; từ bỏ nhận thịt sống, từ bỏ nhận đàn bà, con gái; từ bỏ nhận nô tỳ gái và trai; từ bỏ nhận cừu và dê; từ bỏ nhận gia cầm và heo; từ bỏ nhận voi, bò, ngựa và ngựa cái; từ bỏ nhận ruộng nương và đất đai; từ bỏ nhận người môi giới hoặc tự mình làm môi giới; từ bỏ buôn bán; từ bỏ các sự gian lận bằng cân, tiền bạc và đo lường; từ bỏ các tà hạnh như hối lộ, gian trá, lừa đảo; từ bỏ làm thương tổn, sát hại, câu thúc, bức đoạt, trộm cắp, cướp phá. Vị ấy bằng lòng (tri túc) với tấm y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo (y bát). Ví như con chim bay đến chỗ nào cũng mang theo hai cánh; cũng vậy, Tỷ-kheo bằng lòng với tấm y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo (y bát). Vị ấy thành tựu Thánh giới uẩn này, cảm giác lạc thọ thuộc nội tâm, không lỗi lầm.
Khi mắt thấy sắc, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến con mắt không được chế ngự, khiến tham ái ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, vị ấy tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì con mắt, thực hành sự hộ trì con mắt. Khi tai nghe tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc... ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến ý căn không được chế ngự, khiến tham ái ưu bi các ác bất thiện pháp khởi lên, vị ấy tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn. Vị ấy thành tựu Thánh hộ trì các căn này, cảm giác lạc thọ thuộc nội tâm, không vẩn đục.
Vị ấy khi đi tới, khi đi lui đều tỉnh giác, khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh giác, khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác, khi mang y kép, y bát đều tỉnh giác, khi ăn, uống, nhai, nuốt, đều tỉnh giác, khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác, khi đi, đứng, ngồi nằm, thức, nói, yên lặng đều tỉnh giác.
Vị ấy thành tựu Thánh giới uẩn này, thành tựu Thánh hộ trì các căn này, và thành tựu Thánh chánh niệm tỉnh giác này, lựa một chỗ thanh vắng, tịch mịch như rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây, ngoài trời, đống rơm. Sau khi đi khất thực về và ăn xong, vị ấy ngồi kiết già, lưng thẳng tại chỗ nói trên, và an trú chánh niệm trước mặt. Vị ấy từ bỏ tham ái ở đời, sống với tâm thoát ly tham ái, gột rửa tâm hết tham ái, từ bỏ sân hận, vị ấy sống với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng hữu tình, gột rửa tâm hết sân hận, từ bỏ hôn trầm thụy miên, vị ấy sống thoát ly hôn trầm thụy miên, với tâm tưởng hướng về ánh sáng, chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn trầm thụy miên, từ bỏ trạo cử hối quá, vị ấy sống không trạo cử, nội tâm trầm lặng, gột rửa tâm hết trạo cử, hối quá, từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối với thiện pháp.
Thành tựu định uẩn là có huân tu định và niệm với các thiền chi và dần dà giảm thiểu thiền chi quan các tầng thiền.
Vị ấy từ bỏ năm triền cái làm cho tâm ô uế, làm cho trí tuệ muội lược ly dục, ly pháp ác bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai. Nhưng vị Thánh đệ tử không đi đến kết luận: "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành trì".
Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc, do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai. Nhưng vị Thánh đệ tử không đi đến kết luận: "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành trì".
Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai. Nhưng vị Thánh đệ tử không đi đến kết luận: "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành trì".
Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai, nhưng vị Thánh đệ tử không đi đến kết luận: "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành trì".
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến Túc mạng minh. Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng: "Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây". Như vậy, vị ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết. Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai. Nhưng vị Thánh đệ tử không đi đến kết luận: "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành trì".
Thành tựu tuệ uẩn là chứng được các tuệ minh
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của chúng sanh. Vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ ràng, chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Những chúng sanh làm những ác hạnh về thân, lời và ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, lời và ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến, những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, cõi Trời, trên đời này. Như vậy, vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai. Nhưng vị Thánh đệ tử không đi đến kết luận: "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành trì".
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến Lậu tận trí. Vị ấy biết như thật: "Ðây là Khổ", biết như thật: "Ðây là Nguyên nhân của khổ", biết như thật: "Ðây là sự Khổ diệt", biết như thật: "Ðây là Con đường đưa đến khổ diệt", biết như thật: "Ðây là những lậu hoặc", biết như thật: "Ðây là nguyên nhân của lậu hoặc", biết như thật: "Ðây là các lậu hoặc diệt", biết như thật: "Ðây là con đường đưa đến các lậu hoặc diệt".
Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai. Nhưng vị Thánh đệ tử không đi đến kết luận: "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành trì".
Vị ấy nhờ biết như vậy, nhờ thấy như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Ðối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: "Ta đã giải thoát". Vị ấy biết: "Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không có trở lui đời sống này nữa".
Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai. Này Bà-la-môn, tới mức độ này, vị Thánh đệ tử đi đến kết luận: "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành trì". Này Bà-la-môn, tới mức độ này, ví dụ dấu chân con voi thật sự được đầy đủ một cách rộng rãi.
Ðược nghe nói vậy, Bà-la-môn Jāṇussoṇi bạch Thế Tôn:
-- Thật vi diệu
thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Như người
dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì
che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong
bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp
đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày, giải
thích. Con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp, và quy y chúng Tỷ-kheo
Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử, từ nay trở đi cho đến mệnh
chung, con trọn đời quy ngưỡng!
Con đường dẫn tới niềm tin trọn vẹn là
hành trình có năm công đoạn:
a.
Phát khởi niềm tin ban đầu với ý
thức giá trị về con đường tu tập nội tâm.
b.
Thành tựu giới uẩn là chấp nhận và
hành trì có học giới một cách nghiêm túc để nhiếp hoá thân, khẩu.
c.
Thành tựu định uẩn là có huân tu định
và niệm với các thiền chi và dần dà giảm thiểu thiền chi quan các tầng thiền.
d.
Thành tựu tuệ uẩn là chứng được
các tuệ minh
e.
Thành tựu giải thoát “khởi lên sự
hiểu biết: "Ta đã giải thoát". Vị ấy biết: "Sanh đã tận, phạm hạnh
đã thành, việc cần làm đã làm, không có trở lui đời sống này nữa"
Có học hiểu, có thực hành, có tự thân chứng
ngộ thì mới có thể nói là như vậy gọi là theo dấu chân của Khổng tượng, thấy được
dấu cọ xát của Khổng tượng, nhận ra dấu cắt chém của Khổng tượng. Này
Bà-la-môn, tới mức độ này, vị Thánh đệ tử đi đến kết luận: "Thế Tôn là bậc
Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành
trì". Tới mức độ này, ví dụ dấu chân con voi thật sự được đầy đủ một cách
rộng rãi.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ Kheo
Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 27 [tóm tắt]
Tiểu Kinh Dụ Dấu Chân Voi
(Cūḷahatthipadopama Sutta)
(M.i, 175)
Du sĩ Pilotika
hết lời tán thán Sa-môn Gotama trước mặt Bà-la-môn Jāṇussoṇi, vì
thấy được bốn dấu chân của Sa- môn Gotama, như người săn voi vào
rừng thấy một dấu chân voi dài bề dài, rộng bề ngang nên kết luận
con voi này là con voi lớn.
Bốn dấu chân
của Sa-môn Gotama là một số Sát-đế-lỵ bác học, thảo luận biện tài
đi đến Sa-môn Gotama để chất vấn, cật vấn nhưng khi đến, nghe Sa-môn
Gotama thuyết pháp, liền hoan hỷ, không có chất vấn và trở thành đệ
tử của Ngài. Dấu chân thứ hai là thái độ của các Bà-la-môn bác
học thảo luận biện tài cũng tương tự như hạng Sát- đế-lỵ trên.
Dấu chân thứ ba là thái độ tương tự của các gia chủ. Dấu chân
thứ tư là thái độ của các Sa-môn, không những trở thành đệ tử
của Sa-môn Gotama mà còn xuất gia, tu Phạm hạnh, chứng quả A-la- hán.
Các vị ấy mới nhận thức rằng nay chúng mới thật là Sa-môn, mới thật
là Bà-la-môn, mới thật là các bậc A-la-hán. Vì thấy bốn dấu chân
ấy nên du sĩ Pilotika đi đến kết luận Thế Tôn là bậc Chánh giác,
Pháp được Thế Tôn khéo giảng và Tăng chúng khéo hành trì.
Bà-la-môn Jāṇussoṇi
thuật lại lời nói của du sĩ Pilotika lên đức Phật, Ngài trả lời ví
dụ dấu chân voi chưa được đầy đủ và Ngài thuyết giảng như sau về
bốn dấu chân của đức Phật: Một người săn voi vào rừng có thể thấy
bốn loại dấu chân voi:
1/ Dấu chân voi
lớn, dài bề dài, rộng bề ngang.
2/ Dấu chân voi
lớn, dài bề dài, rộng bề ngang và những vật cao đều bị cọ xát.
3/ Dấu chân voi
lớn, dài bề dài, rộng bề ngang, những vật cao đều bị cọ xát và
những vật cao bị ngà voi cắt chém.
4/ Dấu chân voi
lớn, dài bề dài, rộng bề ngang, những vật cao đều bị cọ xát, những
vật cao bị ngà voi cắt chém và những vật cao bị gãy các cành.
Thấy một dấu
chân đầu, người thợ săn voi chưa đi đến kết luận là con voi lớn.
Chỉ có dấu chân thứ tư mới chứng thực con voi này mới thật là con
voi đực lớn.
Cũng vậy, Như
Lai ra đời là Chánh đẳng giác, thuyết pháp, giảng dạy Phạm hạnh. Có
người nghe pháp liền xuất gia, từ bỏ gia đình, thành tựu học giới
và nếp sống Tỷ-kheo, từ bỏ mười điều ác, làm mười điều thiện,
thành tựu giới uẩn, hộ trì các căn, chánh niệm tỉnh giác. Rồi vị
này ngồi thiền, gột sạch tâm khỏi năm triền cái, chứng và trú
thiền thứ nhất, như vậy gọi là dấu chân Như Lai, dấu cọ xát của
Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai, nhưng chưa đi đến kết luận: Như
Lai là bậc Chánh đẳng giác, Pháp được Thế Tôn khéo giảng, chúng
Tăng khéo hành trì. Vị Thánh đệ tử có thái độ tương tự khi chứng
thiền thứ hai, thiền thứ ba, thiền thứ tư, túc mạng minh, thiên nhãn
minh, lậu tận minh (biết bốn đế về khổ, về lậu hoặc).
Sau khi nhờ biết
vậy, thấy như vậy, tâm vị ấy thoát khỏi dục lậu, hữu lậu, vô minh
lậu, khởi lên sự hiểu biết: “Ta đã giải thoát”, thành vị A-la-hán
như vậy mới gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai,
dấu cắt chém của Như Lai. Và tới đây, vị Thánh đệ tử kết luận:
Thế Tôn là bậc Chánh đẳng giác, Pháp được Thế Tôn khéo giảng,
chúng Tăng khéo hành trì.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 27 [dàn ý]
Tiểu Kinh Dụ Dấu Chân Voi
(Cūḷahatthipadopama Sutta)
(M.i, 175)
A. Duyên khởi:
Du sĩ Pilotika mới
đi yết kiến Sa-môn Gotama về có lời tán thán trí tuệ của Sa-môn Gotama và nói rằng
vì thấy 4 dấu chân của Sa-môn Gotama nên mới có lời tán thán như vậy. Jāṇussoṇi
nghe xong, đảnh lễ Thế Tôn đi đến gặp Sa-môn Gotama và trình bày câu chuyện lên
Sa-môn Gotama.
B. Chánh kinh:
I. 4 dấu tích của
4 loài voi, và dấu tích của con voi tối thượng.
II. 4 dấu tích của
Như Lai
1. Dấu tích thứ I:
Như Lai thuyết pháp, thiện nam tử nghe pháp, xuất gia, giữ giới.
2. Dấu tích thứ
II: Chứng được thiền định.
3. Dấu tích thứ
III: Chứng được trí tuệ gồm 3 minh.
4. Dấu tích thứ
IV: Giải thoát các lậu hoặc.
C. Kết luận:
Bà-la-môn Jāṇussoṇi
tán thán Thế Tôn và xin quy y 3 ngôi báu.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 27 [toát yếu]
Tiểu Kinh Dụ Dấu Chân Voi
(Cūḷahatthipadopama Sutta)
(M.i, 175)
I.
TOÁT YẾU
Cūlahatthipadopama Sutta - The
shorter discourse on the simile of the elephant's footprint.
Using the analogy of a woodsman tracking
down a big bull elephant, the Buddha explains how a disciple arrives at
complete certainty of the truth of his teaching. The sutta presents a full
account of the step by step training of the Buddhist monk.
Bản kinh ngắn về ví dụ dấu
chân voi.
Phật lấy hình ảnh người thợ rừng
theo dấu một con voi lớn để giải thích làm cách nào đệ tử đạt đến
sự xác tín hoàn toàn đối với chân lý Ngài dạy.
II. TÓM TẮT
Bà-la-môn J Jāṇussoṇi hỏi du sĩ
Pilotika lý do vị này tôn sùng Phật. Pilotika đưa ra bốn dấu hiệu về
sự tối thượng của Phật, giống như bốn dấu chân của một con voi
chúa, đó là Ngài đã hàng phục được những người uyên bác nhất
trong bốn chúng: sát đế lợi (giới quân sự), bà-la-môn (giới học
giả), gia chủ (giới tại gia), và sa môn (giới xuất gia). Tất cả đều
xác nhận "Thế Tôn là bậc Chánh đẳng giác, Pháp được Thế Tôn
khéo giảng, tăng chúng khéo hành trì", và họ trở thành đệ tử
Phật. Sau khi nghe vậy, bà-la-môn Jāṇussoṇi đi đến yết kiến Phật và
kể lại ví dụ trên. Phật dạy ví dụ ấy chưa được đầy đủ, và Ngài
giảng đến mức nào mới có thể kết luận "Thế Tôn là bậc Chánh
đẳng giác... " Như một thợ rừng thiện xảo, thấy dấu chân voi,
thấy những vật cao bị cọ xát, bị ngà voi cắt chém, nhưng chưa vội
đi đến kết luận "đây là một con voi đực to lớn" cho đến khi
lần theo dấu chân, thực sự trông thấy voi đực. Người theo Phật cũng
thế, sau khi nghe Pháp, thấy tại gia là ràng buộc, phát tâm xuất gia
từ bỏ gia đình, viên mãn giới, thành tựu chánh niệm, gột rửa năm
triền cái, chứng và trú thiền thứ nhất cho đến thứ tư. Đó là
những vết cắt chém thứ nhất của Như Lai, nhưng chưa đủ để kết luận.
Vị ấy hướng tâm đến Túc mạng trí, nhớ hết các đời trước, là
vết cắt chém thứ hai. Vị ấy hướng tâm đến Sinh tử trí, với thiên
nhãn thuần tịnh thấy được sự sống chết của chúng sinh tùy theo nghiệp,
là vết cắt chém thứ ba, nhưng vị thánh đệ tử cũng không đi đến
kết luận "Thế Tôn là bậc Chánh đẳng giác... " Với tâm
định tĩnh, thuần tịnh, vị ấy hướng tâm đến lậu tận trí, tuệ tri
Khổ, Tập, Diệt, Đạo; thoát khỏi dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, tự
biết "Sinh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm,
không còn trở lui đời sống này nữa." Đến đây, vị thánh đệ tử
mới đi đến kết luận: "Thế Tôn là bậc Chánh đẳng giác, Pháp
được Thế Tôn khéo giảng, chúng tăng khéo hành trì." Như vậy,
ví dụ Dấu chân voi mới thực được nói một cách rộng rãi đầy đủ.
III. CHÚ GIẢI
Theo sử liệu xứ Tích lan, kinh này
là bản kinh đầu tiên mà thượng tọa Mahinda đã giảng khi Ngài mới
đến nước này.
Không đi đến kết luận về Ba ngôi
báu, bởi vì bốn thiền và tuệ thuộc thế gian (túc mạng trí, biết
các đời trước của mình, và sinh tử trí, biết việc sống chết của
kẻ khác) thì ngoại đạo cũng có như Phật giáo. Kinh này hiển thị
rằng, chỉ khi vị đệ tử đắc quả A-la-hán, việc làm đã xong, mới có
thể đi đến kết luận thực chính xác về Tam bảo.
IV. PHÁP SỐ
Ba ngôi báu, ba quy y, ba minh, ba lậu.
Bốn sự thật, bốn thiền. Năm triền cái, năm thiền chi. Sáu căn.
V.
KỆ TỤNG
Như
người tìm tượng vương
Thấy
dấu chân voi lớn
Chưa
kết luận vội vàng
Vì
thợ săn thiện xảo
Biết
có loại voi cái
Thấp
lùn, mà lớn chân.
Đi
lần theo dấu chân
Thấy
cành cao xơ xác
Bị ngà voi chém cắt
Người
kia vẫn nghĩ rằng
"Có
thể là voi cái
Với
ngà lớn, chân to."
Thợ
săn chưa dừng lại
Cứ
rừng sâu lần dò.
Thấy
cành cao gãy đổ
Voi
chúa đang đi lại
Dáng dấp thật ung dung
"Tượng
vương đang ở đó."
Người
đệ tử xuất gia
Thành
tựu thánh Giới uẩn
Từ
bỏ năm triền cái
Chứng
và trú bốn thiền
Dấu
chân, vết cắt này
Của
một con voi lớn
Nhưng
chưa đủ kết luận
Tam
bảo chính là đây.
Dù
chứng túc mạng minh
Hoặc
đắc sinh tử trí
Vẫn
chưa đủ kết luận
Vì
ngoại đạo thua gì.
Chỉ
đến khi lậu tận
Sinh tận, phạm hạnh thành
Việc
cần làm đã xong
Thành
bậc A-la-hán
Kết
luận này chính xác:
Thế
Tôn Chánh đẳng giác
Pháp
được Ngài khéo giảng
Chúng
tăng khéo hành trì.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
27. Cūḷahatthipadopamasuttaṃ [Mūla]
288. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ
samayaṃ Bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.
Tena kho pana samayena jāṇussoṇi brāhmaṇo sabbasetena vaḷavābhirathena [vaḷabhīrathena
(sī. pī.)] sāvatthiyā niyyāti divādivassa. Addasā kho jāṇussoṇi brāhmaṇo
pilotikaṃ paribbājakaṃ dūratova āgacchantaṃ. Disvāna pilotikaṃ paribbājakaṃ
etadavoca : ''handa, kuto nu bhavaṃ vacchāyano āgacchati divādivassāti? ''ito
hi kho ahaṃ , bho, āgacchāmi samaṇassa gotamassa santikāti. ''Taṃ kiṃ maññati,
bhavaṃ vacchāyano, samaṇassa gotamassa paññāveyyattiyaṃ? ''paṇḍito maññeti.
''Ko cāhaṃ, bho, ko ca samaṇassa gotamassa paññāveyyattiyaṃ jānissāmi! sopi
nūnassa tādisova yo samaṇassa gotamassa paññāveyyattiyaṃ jāneyyāti. ''Uḷārāya
khalu bhavaṃ vacchāyano samaṇaṃ gotamaṃ pasaṃsāya pasaṃsatīti. ''Ko cāhaṃ, bho,
ko ca samaṇaṃ gotamaṃ pasaṃsissāmi? ''pasatthapasatthova so bhavaṃ gotamo seṭṭho
devamanussānanti. ''Kaṃ pana bhavaṃ vacchāyano atthavasaṃ sampassamāno samaṇe
gotame evaṃ abhippasannoti [abhippasanno hotīti (syā.)]? ''seyyathāpi, bho,
kusalo nāgavaniko nāgavanaṃ paviseyya. So passeyya nāgavane mahantaṃ
hatthipadaṃ, dīghato ca āyataṃ, tiriyañca vitthataṃ. So niṭṭhaṃ
gaccheyya : 'mahā vata, bho, nāgoti. Evameva kho ahaṃ, bho, yato addasaṃ samaṇe
gotame cattāri padāni athāhaṃ niṭṭhamagamaṃ : 'sammāsambuddho Bhagavā, svākkhāto
bhagavatā dhammo, suppaṭipanno bhagavato sāvakasaṅghoti.
289. ''Katamāni cattāri? idhāhaṃ, bho, passāmi ekacce khattiyapaṇḍite
nipuṇe kataparappavāde vālavedhirūpe, te bhindantā [vobhindantā (sī. pī.) vi +
ava + bhindantā] maññe caranti paññāgatena diṭṭhigatāni. Te suṇanti : 'samaṇo
khalu, bho, gotamo amukaṃ nāma gāmaṃ vā nigamaṃ vā osarissatīti. Te pañhaṃ
abhisaṅkharonti : 'imaṃ mayaṃ pañhaṃ samaṇaṃ gotamaṃ upasaṅkamitvā pucchissāma.
Evaṃ ce no puṭṭho evaṃ byākarissati, evamassa mayaṃ vādaṃ āropessāma. Evaṃ cepi
no puṭṭho evaṃ byākarissati, evampissa mayaṃ vādaṃ āropessāmāti. Te suṇanti :
'samaṇo khalu, bho, gotamo amukaṃ nāma gāmaṃ vā nigamaṃ vā osaṭoti. Te yena
samaṇo gotamo tenupasaṅkamanti. Te samaṇo gotamo dhammiyā kathāya sandasseti
samādapeti samuttejeti sampahaṃseti. Te samaṇena gotamena dhammiyā kathāya
sandassitā samādapitā samuttejitā sampahaṃsitā na ceva samaṇaṃ gotamaṃ pañhaṃ
pucchanti, kutossa [kutassa (sī. syā. pī.)] vādaṃ āropessanti? aññadatthu samaṇasseva gotamassa sāvakā sampajjanti.
Yadāhaṃ, bho, samaṇe gotame imaṃ paṭhamaṃ
padaṃ addasaṃ athāhaṃ niṭṭhamagamaṃ : 'sammāsambuddho Bhagavā,
svākkhāto bhagavatā dhammo, suppaṭipanno bhagavato sāvakasaṅghoti. ''Puna
caparāhaṃ, bho, passāmi idhekacce brāhmaṇapaṇḍite - pe - gahapatipaṇḍite - pe -
samaṇapaṇḍite nipuṇe kataparappavāde vālavedhirūpe te bhindantā maññe caranti
paññāgatena diṭṭhigatāni. Te suṇanti : 'samaṇo khalu bho gotamo amukaṃ
nāma gāmaṃ vā nigamaṃ vā osarissatīti.
Te pañhaṃ abhisaṅkharonti 'imaṃ mayaṃ pañhaṃ samaṇaṃ gotamaṃ upasaṅkamitvā
pucchissāma. Evaṃ ce no puṭṭho evaṃ byākarissati, evamassa mayaṃ vādaṃ
āropessāma. Evaṃ cepi no puṭṭho evaṃ byākarissati, evaṃpissa mayaṃ vādaṃ
āropessāmāti. Te suṇanti 'samaṇo khalu bho gotamo amukaṃ nāma gāmaṃ vā nigamaṃ
vā osaṭoti. Te yena samaṇo gotamo tenupasaṅkamanti. Te samaṇo gotamo dhammiyā
kathāya sandasseti samādapeti samuttejeti sampahaṃseti. Te samaṇena gotamena
dhammiyā kathāya sandassitā samādapitā samuttejitā sampahaṃsitā na ceva samaṇaṃ
gotamaṃ pañhaṃ pucchanti, kutossa vādaṃ
āropessanti? aññadatthu samaṇaṃyeva gotamaṃ okāsaṃ yācanti agārasmā anagāriyaṃ
pabbajjāya. Te samaṇo gotamo pabbājeti [pabbājeti upasampādeti (sī.)]. Te
tattha pabbajitā samānā vūpakaṭṭhā appamattā ātāpino pahitattā viharantā nacirasseva : yassatthāya kulaputtā sammadeva
agārasmā anagāriyaṃ pabbajanti tadanuttaraṃ : brahmacariyapariyosānaṃ diṭṭheva
dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharanti. Te evamāhaṃsu : 'manaṃ
vata, bho, anassāma, manaṃ vata, bho, panassāma mayañhi pubbe assamaṇāva samānā
samaṇamhāti paṭijānimha, abrāhmaṇāva samānā brāhmaṇamhāti paṭijānimha,
anarahantova samānā arahantamhāti paṭijānimha. Idāni khomha samaṇā, idāni
khomha brāhmaṇā, idāni khomha arahantoti. Yadāhaṃ, bho, samaṇe gotame imaṃ
catutthaṃ padaṃ addasaṃ athāhaṃ niṭṭhamagamaṃ : 'sammāsambuddho Bhagavā,
svākkhāto bhagavatā dhammo, suppaṭipanno bhagavato sāvakasaṅghoti.
''Yato kho ahaṃ, bho, samaṇe
gotame imāni cattāri padāni addasaṃ athāhaṃ niṭṭhamagamaṃ : 'sammāsambuddho Bhagavā,
svākkhāto bhagavatā dhammo, suppaṭipanno bhagavato sāvakasaṅghoti.
290. Evaṃ vutte, jāṇussoṇi brāhmaṇo sabbasetā vaḷavābhirathā
orohitvā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā yena Bhagavā tenañjaliṃ paṇāmetvā
tikkhattuṃ udānaṃ udānesi : ''namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa
namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa namo tassa bhagavato arahato
sammāsambuddhassa. Appeva nāma mayampi kadāci karahaci tena bhotā gotamena saddhiṃ samāgaccheyyāma,
appeva nāma siyā kocideva kathāsallāpoti! atha kho jāṇussoṇi brāhmaṇo yena Bhagavā
tenupasaṅkami upasaṅkamitvā bhagavatā
saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi.
Ekamantaṃ nisinno kho jāṇussoṇi brāhmaṇo yāvatako ahosi pilotikena
paribbājakena saddhiṃ kathāsallāpo taṃ sabbaṃ bhagavato ārocesi. Evaṃ vutte, Bhagavā
jāṇussoṇiṃ brāhmaṇaṃ etadavoca : ''na kho, brāhmaṇa, ettāvatā hatthipadopamo
vitthārena paripūro hoti. Api ca, brāhmaṇa, yathā hatthipadopamo vitthārena
paripūro hoti taṃ suṇāhi, sādhukaṃ manasi karohi, bhāsissāmīti. ''Evaṃ, bhoti
kho jāṇussoṇi brāhmaṇo bhagavato paccassosi. Bhagavā etadavoca :
291. ''Seyyathāpi, brāhmaṇa, nāgavaniko nāgavanaṃ paviseyya. So
passeyya nāgavane mahantaṃ hatthipadaṃ,
dīghato ca āyataṃ, tiriyañca vitthataṃ. Yo hoti kusalo nāgavaniko neva tāva niṭṭhaṃ
gacchati : 'mahā vata, bho, nāgoti. Taṃ kissa hetu? santi hi, brāhmaṇa,
nāgavane vāmanikā nāma hatthiniyo mahāpadā, tāsaṃ petaṃ padaṃ assāti. ''So
tamanugacchati. Tamanugacchanto passati nāgavane mahantaṃ hatthipadaṃ, dīghato
ca āyataṃ, tiriyañca vitthataṃ, uccā ca nisevitaṃ. Yo hoti kusalo nāgavaniko
neva tāva niṭṭhaṃ gacchati : 'mahā vata, bho, nāgoti. Taṃ kissa hetu? santi hi,
brāhmaṇa, nāgavane uccā kāḷārikā nāma hatthiniyo mahāpadā, tāsaṃ petaṃ padaṃ
assāti. ''So tamanugacchati.
Tamanugacchanto passati nāgavane mahantaṃ
hatthipadaṃ, dīghato ca āyataṃ, tiriyañca vitthataṃ, uccā ca nisevitaṃ, uccā ca
dantehi ārañjitāni. Yo hoti kusalo nāgavaniko neva tāva niṭṭhaṃ gacchati :
'mahā vata, bho, nāgoti. Taṃ kissa hetu? santi hi, brāhmaṇa, nāgavane uccā kaṇerukā
nāma hatthiniyo mahāpadā, tāsaṃ petaṃ padaṃ assāti. ''So tamanugacchati.
Tamanugacchanto passati nāgavane mahantaṃ hatthipadaṃ, dīghato ca āyataṃ,
tiriyañca vitthataṃ, uccā ca nisevitaṃ, uccā ca dantehi ārañjitāni, uccā ca
sākhābhaṅgaṃ. Tañca nāgaṃ passati rukkhamūlagataṃ vā abbhokāsagataṃ vā
gacchantaṃ vā tiṭṭhantaṃ vā nisinnaṃ vā nipannaṃ vā. So niṭṭhaṃ gacchati :
'ayameva so mahānāgoti. ''Evameva kho , brāhmaṇa, idha tathāgato loke uppajjati
arahaṃ sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno sugato lokavidū anuttaro
purisadammasārathi satthā devamanussānaṃ buddho Bhagavā. So imaṃ lokaṃ
sadevakaṃ samārakaṃ sabrahmakaṃ sassamaṇabrāhmaṇiṃ pajaṃ sadevamanussaṃ sayaṃ
abhiññā sacchikatvā pavedeti. So dhammaṃ deseti ādikalyāṇaṃ majjhekalyāṇaṃ
pariyosānakalyāṇaṃ sātthaṃ sabyañjanaṃ kevalaparipuṇṇaṃ parisuddhaṃ
brahmacariyaṃ pakāseti. Taṃ dhammaṃ suṇāti gahapati vā gahapatiputto vā
aññatarasmiṃ vā kule paccājāto. So taṃ dhammaṃ sutvā tathāgate saddhaṃ paṭilabhati.
So tena saddhāpaṭilābhena samannāgato iti paṭisañcikkhati : 'sambādho gharāvāso
rajopatho , abbhokāso pabbajjā. Nayidaṃ sukaraṃ agāraṃ ajjhāvasatā ekantaparipuṇṇaṃ ekantaparisuddhaṃ
saṅkhalikhitaṃ brahmacariyaṃ carituṃ. Yaṃnūnāhaṃ kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni
vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ pabbajeyyanti. So aparena samayena appaṃ
vā bhogakkhandhaṃ pahāya mahantaṃ vā bhogakkhandhaṃ pahāya appaṃ vā ñātiparivaṭṭaṃ
pahāya mahantaṃ vā ñātiparivaṭṭaṃ pahāya kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni
acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ pabbajati.
292. ''So evaṃ pabbajito samāno bhikkhūnaṃ sikkhāsājīvasamāpanno
pāṇātipātaṃ pahāya pāṇātipātā paṭivirato hoti, nihitadaṇḍo nihitasattho lajjī dayāpanno sabbapāṇabhūtahitānukampī
viharati. ''Adinnādānaṃ pahāya adinnādānā paṭivirato hoti dinnādāyī dinnapāṭikaṅkhī.
Athenena sucibhūtena attanā viharati. ''Abrahmacariyaṃ pahāya brahmacārī hoti
ārācārī virato methunā gāmadhammā. ''Musāvādaṃ pahāya musāvādā paṭivirato hoti
saccavādī saccasandho theto [ṭheto (syā. kaṃ.)] paccayiko avisaṃvādako lokassa.
''Pisuṇaṃ vācaṃ pahāya pisuṇāya vācāya paṭivirato hoti, ito sutvā na amutra
akkhātā imesaṃ bhedāya, amutra vā sutvā na imesaṃ akkhātā amūsaṃ bhedāya. Iti
bhinnānaṃ vā sandhātā sahitānaṃ vā anuppadātā, samaggārāmo samaggarato
samagganandī samaggakaraṇiṃ vācaṃ bhāsitā hoti .
''Pharusaṃ vācaṃ pahāya pharusāya vācāya paṭivirato hoti. Yā sā vācā
nelā kaṇṇasukhā pemanīyā hadayaṅgamā porī bahujanakantā bahujanamanāpā tathārūpiṃ vācaṃ bhāsitā hoti.
''Samphappalāpaṃ pahāya samphappalāpā paṭivirato hoti kālavādī bhūtavādī
atthavādī dhammavādī vinayavādī, nidhānavatiṃ vācaṃ bhāsitā kālena sāpadesaṃ
pariyantavatiṃ atthasaṃhitaṃ.
293. ''So
bījagāmabhūtagāmasamārambhā paṭivirato hoti, ekabhattiko hoti
rattūparato, virato vikālabhojanā, naccagītavāditavisūkadassanā paṭivirato
hoti, mālāgandhavilepanadhāraṇamaṇḍanavibhūsanaṭṭhānā paṭivirato hoti,
uccāsayanamahāsayanā paṭivirato hoti, jātarūparajatapaṭiggahaṇā paṭivirato hoti,
āmakadhaññapaṭiggahaṇā paṭivirato hoti, āmakamaṃsapaṭiggahaṇā paṭivirato hoti,
itthikumārikapaṭiggahaṇā paṭivirato hoti, dāsidāsapaṭiggahaṇā paṭivirato hoti, ajeḷakapaṭiggahaṇā paṭivirato
hoti, kukkuṭasūkarapaṭiggahaṇā paṭivirato hoti, hatthigavāssavaḷavāpaṭiggahaṇā
paṭivirato hoti, khettavatthupaṭiggahaṇā paṭivirato hoti, dūteyyapahiṇagamanānuyogā
paṭivirato hoti, kayavikkayā paṭivirato hoti, tulākūṭakaṃsakūṭamānakūṭā paṭivirato
hoti, ukkoṭanavañcananikatisāciyogā paṭivirato hoti, chedanavadhabandhanaviparāmosaālopasahasākārā
[sāhasākārā (ka.)] paṭivirato hoti [imassa anantaraṃ ''so iminā ariyena
sīlakkhandhena samannāgato ajjhattaṃ anavajjasukhaṃ paṭisaṃvedetīti vacanaṃ
dīghanikāye āgataṃ, taṃ idha santosakathāvasāne āgataṃ, sā ca santosakathā
tattha satisampajaññānantarameva āgatā].
294. ''So santuṭṭho hoti kāyaparihārikena cīvarena
kucchiparihārikena piṇḍapātena. So yena yeneva
pakkamati samādāyeva pakkamati. Seyyathāpi nāma pakkhī sakuṇo yena
yeneva ḍeti sapattabhārova ḍeti, evameva bhikkhu santuṭṭho hoti
kāyaparihārikena cīvarena kucchiparihārikena piṇḍapātena. So yena yeneva
pakkamati samādāyeva pakkamati. So iminā ariyena sīlakkhandhena samannāgato
ajjhattaṃ anavajjasukhaṃ paṭisaṃvedeti.
295. ''So cakkhunā rūpaṃ disvā na nimittaggāhī hoti nānubyañjanaggāhī.
Yatvādhikaraṇamenaṃ cakkhundriyaṃ asaṃvutaṃ viharantaṃ abhijjhādomanassā pāpakā
akusalā dhammā anvāssaveyyuṃ tassa saṃvarāya paṭipajjati, rakkhati cakkhundriyaṃ,
cakkhundriye saṃvaraṃ āpajjati. Sotena saddaṃ sutvā - pe - ghānena gandhaṃ ghāyitvā...
jivhāya rasaṃ sāyitvā... kāyena phoṭṭhabbaṃ phusitvā... manasā dhammaṃ viññāya
na nimittaggāhī hoti nānubyañjanaggāhī. Yatvādhikaraṇamenaṃ manindriyaṃ asaṃvutaṃ
viharantaṃ abhijjhādomanassā pāpakā akusalā dhammā anvāssaveyyuṃ tassa saṃvarāya
paṭipajjati, rakkhati manindriyaṃ,
manindriye saṃvaraṃ āpajjati. So iminā ariyena indriyasaṃvarena samannāgato
ajjhattaṃ abyāsekasukhaṃ paṭisaṃvedeti. ''So abhikkante paṭikkante
sampajānakārī hoti, ālokite vilokite sampajānakārī hoti , samiñjite pasārite
sampajānakārī hoti, saṃghāṭipattacīvaradhāraṇe sampajānakārī hoti, asite
pīte khāyite sāyite sampajānakārī hoti,
uccārapassāvakamme sampajānakārī hoti, gate ṭhite nisinne sutte jāgarite
bhāsite tuṇhībhāve sampajānakārī hoti.
296. ''So iminā ca ariyena sīlakkhandhena samannāgato, (imāya ca
ariyāya santuṭṭhiyā samannāgato) [( ) etthantare pāṭho idha nadissati, catukkaṅguttare
pana imasmiṃ ṭhāne dissati, aṭṭhakathāṭīkāsu ca tadattho pakāsito. Tasmā so
ettha paṭīpūrito] iminā ca ariyena indriyasaṃvarena samannāgato, iminā ca
ariyena satisampajaññena samannāgato vivittaṃ senāsanaṃ bhajati araññaṃ
rukkhamūlaṃ pabbataṃ kandaraṃ giriguhaṃ susānaṃ vanapatthaṃ abbhokāsaṃ
palālapuñjaṃ. So pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto nisīdati pallaṅkaṃ
ābhujitvā, ujuṃ kāyaṃ paṇidhāya, parimukhaṃ satiṃ upaṭṭhapetvā. So abhijjhaṃ
loke pahāya vigatābhijjhena cetasā viharati, abhijjhāya cittaṃ parisodheti.
Byāpādappadosaṃ pahāya abyāpannacitto viharati, sabbapāṇabhūtahitānukampī
byāpādappadosā cittaṃ parisodheti. Thinamiddhaṃ pahāya vigatathinamiddho
viharati ālokasaññī sato sampajāno, thinamiddhā cittaṃ parisodheti.
Uddhaccakukkuccaṃ pahāya anuddhato viharati, ajjhattaṃ vūpasantacitto
uddhaccakukkuccā cittaṃ parisodheti. Vicikicchaṃ pahāya tiṇṇavicikiccho
viharati akathaṃkathī kusalesu dhammesu, vicikicchāya cittaṃ parisodheti.
297. ''So ime pañca nīvaraṇe pahāya cetaso upakkilese paññāya
dubbalīkaraṇe, vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ
vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. Idampi vuccati,
brāhmaṇa, tathāgatapadaṃ itipi, tathāgatanisevitaṃ itipi, tathāgatārañjitaṃ
itipi. Na tveva tāva ariyasāvako niṭṭhaṃ gacchati : 'sammāsambuddho Bhagavā, svākkhāto bhagavatā dhammo,
suppaṭipanno bhagavato sāvakasaṅghoti. ''Puna caparaṃ, brāhmaṇa, bhikkhu
vitakkavicārānaṃ vūpasamā ajjhattaṃ sampasādanaṃ cetaso ekodibhāvaṃ avitakkaṃ
avicāraṃ samādhijaṃ pītisukhaṃ dutiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. Idampi
vuccati, brāhmaṇa - pe - suppaṭipanno
bhagavato sāvakasaṅghoti. ''Puna caparaṃ,
brāhmaṇa, bhikkhu pītiyā ca virāgā upekkhako ca viharati sato ca sampajāno,
sukhañca kāyena paṭisaṃvedeti, yaṃ taṃ ariyā ācikkhanti 'upekkhako satimā
sukhavihārīti tatiyaṃ jhānaṃ upasampajja
viharati. Idampi vuccati, brāhmaṇa - pe - suppaṭipanno bhagavato sāvakasaṅghoti.
''Puna caparaṃ, brāhmaṇa, bhikkhu sukhassa ca pahānā dukkhassa ca pahānā,
pubbeva somanassadomanassānaṃ atthaṅgamā, adukkhamasukhaṃ upekkhāsatipārisuddhiṃ
catutthaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. Idampi vuccati, brāhmaṇa, tathāgatapadaṃ
itipi, tathāgatanisevitaṃ itipi, tathāgatārañjitaṃ itipi. Na tveva tāva
ariyasāvako niṭṭhaṃ gacchati : 'sammāsambuddho Bhagavā, svākkhāto
bhagavatā dhammo, suppaṭipanno bhagavato sāvakasaṅghoti.
298. ''So evaṃ samāhite citte parisuddhe pariyodāte anaṅgaṇe
vigatūpakkilese mudubhūte kammaniye ṭhite āneñjappatte pubbenivāsānussatiñāṇāya
cittaṃ abhininnāmeti. So anekavihitaṃ pubbenivāsaṃ anussarati, seyyathidaṃ :
ekampi jātiṃ, dvepi jātiyo - pe - iti sākāraṃ sauddesaṃ anekavihitaṃ
pubbenivāsaṃ anussarati. Idampi vuccati, brāhmaṇa, tathāgatapadaṃ itipi,
tathāgatanisevitaṃ itipi, tathāgatārañjitaṃ itipi. Na tveva tāva ariyasāvako niṭṭhaṃ
gacchati : 'sammāsambuddho Bhagavā, svākkhāto bhagavatā dhammo, suppaṭipanno
bhagavato sāvakasaṅghoti. ''So evaṃ
samāhite citte parisuddhe pariyodāte anaṅgaṇe vigatūpakkilese mudubhūte
kammaniye ṭhite āneñjappatte sattānaṃ cutūpapātañāṇāya cittaṃ abhininnāmeti. So
dibbena cakkhunā visuddhena
atikkantamānusakena - pe - yathākammūpage satte pajānāti. Idampi vuccati,
brāhmaṇa, tathāgatapadaṃ itipi, tathāgatanisevitaṃ itipi, tathāgatārañjitaṃ
itipi. Na tveva tāva ariyasāvako niṭṭhaṃ gacchati : 'sammāsambuddho Bhagavā,
svākkhāto bhagavatā dhammo, suppaṭipanno bhagavato sāvakasaṅghoti.
299. ''So evaṃ samāhite citte parisuddhe pariyodāte anaṅgaṇe
vigatūpakkilese mudubhūte kammaniye ṭhite āneñjappatte āsavānaṃ khayañāṇāya cittaṃ abhininnāmeti. So 'idaṃ dukkhanti
yathābhūtaṃ pajānāti, 'ayaṃ dukkhasamudayoti yathābhūtaṃ pajānāti, 'ayaṃ
dukkhanirodhoti yathābhūtaṃ pajānāti, 'ayaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadāti
yathābhūtaṃ pajānāti. 'Ime āsavāti
yathābhūtaṃ pajānāti, 'ayaṃ āsavasamudayoti yathābhūtaṃ pajānāti, 'ayaṃ
āsavanirodhoti yathābhūtaṃ pajānāti, 'ayaṃ āsavanirodhagāminī paṭipadāti
yathābhūtaṃ pajānāti. Idampi vuccati, brāhmaṇa, tathāgatapadaṃ itipi,
tathāgatanisevitaṃ itipi, tathāgatārañjitaṃ itipi. Na tveva tāva ariyasāvako niṭṭhaṃ
gato hoti, api ca kho niṭṭhaṃ gacchati : 'sammāsambuddho Bhagavā,
svākkhāto bhagavatā dhammo, suppaṭipanno bhagavato sāvakasaṅghoti. ''Tassa evaṃ
jānato evaṃ passato kāmāsavāpi cittaṃ vimuccati , bhavāsavāpi cittaṃ vimuccati,
avijjāsavāpi cittaṃ vimuccati. Vimuttasmiṃ vimuttamiti ñāṇaṃ hoti. 'Khīṇā jāti,
vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyāti pajānāti. Idampi vuccati, brāhmaṇa,
tathāgatapadaṃ itipi, tathāgatanisevitaṃ itipi, tathāgatārañjitaṃ itipi.
Ettāvatā kho, brāhmaṇa, ariyasāvako niṭṭhaṃ gato hoti : 'sammāsambuddho Bhagavā,
svākkhāto bhagavatā dhammo, suppaṭipanno bhagavato sāvakasaṅghoti. Ettāvatā
kho, brāhmaṇa, hatthipadopamo vitthārena paripūro hotīti. Evaṃ vutte, jāṇussoṇi
brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca : ''abhikkantaṃ, bho gotama, abhikkantaṃ, bho
gotama! seyyathāpi, bho gotama, nikkujjitaṃ vā ukkujjeyya, paṭicchannaṃ vā
vivareyya, mūḷhassa vā maggaṃ ācikkheyya, andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya :
cakkhumanto rūpāni dakkhantīti evamevaṃ bhotā gotamena anekapariyāyena dhammo
pakāsito. Esāhaṃ bhavantaṃ gotamaṃ saraṇaṃ gacchāmi, dhammañca, bhikkhusaṅghañca.
Upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gatanti.
Cūḷahatthipadopamasuttaṃ niṭṭhitaṃ sattamaṃ.
-ooOoo-
27.
Cūḷahatthipadopamasuttavaṇṇanā [Atthakathā]
288. Evaṃ me sutanti cūḷahatthipadopamasuttaṃ. Tattha sabbasetena vaḷavābhirathenāti,
‘‘setā sudaṃ assā yuttā honti setālaṅkārā. Seto ratho setālaṅkāro setaparivāro,
setā rasmiyo, setā patodalaṭṭhi, setaṃ chattaṃ, setaṃ uṇhīsaṃ, setāni vatthāni,
setā upāhanā, setāya sudaṃ vālabījaniyā bījiyatī’’ti (saṃ. ni. 5.4) evaṃ
vuttena sakalasetena catūhi vaḷavāhi yuttarathena.
Ratho ca nāmeso duvidho hoti – yodharatho, alaṅkārarathoti. Tattha
yodharatho caturassasaṇṭhāno hoti nātimahā, dvinnaṃ tiṇṇaṃ vā janānaṃ gahaṇasamattho.
Alaṅkāraratho mahā hoti, dīghato dīgho, puthulato puthulo. Tattha chattaggāhako
vālabījaniggāhako tālavaṇṭaggāhakoti evaṃ aṭṭha vā dasa vā sukhena ṭhātuṃ vā
nisīdituṃ vā nipajjituṃ vā sakkonti, ayampi alaṅkārarathoyeva. So sabbo
sacakkapañjarakubbaro rajataparikkhitto ahosi. Vaḷavā pakatiyā setavaṇṇāva.
Pasādhanampi tādisaṃ rajatamayaṃ ahosi. Rasmiyopi rajatapanāḷi suparikkhittā.
Patodalaṭṭhipi rajataparikkhittā. Brāhmaṇopi setavatthaṃ nivāsetvā setaṃyeva
uttarāsaṅgamakāsi, setavilepanaṃ vilimpi, setamālaṃ pilandhi, dasasu aṅgulīsu aṅgulimuddikā,
kaṇṇesu kuṇḍalānīti evamādialaṅkāropissa rajatamayova ahosi. Parivārabrāhmaṇāpissa
dasasahassamattā tatheva setavatthavilepanamālālaṅkārā ahesuṃ. Tena vuttaṃ
‘‘sabbasetena vaḷavābhirathenā’’ti.
Sāvatthiyā niyyātīti so kira channaṃ channaṃ māsānaṃ ekavāraṃ nagaraṃ
padakkhiṇaṃ karoti. Ito ettakehi divasehi nagaraṃ padakkhiṇaṃ karissatīti
puretarameva ghosanā karīyati; taṃ sutvā ye nagarato na pakkantā, te na
pakkamanti. Ye pakkantā, tepi, ‘‘puññavato sirisampattiṃ passissāmā’’ti
āgacchanti. Yaṃ divasaṃ brāhmaṇo nagaraṃ anuvicarati, tadā pātova nagaravīthiyo
sammajjitvā vālikaṃ okiritvā lājapañcamehi pupphehi abhippakiritvā puṇṇaghaṭe ṭhapetvā
kadaliyo ca dhaje ca ussāpetvā sakalanagaraṃ dhūpitavāsitaṃ karonti. Brāhmaṇo
pātova sīsaṃ nhāyitvā purebhattaṃ bhuñjitvā vuttanayeneva setavatthādīhi attānaṃ
alaṅkaritvā pāsādā oruyha rathaṃ abhiruhati. Atha naṃ te brāhmaṇā
sabbasetavatthavilepanamālālaṅkārā setacchattāni gahetvā parivārenti; tato
mahājanassa sannipātanatthaṃ paṭhamaṃyeva taruṇadārakānaṃ phalāphalāni
vikiritvā tadanantaraṃ māsakarūpāni; tadanantaraṃ kahāpaṇe vikiranti; mahājanā
sannipatanti. Ukkuṭṭhiyo ceva celukkhepā ca pavattanti. Atha brāhmaṇo maṅgalikasovatthikādīsu
maṅgalāni ceva suvatthiyo ca karontesu mahāsampattiyā nagaraṃ anuvicarati.
Puññavantā manussā ekabhūmakādipāsāde āruyha sukapattasadisāni vātapānakavāṭāni
vivaritvā olokenti. Brāhmaṇopi attano yasasirisampattiyā nagaraṃ ajjhottharanto
viya dakkhiṇadvārābhimukho hoti. Tena vuttaṃ ‘‘sāvatthiyā niyyātī’’ti.
Divā divassāti divasassa divā, majjhanhakāleti attho. Pilotikaṃ
paribbājakanti pilotikāti evaṃ itthiliṅgavohāravasena laddhanāmaṃ paribbājakaṃ.
So kira paribbājako daharo paṭhamavaye ṭhito suvaṇṇavaṇṇo buddhupaṭṭhāko,
pātova tathāgatassa ceva mahātherānañca upaṭṭhānaṃ katvā tidaṇḍakuṇḍikādiparikkhāraṃ
ādāya jetavanā nikkhamitvā nagarābhimukho pāyāsi. Taṃ esa dūratova āgacchantaṃ
addasa. Etadavocāti anukkamena santikaṃ āgataṃ sañjānitvā etaṃ, ‘‘handa kuto nu
bhavaṃ vacchāyano āgacchatī’’ti gottaṃ kittento vacanaṃ avoca. Paṇḍito maññeti
bhavaṃ vacchāyano samaṇaṃ gotamaṃ paṇḍitoti maññati, udāhu noti ayamettha
attho.
Ko cāhaṃ, bhoti, bho, samaṇassa gotamassa paññāveyyattiyaṃ jānane ahaṃ
ko nāma? Ko ca samaṇassa gotamassa paññāveyyattiyaṃ jānissāmīti kuto cāhaṃ samaṇassa
gotamassa paññāveyyattiyaṃ jānissāmi, kena kāraṇena jānissāmīti? Evaṃ sabbathāpi
attano ajānanabhāvaṃ dīpeti. Sopi nūnassa tādisovāti yo samaṇassa gotamassa
paññāveyyattiyaṃ jāneyya, sopi nūna dasa pāramiyo pūretvā sabbaññutaṃ patto
tādiso buddhoyeva bhaveyya. Sineruṃ vā himavantaṃ vā pathaviṃ vā ākāsaṃ vā
pametukāmena tappamāṇova daṇḍo vā rajju vā laddhuṃ vaṭṭati. Samaṇassa gotamassa
paññaṃ jānantenapi tassa ñāṇasadisameva sabbaññutaññāṇaṃ laddhuṃ vaṭṭatīti
dīpeti. Ādaravasena panettha āmeḍitaṃ kataṃ. Uḷārāyāti uttarāya seṭṭhāya. Ko
cāhaṃ, bhoti, bho, ahaṃ samaṇassa gotamassa pasaṃsane ko nāma? Ko ca samaṇaṃ
gotamaṃ pasaṃsissāmīti kena kāraṇena pasaṃsissāmi? Pasatthapasatthoti sabbaguṇānaṃ
uttaritarehi sabbalokapasatthehi attano guṇeheva pasattho, na tassa aññehi pasaṃsanakiccaṃ
atthi. Yathā hi campakapupphaṃ vā nīluppalaṃ vā padumaṃ vā lohitacandanaṃ vā
attano vaṇṇagandhasiriyāva pāsādikañceva sugandhañca, na tassa āgantukehi vaṇṇagandhehi
thomanakiccaṃ atthi. Yathā ca maṇiratanaṃ vā candamaṇḍalaṃ vā attano ālokeneva
obhāsati, na tassa aññena obhāsanakiccaṃ atthi. Evaṃ samaṇo gotamo
sabbalokapasatthehi attano guṇeheva pasattho thomito sabbalokassa seṭṭhataṃ
pāpito, na tassa aññena pasaṃsanakiccaṃ atthi. Pasatthehi vā pasatthotipi
pasatthapasattho.
Ke pasatthā nāma? Rājā pasenadi kosalo kāsikosalavāsikehi pasattho,
bimbisāro aṅgamagadhavāsīhi. Vesālikā licchavī vajjiraṭṭhavāsīhi pasatthā.
Pāveyyakā mallā, kosinārakā mallā, aññepi te te khattiyā tehi tehi jānapadehi
pasatthā. Caṅkīādayo brāhmaṇā brāhmaṇagaṇehi, anāthapiṇḍikādayo upāsakā
anekasatehi upāsakagaṇehi, visākhādayo upāsikā anekasatāhi upāsikāhi,
sakuludāyiādayo paribbājakā anekehi paribbājakasatehi, uppalavaṇṇātheriādikā
mahāsāvikā anekehi bhikkhunisatehi, sāriputtattherādayo mahāsāvakā anekasatehi
bhikkhūhi, sakkādayo devā anekasahassehi devehi, mahābrahmādayo brahmāno anekasahassehi
brahmehi pasatthā. Te sabbepi dasabalaṃ thomenti vaṇṇenti, pasaṃsantīti bhagavā
‘‘pasatthapasattho’’ti vuccati.
Atthavasanti atthānisaṃsaṃ. Athassa paribbājako attano pasādakāraṇaṃ
ācikkhanto seyyathāpi, bho, kusalo nāgavanikotiādimāha. Tattha nāgavanikoti
nāgavanavāsiko anuggahitasippo puriso. Parato pana uggahitasippo puriso
nāgavanikoti āgato. Cattāri padānīti cattāri ñāṇapadāni ñāṇavalañjāni, ñāṇena
akkantaṭṭhānānīti attho.
289. Khattiyapaṇḍitetiādīsu paṇḍiteti paṇḍiccena samannāgate. Nipuṇeti
saṇhe sukhumabuddhino, sukhumaatthantarapaṭivijjhanasamatthe. Kataparappavādeti
viññātaparappavāde ceva parehi saddhiṃ katavādaparicaye ca. Vālavedhirūpeti
vālavedhidhanuggahasadise. Te bhindantā maññe carantīti vālavedhi viya vālaṃ
sukhumānipi paresaṃ diṭṭhigatāni attano paññāgatena bhindantā viya carantīti
attho. Pañhaṃ abhisaṅkharontīti dupadampi tipadampi catuppadampi pañhaṃ
karonti. Vādaṃ āropessāmāti dosaṃ āropessāma. Na ceva samaṇaṃ gotamaṃ pañhaṃ
pucchantīti; kasmā na pucchanti? Bhagavā kira parisamajjhe dhammaṃ desento
parisāya ajjhāsayaṃ oloketi, tato passati – ‘‘ime khattiyapaṇḍitā guḷhaṃ
rahassaṃ pañhaṃ ovaṭṭikasāraṃ katvā āgatā’’ti. So tehi apuṭṭhoyeva evarūpe
pañhe pucchāya ettakā dosā, vissajjane ettakā, atthe pade akkhare ettakāti ime
pañhe pucchanto evaṃ puccheyya, vissajjento evaṃ vissajjeyyāti, iti ovaṭṭikasāraṃ
katvā ānīte pañhe dhammakathāya antare pakkhipitvā viddhaṃseti. Khattiyapaṇḍitā
‘‘seyyo vata no, ye mayaṃ ime pañhe na pucchimhā, sace hi mayaṃ puccheyyāma,
appatiṭṭheva no katvā samaṇo gotamo khipeyyā’’ti attamanā bhavanti.
Apica buddhā nāma dhammaṃ desentā parisaṃ mettāya pharanti, mettāpharaṇena
dasabale mahājanassa cittaṃ pasīdati, buddhā ca nāma rūpaggappattā honti
dassanasampannā madhurassarā mudujivhā suphusitadantāvaraṇā amatena hadayaṃ
siñcantā viya dhammaṃ kathenti. Tatra nesaṃ mettāpharaṇena pasannacittānaṃ evaṃ
hoti – ‘‘evarūpaṃ advejjhakathaṃ amoghakathaṃ niyyānikakathaṃ kathentena
bhagavatā saddhiṃ na sakkhissāma paccanīkaggāhaṃ gaṇhitu’’nti attano
pasannabhāveneva na pucchanti.
Aññadatthūti ekaṃsena. Sāvakā sampajjantīti saraṇagamanavasena sāvakā
honti. Tadanuttaranti taṃ anuttaraṃ. Brahmacariyapariyosānanti
maggabrahmacariyassa pariyosānabhūtaṃ arahattaphalaṃ, tadatthāya hi te
pabbajanti. Manaṃ vata, bho, anassāmāti, bho, sace mayaṃ na upasaṅkameyyāma,
iminā thokena anupasaṅkamanamattena apayirupāsanamatteneva naṭṭhā bhaveyyāma.
Upasaṅkamanamattakena panamhā na naṭṭhāti attho. Dutiyapadaṃ purimasseva
vevacanaṃ. Assamaṇāva samānātiādīsu pāpānaṃ asamitattā assamaṇāva. Abāhitattā
ca pana abrāhmaṇāva. Kilesārīnaṃ ahatattā anarahantoyeva samānāti attho.
290. Udānaṃ udānesīti udāhāraṃ udāhari. Yathā hi yaṃ telaṃ mānaṃ gahetuṃ
na sakkoti, vissanditvā gacchati, taṃ avasekoti vuccati, yañca jalaṃ taḷākaṃ
gahetuṃ na sakkoti, ajjhottharitvā gacchati, taṃ oghoti vuccati. Evameva yaṃ
pītimayaṃ vacanaṃ hadayaṃ gahetuṃ na sakkoti, adhikaṃ hutvā anto asaṇṭhahitvā
bahi nikkhamati, taṃ udānanti vuccati. Evarūpaṃ pītimayaṃ vacanaṃ nicchāresīti
attho. Hatthipadopamoti hatthipadaṃ upamā assa dhammassāti hatthipadopamo. So
na ettāvatā vitthārena paripūro hotīti dasseti. Nāgavanikoti
uggahitahatthisippo hatthivanacāriko. Atha kasmā idha kusaloti na vuttoti?
Parato ‘‘yo hoti kusalo’’ti vibhāgadassanato. Yo hi koci pavisati, yo pana
kusalo hoti, so neva tāva niṭṭhaṃ gacchati. Tasmā idha kusaloti avatvā parato
vutto.
291. Vāmanikāti rassā āyāmatopi na dīghā mahākucchihatthiniyo. Uccā ca
nisevitanti sattaṭṭharatanubbedhe vaṭarukkhādīnaṃ khandhappadese ghaṃsitaṭṭhānaṃ.
Uccā kāḷārikāti uccā ca yaṭṭhisadisapādā hutvā, kāḷārikā ca dantānaṃ kaḷāratāya.
Tāsaṃ kira eko danto unnato hoti, eko onato. Ubhopi ca viraḷā honti, na āsannā.
Uccā ca dantehi ārañjitānīti sattaṭṭharatanubbedhe vaṭarukkhādīnaṃ
khandhappadese pharasunā pahataṭṭhānaṃ viya dāṭṭhāhi chinnaṭṭhānaṃ. Uccā kaṇerukā
nāmāti uccā ca yaṭṭhisadisadīghapādā hutvā, kaṇerukā ca dantānaṃ kaṇerutāya, tā
kira makuḷadāṭhā honti. Tasmā kaṇerukāti vuccanti. So niṭṭhaṃ gacchatīti so
nāgavaniko yassa vatāhaṃ nāgassa anupadaṃ āgato, ayameva so, na añño. Yañhi ahaṃ
paṭhamaṃ padaṃ disvā vāmanikānaṃ padaṃ idaṃ bhavissatīti niṭṭhaṃ na gato, yampi
tato orabhāge disvā kāḷārikānaṃ bhavissati, kaṇerukānaṃ bhavissatīti niṭṭhaṃ na
gato, sabbaṃ taṃ imasseva mahāhatthino padanti mahāhatthiṃ disvāva niṭṭhaṃ
gacchati.
Evameva khoti ettha idaṃ opammasaṃsandanaṃ – nāgavanaṃ viya hi ādito paṭṭhāya
yāva nīvaraṇappahānā dhammadesanā veditabbā. Kusalo nāgavaniko viya yogāvacaro;
mahānāgo viya sammāsambuddho; mahantaṃ hatthipadaṃ viya jhānābhiññā.
Nāgavanikassa tattha tattha hatthipadaṃ disvāpi vāmanikānaṃ padaṃ bhavissati, kāḷārikānaṃ
kaṇerukānaṃ padaṃ bhavissatīti aniṭṭhaṅgatabhāvo viya yogino, imā jhānābhiññā
nāma bāhirakaparibbājakānampi santīti aniṭṭhaṅgatabhāvo. Nāgavanikassa, tattha
tattha mayā diṭṭhaṃ padaṃ imasseva mahāhatthino, na aññassāti mahāhatthiṃ disvā
niṭṭhaṅgamanaṃ viya ariyasāvakassa arahattaṃ patvāva niṭṭhaṅgamanaṃ. Idañca
pana opammasaṃsandanaṃ matthake ṭhatvāpi kātuṃ vaṭṭati. Imasmimpi ṭhāne vaṭṭatiyeva.
Anukkamāgataṃ pana pāḷipadaṃ gahetvā idheva kataṃ. Tattha idhāti desāpadese
nipāto. Svāyaṃ katthaci lokaṃ upādāya vuccati. Yathāha – ‘‘idha tathāgato loke
uppajjatī’’ti (dī. ni. 1.279). Katthaci sāsanaṃ. Yathāha – ‘‘idheva, bhikkhave,
samaṇo, idha dutiyo samaṇo’’ti (a. ni. 4.241). Katthaci okāsaṃ. Yathāha –
‘‘Idheva tiṭṭhamānassa, devabhūtassa me sato;
Punarāyu ca me laddho, evaṃ jānāhi mārisā’’ti. (dī. ni. 2.369; dī. ni. aṭṭha.
1.190);
Katthaci padapūraṇamattameva. Yathāha – ‘‘idhāhaṃ, bhikkhave, bhuttāvī
assaṃ pavārito’’ti (ma. ni. 1.30). Idha pana lokaṃ upādāya vuttoti veditabbo.
Idaṃ vuttaṃ hoti ‘‘brāhmaṇa imasmiṃ loke tathāgato uppajjati arahaṃ…pe… buddho
bhagavā’’ti.
Tattha tathāgatasaddo mūlapariyāye, arahantiādayo visuddhimagge
vitthāritā. Loke uppajjatīti ettha pana lokoti okāsaloko sattaloko saṅkhāralokoti
tividho. Idha pana sattaloko adhippeto. Sattaloke uppajjamānopi ca tathāgato na
devaloke, na brahmaloke, manussalokeyeva uppajjati. Manussalokepi na aññasmiṃ
cakkavāḷe, imasmiṃyeva cakkavāḷe. Tatrāpi na sabbaṭṭhānesu, ‘‘puratthimāya
disāya gajaṅgalaṃ nāma nigamo. Tassāparena mahāsālo, tato parā paccantimā
janapadā, orato majjhe. Puratthimadakkhiṇāya disāya sallavatī nāma nadī, tato
parā paccantimā janapadā, orato majjhe. Dakkhiṇāya disāya setakaṇṇikaṃ nāma
nigamo, tato parā paccantimā janapadā, orato majjhe. Pacchimāya disāya thūṇaṃ
nāma brāhmaṇagāmo, tato parā paccantimā janapadā, orato majjhe. Uttarāya disāya
usiraddhajo nāma pabbato, tato parā paccantimā janapadā, orato majjhe’’ti
(mahāva. 259) evaṃ paricchinne āyāmato tiyojanasate vitthārato aḍḍhateyyayojanasate
parikkhepato navayojanasate majjhimapadese uppajjati. Na kevalañca tathāgatova,
paccekabuddhā aggasāvakā asīti mahātherā buddhamātā buddhapitā cakkavattī rājā
aññe ca sārappattā brāhmaṇagahapatikā ettheva uppajjanti. Tattha tathāgato
sujātāya dinnamadhupāyasabhojanato paṭṭhāya yāva arahattamaggo, tāva uppajjati
nāma. Arahattaphale uppanno nāma. Mahābhinikkhamanato vā yāva arahattamaggo.
Tusitabhavanato vā yāva arahattamaggo. Dīpaṅkarapādamūlato vā yāva
arahattamaggo, tāva uppajjati nāma. Arahattaphale uppanno nāma. Idha sabbapaṭhamaṃ
uppannabhāvaṃ sandhāya uppajjatīti vuttaṃ, tathāgato loke uppanno hotīti
ayañhettha attho.
So imaṃ lokanti so bhagavā imaṃ lokaṃ, idāni vattabbaṃ nidasseti.
Sadevakanti saha devehi sadevakaṃ. Evaṃ saha mārena samārakaṃ. Saha brahmunā
sabrahmakaṃ. Saha samaṇabrāhmaṇehi sassamaṇabrāhmaṇiṃ. Pajātattā pajā, taṃ pajaṃ.
Saha devamanussehi sadevamanussaṃ. Tattha sadevakavacanena
pañcakāmāvacaradevaggahaṇaṃ veditabbaṃ. Samārakavacanena chaṭṭhakāmāvacaradevaggahaṇaṃ.
Sabrahmakavacanena brahmakāyikādibrahmaggahaṇaṃ. Sassamaṇabrāhmaṇivacanena
sāsanassa paccatthipaccāmittasamaṇabrāhmaṇaggahaṇaṃ samitapāpabāhitapāpasamaṇabrāhmaṇaggahaṇañca.
Pajāvacanena sattalokaggahaṇaṃ. Sadevamanussavacanena
sammutidevaavasesamanussaggahaṇaṃ. Evamettha tīhi padehi okāsalokena saddhiṃ
sattaloko, dvīhi pajāvasena sattalokova gahitoti veditabbo.
Aparo nayo – sadevakaggahaṇena arūpāvacaradevaloko gahito. Samārakaggahaṇena
chakāmāvacaradevaloko. Sabrahmakaggahaṇena rūpī brahmaloko. Sassamaṇabrāhmaṇādiggahaṇena
catuparisavasena sammutidevehi vā saha manussaloko avasesasabbasattaloko vā.
Apicettha sadevakavacanena ukkaṭṭhaparicchedato sabbassa lokassa
sacchikatabhāvamāha. Tato yesaṃ ahosi – ‘‘māro mahānubhāvo chakāmāvacarissaro
vasavattī. Kiṃ sopi etena sacchikato’’ti? Tesaṃ vimatiṃ vidhamanto samārakanti
āha. Yesaṃ pana ahosi – ‘‘brahmā mahānubhāvo, ekaṅguliyā ekasmiṃ cakkavāḷasahasse
ālokaṃ pharati, dvīhi…pe… dasahi aṅgulīhi dasasu cakkavāḷasahassesu ālokaṃ
pharati, anuttarañca jhānasamāpattisukhaṃ paṭisaṃvedeti. Kiṃ sopi
sacchikato’’ti? Tesaṃ vimatiṃ vidhamanto sabrahmakanti āha. Tato ye cintesuṃ –
‘‘puthū samaṇabrāhmaṇā sāsanassa paccatthikā, kiṃ tepi sacchikatā’’ti? Tesaṃ
vimatiṃ vidhamanto sassamaṇabrāhmaṇiṃ pajanti āha. Evaṃ ukkaṭṭhukkaṭṭhānaṃ
sacchikatabhāvaṃ pakāsetvā atha sammutideve avasesamanusse ca upādāya ukkaṭṭhaparicchedavasena
sesasattalokassa sacchikatabhāvaṃ pakāsento sadevamanussanti āha. Ayamettha
bhāvānukkamo. Porāṇā panāhu – sadevakanti devatāhi saddhiṃ avasesalokaṃ.
Samārakanti mārena saddhiṃ avasesalokaṃ. Sabrahmakanti brahmehi saddhiṃ
avasesalokaṃ. Evaṃ sabbepi tibhavūpage satte tīhākārehi tīsu padesu pakkhipetvā
puna dvīhi padehi pariyādiyanto ‘‘sassamaṇabrāhmaṇiṃ pajaṃ sadevamanussa’’nti
āha. Evaṃ pañcahi padehi tena tenākārena tedhātukameva pariyādinnanti.
Sayaṃ abhiññā sacchikatvā pavedetīti sayanti sāmaṃ aparaneyyo hutvā.
Abhiññāti abhiññāya, adhikena ñāṇena ñatvāti attho. Sacchikatvāti paccakkhaṃ
katvā. Etena anumānādipaṭikkhepo kato hoti. Pavedetīti bodheti viññāpeti
pakāseti. So dhammaṃ deseti ādikalyāṇaṃ…pe… pariyosānakalyāṇanti so bhagavā
sattesu kāruññataṃ paṭicca hitvāpi anuttaraṃ vivekasukhaṃ dhammaṃ deseti. Tañca
kho appaṃ vā bahuṃ vā desento ādikalyāṇādippakārameva deseti. Ādimhipi kalyāṇaṃ
bhaddakaṃ anavajjameva katvā deseti. Majjhepi… pariyosānepi kalyāṇaṃ bhaddakaṃ
anavajjameva katvā desetīti vuttaṃ hoti.
Tattha atthi desanāya ādimajjhapariyosānaṃ, atthi sāsanassa. Desanāya
tāva catuppadikāyapi gāthāya paṭhamapādo ādi nāma, tato dve majjhaṃ nāma, ante
eko pariyosānaṃ nāma. Ekānusandhikassa suttassa nidānamādi, idamavocāti
pariyosānaṃ, ubhinnaṃ antarā majjhaṃ. Anekānusandhikassa suttassa paṭhamānusandhi
ādi, ante anusandhi pariyosānaṃ, majjhe eko vā dve vā bahū vā majjhameva.
Sāsanassa pana sīlasamādhivipassanā ādi nāma. Vuttampi cetaṃ – ‘‘ko cādi kusalānaṃ
dhammānaṃ, sīlañca suvisuddhaṃ, diṭṭhi ca ujukā’’ti (saṃ. ni. 5.369). ‘‘Atthi,
bhikkhave, majjhimā paṭipadā tathāgatena abhisambuddhā’’ti evaṃ vutto pana
ariyamaggo majjhaṃ nāma, phalañceva nibbānañca pariyosānaṃ nāma.
‘‘Etadatthamidaṃ, brāhmaṇa, brahmacariyametaṃ sāraṃ, etaṃ pariyosāna’’nti (ma.
ni. 1.324) hi ettha phalaṃ pariyosānanti vuttaṃ. ‘‘Nibbānogadhañhi, āvuso
visākha, brahmacariyaṃ vussati nibbānaparāyaṇaṃ nibbānapariyosāna’’nti (ma. ni.
1.466) ettha nibbānaṃ pariyosānanti vuttaṃ. Idha desanāya ādimajjhapariyosānaṃ
adhippetaṃ. Bhagavā hi dhammaṃ desento ādimhi sīlaṃ dassetvā majjhe maggaṃ
pariyosāne nibbānaṃ dasseti. Tena vuttaṃ – ‘‘so dhammaṃ deseti ādikalyāṇaṃ
majjhekalyāṇaṃ pariyosānakalyāṇa’’nti. Tasmā aññopi dhammakathiko dhammaṃ
kathento –
‘‘Ādimhi sīlaṃ dasseyya, majjhe maggaṃ vibhāvaye;
Pariyosānamhi nibbānaṃ, esā kathikasaṇṭhitī’’ti. (dī. ni. aṭṭha. 1.190);
Sātthaṃ sabyañjananti yassa hi yāgubhattaitthipurisādivaṇṇanā nissitā
desanā hoti, na so sātthaṃ deseti. Bhagavā pana tathārūpaṃ desanaṃ pahāya
catusatipaṭṭhānādinissitaṃ desanaṃ deseti. Tasmā ‘‘sātthaṃ desetī’’ti vuccati.
Yassa pana desanā ekabyañjanādiyuttā vā sabbaniroṭṭhabyañjanā vā sabbavissaṭṭhasabbaniggahītabyañjanā
vā, tassa damiḷakirāsavarādimilakkhūnaṃ bhāsā viya byañjanapāripūriyā abhāvato
abyañjanā nāma desanā hoti. Bhagavā pana –
‘‘Sithilaṃ dhanitañca dīgharassaṃ, garukaṃ lahukañca niggahītaṃ;
Sambandhaṃ vavatthitaṃ vimuttaṃ, dasadhā byañjanabuddhiyā pabhedo’’ti.
(dī. ni. aṭṭha. 1.190) –
Evaṃ vuttaṃ dasavidhaṃ byañjanaṃ amakkhetvā paripuṇṇabyañjanameva katvā
dhammaṃ deseti. Tasmā ‘‘sabyañjanaṃ dhammaṃ desetī’’ti vuccati.
Kevalaparipuṇṇanti ettha kevalanti sakalādhivacanaṃ. Paripuṇṇanti anūnādhikavacanaṃ. Idaṃ vuttaṃ hoti – ‘‘sakalaparipuṇṇameva deseti, ekadesanāpi aparipuṇṇā natthī’’ti. Parisuddhanti nirupakkilesaṃ. Yo hi idaṃ dhammadesanaṃ nissāya lābhaṃ vā sakkāraṃ vā labhissāmīti deseti, tassa aparisuddhā desanā hoti. Bhagavā pana lokāmisanirapekkho hitapharaṇena mettābhāvanāya muduhadayo ullumpanasabhāvasaṇṭhitena cittena deseti. Tasmā ‘‘parisuddhaṃ dhammaṃ desetī’’ti vuccati. Brahmacariyaṃ pakāsetīti ettha brahmacariyanti sikkhattayasaṅgahaṃ sakalasāsanaṃ. Tasmā brahmacariyaṃ pakāsetīti so dhammaṃ deseti ādikalyāṇaṃ…pe… parisuddhaṃ, evaṃ desento ca sikkhattayasaṅgahitaṃ sakalasāsanaṃ brahmacariyaṃ pakāsetīti evamettha attho daṭṭhabbo. Brahmacariyanti seṭṭhaṭṭhena brahmabhūtaṃ cariyaṃ. Brahmabhūtānaṃ vā buddhādīnaṃ cariyanti vuttaṃ hoti.
Taṃ dhammanti taṃ vuttappakārasampadaṃ dhammaṃ. Suṇāti gahapati vāti kasmā
paṭhamaṃ gahapatiṃ niddisatīti? Nihatamānattā ussannattā ca. Yebhuyyena hi
khattiyakulato pabbajitā jātiṃ nissāya mānaṃ karonti. Brāhmaṇakulā pabbajitā
mante nissāya mānaṃ karonti. Hīnajaccakulā pabbajitā attano vijātitāya patiṭṭhātuṃ
na sakkonti. Gahapatidārakā pana kacchehi sedaṃ muñcantehi piṭṭhiyā loṇaṃ
pupphamānāya bhūmiṃ kasitvā nihatamānadappā honti. Te pabbajitvā mānaṃ vā dappaṃ
vā akatvā yathābalaṃ buddhavacanaṃ uggahetvā vipassanāya kammaṃ karontā
sakkonti arahatte patiṭṭhātuṃ. Itarehi ca kulehi nikkhamitvā pabbajitā nāma na
bahukā, gahapatikāva bahukā, iti nihatamānattā ussannattā ca paṭhamaṃ gahapatiṃ
niddisatīti.
Aññatarasmiṃ vāti itaresaṃ vā kulānaṃ aññatarasmiṃ. Paccājātoti
patijāto. Tathāgate saddhaṃ paṭilabhatīti parisuddhaṃ dhammaṃ sutvā
dhammassāmimhi tathāgate ‘‘sammāsambuddho vata bhagavā’’ti saddhaṃ paṭilabhati.
Iti paṭisañcikkhatīti evaṃ paccavekkhati. Sambādho gharāvāsoti sacepi saṭṭhihatthe
ghare yojanasatantarepi vā dve jāyampatikā vasanti, tathāpi nesaṃ
sakiñcanasapalibodhaṭṭhena gharāvāso sambādhoyeva. Rajopathoti rāgarajādīnaṃ uṭṭhānaṭṭhānanti
mahāaṭṭhakathāyaṃ vuttaṃ. Āgamanapathotipi vaṭṭati. Alagganaṭṭhena abbhokāso
viyāti abbhokāso. Pabbajito hi kūṭāgāraratanapāsādadevavimānādīsu
pihitadvāravātapānesu paṭicchannesu vasantopi neva laggati na sajjati na
bajjhati. Tena vuttaṃ – ‘‘abbhokāso pabbajjā’’ti. Apica sambādho gharāvāso
kusalakiriyāya okāsābhāvato. Rajopatho asaṃvutasaṅkāraṭṭhānaṃ viya rajānaṃ
kilesarajānaṃ sannipātaṭṭhānato. Abbhokāso pabbajjā kusalakiriyāya yathāsukhaṃ
okāsasabbhāvato.
Nayidaṃ sukaraṃ…pe… pabbajeyyanti ettha ayaṃ saṅkhepakathā – yadetaṃ
sikkhattayabrahmacariyaṃ ekampi divasaṃ akhaṇḍaṃ katvā carimakacittaṃ
pāpetabbatāya ekantaparipuṇṇaṃ. Ekadivasampi ca kilesamalena amalinaṃ katvā
carimakacittaṃ pāpetabbatāya ekantaparisuddhaṃ, saṅkhalikhitaṃ likhitasaṅkhasadisaṃ
dhotasaṅkhasappaṭibhāgaṃ caritabbaṃ, idaṃ na sukaraṃ agāraṃ ajjhāvasatā
agāramajjhe vasantena ekantaparipuṇṇaṃ…pe… carituṃ. Yaṃnūnāhaṃ kese ca massuñca
ohāretvā kāsāyarasapītatāya kāsāyāni brahmacariyaṃ carantānaṃ anucchavikāni
vatthāni acchādetvā paridahitvā agārasmā nikkhamitvā anagāriyaṃ pabbajeyyanti.
Ettha ca yasmā agārassa hitaṃ kasivāṇijjādikammaṃ agāriyanti vuccati, tañca
pabbajjāya natthi. Tasmā pabbajjā anagāriyāti ñātabbā, taṃ anagāriyaṃ.
Pabbajeyyanti paṭipajjeyyaṃ. Appaṃ vāti sahassato heṭṭhā bhogakkhandho appo
nāma hoti, sahassato paṭṭhāya mahā. Ābandhanaṭṭhena ñāti eva parivaṭṭo
ñātiparivaṭṭo. So vīsatiyā heṭṭhā appo hoti, vīsatiyā paṭṭhāya mahā.
292. Bhikkhūnaṃ sikkhāsājīvasamāpannoti yā bhikkhūnaṃ adhisīlasaṅkhātā
sikkhā, tañca, yattha cete saha jīvanti ekajīvikā sabhāgavuttino honti, taṃ
bhagavatā paññattasikkhāpadasaṅkhātaṃ sājīvañca tattha sikkhanabhāvena
samāpannoti bhikkhūnaṃ sikkhāsājīvasamāpanno. Samāpannoti sikkhaṃ paripūrento,
sājīvañca avītikkamanto hutvā tadubhayaṃ upagatoti attho. Pāṇātipātaṃ
pahāyātiādīsu pāṇātipātādikathā heṭṭhā vitthāritā eva. Pahāyāti imaṃ pāṇātipātacetanāsaṅkhātaṃ
dussīlyaṃ pajahitvā. Paṭivirato hotīti pahīnakālato paṭṭhāya tato dussīlyato
orato viratova hoti. Nihitadaṇḍo nihitasatthoti parūpaghātatthāya daṇḍaṃ vā
satthaṃ vā ādāya avattanato nikkhittadaṇḍo ceva nikkhittasattho cāti attho.
Ettha ca ṭhapetvā daṇḍaṃ sabbampi avasesaṃ upakaraṇaṃ sattānaṃ vihiṃsanabhāvato
satthanti veditabbaṃ. Yaṃ pana bhikkhū kattaradaṇḍaṃ vā dantakaṭṭhavāsiṃ vā
pipphalakaṃ vā gahetvā vicaranti, na taṃ parūpaghātatthāya. Tasmā nihitadaṇḍo
nihitasatthotveva saṅkhaṃ gacchati. Lajjīti pāpajigucchanalakkhaṇāya lajjāya
samannāgato. Dayāpannoti dayaṃ mettacittataṃ āpanno. Sabbapāṇabhūtahitānukampīti
sabbe pāṇabhūte hitena anukampako. Tāya dayāpannatāya sabbesaṃ pāṇabhūtānaṃ
hitacittakoti attho. Viharatīti iriyati pāleti.
Dinnameva ādiyatīti dinnādāyī. Cittenapi dinnameva paṭikaṅkhatīti
dinnapāṭikaṅkhī. Thenetīti theno. Na thenena athenena. Athenattāyeva
sucibhūtena. Attanāti attabhāvena, athenaṃ sucibhūtaṃ attabhāvaṃ katvā
viharatīti vuttaṃ hoti.
Abrahmacariyanti aseṭṭhacariyaṃ. Brahmaṃ seṭṭhaṃ ācāraṃ caratīti
brahmacārī. Ārācārīti abrahmacariyato dūracārī. Methunāti rāgapariyuṭṭhānavasena
sadisattā methunakāti laddhavohārehi paṭisevitabbato methunāti saṅkhaṃ gatā
asaddhammā. Gāmadhammāti gāmavāsīnaṃ dhammā.
Saccaṃ vadatīti saccavādī. Saccena saccaṃ sandahati ghaṭetīti
saccasandho, na antarantarā musā vadatīti attho. Yo hi puriso kadāci musā
vadati, kadāci saccaṃ, tassa musāvādena antaritattā saccaṃ saccena na ghaṭīyati.
Tasmā na so saccasandho, ayaṃ pana na tādiso, jīvitahetupi musāvādaṃ avatvā
saccena saccaṃ sandahatiyevāti saccasandho. Thetoti thiro, thirakathoti attho.
Eko hi puggalo haliddirāgo viya, thusarāsimhi nikhātakhāṇu viya, assapiṭṭhe ṭhapitakumbhaṇḍamiva
ca na thirakatho hoti. Eko pāsāṇalekhā viya indakhilo viya ca thirakatho hoti;
asinā sīse chijjantepi dve kathā na katheti; ayaṃ vuccati theto. Paccayikoti
pattiyāyitabbako, saddhāyikoti attho. Ekacco hi puggalo na paccayiko hoti,
‘‘idaṃ kena vuttaṃ, asukenā’’ti vutte ‘‘mā tassa vacanaṃ saddahathā’’ti
vattabbataṃ āpajjati. Eko paccayiko hoti, ‘‘idaṃ kena vuttaṃ, asukenā’’ti
vutte, ‘‘yadi tena vuttaṃ, idameva pamāṇaṃ, idāni upaparikkhitabbaṃ natthi,
evameva ida’’nti vattabbataṃ āpajjati, ayaṃ vuccati paccayiko. Avisaṃvādako
lokassāti tāya saccavāditāya lokaṃ na visaṃvādetīti attho.
Imesaṃ bhedāyāti yesaṃ ito sutvāti vuttānaṃ santike sutaṃ, tesaṃ
bhedāya. Bhinnānaṃ vā sandhātāti dvinnampi mittānaṃ vā samānupajjhāyakādīnaṃ vā
kenacideva kāraṇena bhinnānaṃ ekamekaṃ upasaṅkamitvā ‘‘tumhākaṃ īdise kule
jātānaṃ evaṃ bahussutānaṃ idaṃ na yutta’’ntiādīni vatvā sandhānaṃ kattā.
Anuppadātāti sandhānānuppadātā, dve jane samagge disvā, ‘‘tumhākaṃ evarūpe kule
jātānaṃ evarūpehi guṇehi samannāgatānaṃ anucchavikameta’’ntiādīni vatvā daḷhīkammaṃ
kattāti attho. Samaggo ārāmo assāti samaggārāmo. Yattha samaggā natthi, tattha
vasitumpi na icchatīti attho. ‘‘Samaggarāmo’’tipi pāḷi, ayamevettha attho.
Samaggaratoti samaggesu rato, te pahāya aññatra gantumpi na icchatīti attho.
Samagge disvāpi sutvāpi nandatīti samagganandī. Samaggakaraṇiṃ vācaṃ bhāsitāti
yā vācā satte samaggeyeva karoti, taṃ sāmaggiguṇaparidīpakameva vācaṃ bhāsati,
na itaranti.
Nelāti elaṃ vuccati doso, nāssā elanti nelā, niddosāti attho. ‘‘Nelaṅgo
setapacchādo’’ti ettha vuttanelaṃ viya. Kaṇṇasukhāti byañjanamadhuratāya kaṇṇānaṃ
sukhā, sūcivijjhanaṃ viya kaṇṇasūlaṃ na janeti. Atthamadhuratāya sakalasarīre
kopaṃ ajanetvā pemaṃ janetīti pemanīyā. Hadayaṃ gacchati, apaṭihaññamānā
sukhena cittaṃ pavisatīti hadayaṅgamā. Guṇaparipuṇṇatāya pure bhavāti porī,
pure saṃvaddhanārī viya sukumārātipi porī, purassa esātipi porī, nagaravāsīnaṃ
kathāti attho. Nagaravāsino hi yuttakathā honti, pitimattaṃ pitāti, mātimattaṃ
mātāti, bhātimattaṃ bhātāti vadanti. Evarūpī kathā bahuno janassa kantā hotīti
bahujanakantā. Kantabhāveneva bahuno janassa manāpā cittavuddhikarāti
bahujanamanāpā.
Kālena vadatīti kālavādī, vattabbayuttakālaṃ sallakkhetvā vadatīti
attho. Bhūtaṃ tacchaṃ sabhāvameva vadatīti bhūtavādī. Diṭṭhadhammikasamparāyikatthasannissitameva
katvā vadatīti atthavādī. Navalokuttaradhammasannissitaṃ katvā vadatīti
dhammavādī. Saṃvaravinayapahānavinayasannissitaṃ katvā vadatīti vinayavādī.
Nidhānaṃ vuccati ṭhapanokāso, nidhānamassā atthīti nidhānavatī, hadaye
nidhātabba yuttavācaṃ bhāsitāti attho. Kālenāti evarūpiṃ bhāsamānopi ca ‘‘ahaṃ
nidhānavatiṃ vācaṃ bhāsissāmī’’ti na akālena bhāsati, yuttakālaṃ pana
avekkhitvā bhāsatīti attho. Sāpadesanti saupamaṃ, sakāraṇanti attho.
Pariyantavatinti paricchedaṃ dassetvā yathāssā paricchedo paññāyati, evaṃ
bhāsatīti attho. Atthasaṃhitanti anekehipi nayehi vibhajantena pariyādātuṃ
asakkuṇeyyatāya atthasampannaṃ, yaṃ vā so atthavādī atthaṃ vadati, tena atthena
saṃhitattā atthasaṃhitaṃ vācaṃ bhāsati, na aññaṃ nikkhipitvā aññaṃ bhāsatīti
vuttaṃ hoti.
293. Bījagāmabhūtagāmasamārambhāti mūlabījaṃ khandhabījaṃ phaḷubījaṃ
aggabījaṃ bījabījanti pañcavidhassa bījagāmassa ceva yassa kassaci nīlatiṇarukkhādikassa
bhūtagāmassa ca samārambhā, chedanabhedanapacanādibhāvena vikopanā paṭiviratoti
attho. Ekabhattikoti pātarāsabhattaṃ sāyamāsabhattanti dve bhattāni. Tesu
pātarāsabhattaṃ antomajjhanhikena paricchinnaṃ, itaraṃ majjhanhikato uddhaṃ
antoaruṇena. Tasmā antomajjhanhike dasakkhattuṃ bhuñjamānopi ekabhattikova
hoti, taṃ sandhāya vuttaṃ ‘‘ekabhattiko’’ti. Rattiyā bhojanaṃ ratti, tato
uparatoti rattūparato. Atikkante majjhanhike yāva sūriyatthaṃgamanā bhojanaṃ vikālabhojanaṃ
nāma. Tato viratattā virato vikālabhojanā. Sāsanassa ananulomattā visūkaṃ paṭāṇībhūtaṃ
dassananti visūkadassanaṃ. Attanā naccananaccāpanādivasena naccā ca gītā ca
vāditā ca, antamaso mayūranaccanādivasenāpi pavattānaṃ naccādīnaṃ visūkabhūtā dassanā
cāti naccagītavāditavisūkadassanā. Naccādīni hi attanā payojetuṃ vā parehi
payojāpetuṃ vā payuttāni passituṃ vā neva bhikkhūnaṃ na bhikkhunīnaṃ vaṭṭanti.
Mālādīsu mālāti yaṃkiñci pupphaṃ. Gandhanti yaṃkiñci gandhajātaṃ. Vilepananti
chavirāgakaraṇaṃ. Tattha piḷandhanto dhāreti nāma. Ūnaṭṭhānaṃ pūrento maṇḍeti
nāma. Gandhavasena chavirāgavasena ca sādiyanto vibhūseti nāma. Ṭhānaṃ vuccati
kāraṇaṃ. Tasmā yāya dussīlyacetanāya tāni mālādhāraṇādīni mahājano karoti, tato
paṭiviratoti attho.
Uccāsayanaṃ vuccati pamāṇātikkantaṃ. Mahāsayanaṃ akappiyattharaṇaṃ. Tato
paṭiviratoti attho. Jātarūpanti suvaṇṇaṃ. Rajatanti kahāpaṇo lohamāsako
jatumāsako dārumāsakoti ye vohāraṃ gacchanti, tassa ubhayassapi paṭiggahaṇā paṭivirato,
neva naṃ uggaṇhāti, na uggaṇhāpeti, na upanikkhittaṃ sādiyatīti attho.
Āmakadhaññapaṭiggahaṇāti sālivīhiyavagodhūmakaṅguvarakakudrūsakasaṅkhātassa
sattavidhassāpi āmakadhaññassa paṭiggahaṇā. Na kevalañca etesaṃ paṭiggahaṇameva,
āmasanampi bhikkhūnaṃ na vaṭṭatiyeva. Āmakamaṃsapaṭiggahaṇāti ettha aññatra
odissa anuññātā āmakamaṃsamacchānaṃ paṭiggahaṇameva bhikkhūnaṃ na vaṭṭati, no
āmasanaṃ.
Itthikumārikapaṭiggahaṇāti ettha itthīti purisantaragatā, itarā kumārikā
nāma. Tāsaṃ paṭiggahaṇampi āmasanampi akappiyameva. Dāsidāsapaṭiggahaṇāti ettha
dāsidāsavaseneva tesaṃ paṭiggahaṇaṃ na vaṭṭati, ‘‘kappiyakārakaṃ dammi, ārāmikaṃ
dammī’’ti evaṃ vutte pana vaṭṭati. Ajeḷakādīsu khettavatthupariyosānesu
kappiyākappiyanayo vinayavasena upaparikkhitabbo. Tattha khettaṃ nāma yasmiṃ
pubbaṇṇaṃ ruhati. Vatthu nāma yasmiṃ aparaṇṇaṃ ruhati. Yattha vā ubhayampi
ruhati, taṃ khettaṃ. Tadatthāya akatabhūmibhāgo vatthu. Khettavatthusīsena
cettha vāpitaḷākādīnipi saṅgahitāneva. Dūteyyaṃ vuccati dūtakammaṃ, gihīnaṃ paṇṇaṃ
vā sāsanaṃ vā gahetvā tattha tattha gamanaṃ. Pahiṇagamanaṃ vuccati gharā gharaṃ
pesitassa khuddakagamanaṃ. Anuyogo nāma tadubhayakaraṇaṃ, tasmā dūteyyapahiṇagamanānaṃ
anuyogāti evamettha attho veditabbo.
Kayavikkayāti kayā ca vikkayā ca. Tulākūṭādīsu kūṭanti vañcanaṃ. Tattha
tulākūṭaṃ tāva rūpakūṭaṃ aṅgakūṭaṃ gahaṇakūṭaṃ paṭicchannakūṭanti catubbidhaṃ
hoti. Tattha rūpakūṭaṃ nāma dve tulā sarūpā katvā gaṇhanto mahatiyā gaṇhāti,
dadanto khuddikāya deti. Aṅgakūṭaṃ nāma gaṇhanto pacchābhāge hatthena tulaṃ
akkamati, dadanto pubbabhāge. Gahaṇakūṭaṃ nāma gaṇhanto mūle rajjuṃ gaṇhāti,
dadanto agge. Paṭicchannakūṭaṃ nāma tulaṃ susiraṃ katvā anto ayacuṇṇaṃ
pakkhipitvā gaṇhanto taṃ pacchābhāge karoti, dadanto aggabhāge. Kaṃso vuccati
suvaṇṇapāti, tāya vañcanaṃ kaṃsakūṭaṃ. Kathaṃ? Ekaṃ suvaṇṇapātiṃ katvā aññā dve
tisso lohapātiyo suvaṇṇavaṇṇā karoti, tato janapadaṃ gantvā kiñcideva addhakulaṃ
pavisitvā, ‘‘suvaṇṇabhājanāni kiṇathā’’ti vatvā agghe pucchite samagghataraṃ
dātukāmā honti. Tato tehi ‘‘kathaṃ imesaṃ suvaṇṇabhāvo jānitabbo’’ti vutte –
‘‘vīmaṃsitvā gaṇhathā’’ti suvaṇṇapātiṃ pāsāṇe ghaṃsitvā sabbā pātiyo datvā
gacchati.
Mānakūṭaṃ nāma hadayabhedasikhābhedarajjubhedavasena tividhaṃ hoti.
Tattha hadayabhedo sappitelādiminanakāle labbhati. Tāni hi gaṇhanto heṭṭhā
chiddena mānena, ‘‘saṇikaṃ āsiñcā’’ti vatvā antobhājane bahuṃ paggharāpetvā gaṇhāti;
dadanto chiddaṃ pidhāya sīghaṃ pūretvā deti. Sikhābhedo tilataṇḍulādiminanakāle
labbhati. Tāni hi gaṇhanto saṇikaṃ sikhaṃ ussāpetvā gaṇhāti, dadanto vegena
pūretvā sikhaṃ chindanto deti. Rajjubhedo khettavatthuminanakāle labbhati.
Lañjaṃ alabhantā hi khettaṃ amahantampi mahantaṃ katvā minanti.
Ukkoṭanādīsu ukkoṭananti sāmike assāmike kātuṃ lañjaggahaṇaṃ. Vañcananti
tehi tehi upāyehi paresaṃ vañcanaṃ. Tatridamekaṃ vatthu – eko kira luddako
migañca migapotakañca gahetvā āgacchati. Tameko dhutto, ‘‘kiṃ, bho, migo
agghati, kiṃ migapotako’’ti āha. ‘‘Migo dve kahāpaṇe migapotako eka’’nti ca
vutte kahāpaṇaṃ datvā migapotakaṃ gahetvā thokaṃ gantvā nivatto, ‘‘na me, bho,
migapotakena attho, migaṃ me dehī’’ti āha. Tena hi ‘‘dve kahāpaṇe dehī’’ti. So
āha – ‘‘nanu te, bho, mayā paṭhamaṃ eko kahāpaṇo dinno’’ti. Āma dinnoti.
‘‘Imampi migapotakaṃ gaṇha, evaṃ so ca kahāpaṇo ayañca kahāpaṇagghanako
migapotakoti dve kahāpaṇā bhavissantī’’ti. So kāraṇaṃ vadatīti sallakkhetvā
migapotakaṃ gahetvā migaṃ adāsīti.
Nikatīti yogavasena vā māyāvasena vā apāmaṅgaṃ pāmaṅganti, amaṇiṃ maṇinti,
asuvaṇṇaṃ suvaṇṇanti katvā paṭirūpakena vañcanaṃ. Sāciyogoti kuṭilayogo, etesaṃyeva
ukkoṭanādīnametaṃ nāmaṃ, tasmā ukkoṭanasāciyogo vañcanasāciyogo
nikatisāciyogoti evamettha attho daṭṭhabbo. Keci aññaṃ dassetvā aññassa
parivattanaṃ sāciyogoti vadanti. Taṃ pana vañcaneneva saṅgahitaṃ. Chedanādīsu
chedananti hatthacchedanādi. Vadhoti māraṇaṃ. Bandhoti rajjubandhanādīhi
bandhanaṃ. Viparāmosoti himaviparāmoso gumbaviparāmosoti duvidho. Yaṃ
himapātasamaye himena paṭicchannā hutvā maggapaṭipannaṃ janaṃ musanti, ayaṃ
himaviparāmoso. Yaṃ gumbādīhi paṭicchannā musanti, ayaṃ gumbaviparāmoso. Ālopo
vuccati gāmanigamādīnaṃ vilopakaraṇaṃ. Sahasākāroti sāhasikakiriyā, gehaṃ
pavisitvā manussānaṃ ure satthaṃ ṭhapetvā icchitabhaṇḍaggahaṇaṃ. Evametasmā
chedana…pe… sahasākārā paṭivirato hoti.
294. So santuṭṭho hotīti svāyaṃ bhikkhu heṭṭhā vuttena catūsu paccayesu
dvādasavidhena itarītarapaccayasantosena samannāgato hoti. Iminā pana dvādasavidhena
itarītarapaccayasantosena samannāgatassa bhikkhuno aṭṭha parikkhārā vaṭṭanti tīṇi
cīvarāni patto dantakaṭṭhacchedanavāsi ekā sūci kāyabandhanaṃ parissāvananti.
Vuttampi cetaṃ –
‘‘Ticīvarañca patto ca, vāsi sūci ca bandhanaṃ;
Parissāvanena aṭṭhete, yuttayogassa bhikkhuno’’ti.
Te sabbepi kāyaparihārikāpi honti kucchiparihārikāpi. Kathaṃ? Ticīvaraṃ
tāva nivāsetvā pārupitvā ca vicaraṇakāle kāyaṃ pariharati posetīti
kāyaparihārikaṃ hoti, cīvarakaṇṇena udakaṃ parissāvetvā pivanakāle
khāditabbaphalāphalaggahaṇakāle ca kucchiṃ pariharati posetīti kucchiparihārikaṃ
hoti. Pattopi tena udakaṃ uddharitvā nahānakāle kuṭiparibhaṇḍakaraṇakāle ca
kāyaparihāriko hoti, āhāraṃ gahetvā bhuñjanakāle kucchiparihāriko hoti. Vāsipi
tāya dantakaṭṭhacchedanakāle mañcapīṭhānaṃ aṅgapādacīvarakuṭidaṇḍakasajjanakāle
ca kāyaparihārikā hoti, ucchucchedananāḷikerāditacchanakāle kucchiparihārikā.
Sūcipi cīvarasibbanakāle kāyaparihārikā hoti, pūvaṃ vā phalaṃ vā vijjhitvā
khādanakāle kucchiparihārikā. Kāyabandhanaṃ bandhitvā vicaraṇakāle
kāyaparihārikaṃ, ucchuādīni bandhitvā gahaṇakāle kucchiparihārikaṃ. Parissāvanaṃ
tena udakaṃ parissāvetvā nahānakāle, senāsanaparibhaṇḍakaraṇakāle ca
kāyaparihārikaṃ, pānīyaparissāvanakāle teneva tilataṇḍulaputhukādīni gahetvā
khādanakāle ca kucchiparihārikaṃ. Ayaṃ tāva aṭṭhaparikkhārikassa
parikkhāramattā.
Navaparikkhārikassa pana seyyaṃ pavisantassa tatraṭṭhakapaccattharaṇaṃ
vā kuñcikā vā vaṭṭati. Dasaparikkhārikassa nisīdanaṃ vā cammakhaṇḍaṃ vā vaṭṭati.
Ekādasaparikkhārikassa kattarayaṭṭhi vā telanāḷikā vā vaṭṭati.
Dvādasaparikkhārikassa chattaṃ vā upāhanā vā vaṭṭati. Etesu ca aṭṭhaparikkhārikova
santuṭṭho, itare asantuṭṭhā, mahicchā mahābhārāti na vattabbā. Etepi hi
appicchāva santuṭṭhāva subharāva sallahukavuttinova. Bhagavā pana nayimaṃ suttaṃ
tesaṃ vasena kathesi, aṭṭhaparikkhārikassa vasena kathesi. So hi
khuddakavāsiñca sūciñca parissāvane pakkhipitvā pattassa anto ṭhapetvā pattaṃ aṃsakūṭe
laggetvā ticīvaraṃ kāyapaṭibaddhaṃ katvā yenicchakaṃ sukhaṃ pakkamati. Paṭinivattetvā
gahetabbaṃ nāmassa na hoti, iti imassa bhikkhuno sallahukavuttitaṃ dassento
bhagavā, santuṭṭho hoti kāyaparihārikena cīvarenātiādimāha.
Tattha kāyaparihārikenāti kāyapariharaṇamattakena. Kucchiparihārikenāti
kucchipariharaṇamattakena. Samādāyeva pakkamatīti taṃ aṭṭhaparikkhāramattakaṃ
sabbaṃ gahetvā kāyapaṭibaddhaṃ katvāva gacchati, ‘‘mama vihāro pariveṇaṃ upaṭṭhāko’’tissa
saṅgo vā baddho vā na hoti, so jiyā mutto saro viya, yūthā apakkanto
mattahatthī viya icchiticchitaṃ senāsanaṃ vanasaṇḍaṃ rukkhamūlaṃ vanapabbhāraṃ
paribhuñjanto ekova tiṭṭhati, ekova nisīdati, sabbiriyāpathesu ekova adutiyo.
‘‘Cātuddiso appaṭigho ca hoti,
Santussamāno itarītarena;
Parissayānaṃ sahitā achambhī,
Eko care khaggavisāṇakappo’’ti. (su. ni. 42);
Evaṃ vaṇṇitaṃ khaggavisāṇakappataṃ āpajjati.
Idāni tamatthaṃ upamāya sādhento seyyathāpītiādimāha. Tattha pakkhī sakuṇoti
pakkhayutto sakuṇo. Ḍetīti uppatati. Ayaṃ panettha saṅkhepattho – sakuṇā nāma
‘‘asukasmiṃ padese rukkho paripakkaphalo’’ti ñatvā nānādisāhi āgantvā
nakhapakkhatuṇḍādīhi tassa phalāni vijjhantā vidhunantā khādanti. ‘‘Idaṃ
ajjatanāya idaṃ svātanāya bhavissatī’’ti nesaṃ na hoti. Phale pana khīṇe neva
rukkhassa ārakkhaṃ ṭhapenti, na tattha pattaṃ vā nakhaṃ vā tuṇḍaṃ vā ṭhapenti,
atha kho tasmiṃ rukkhe anapekkho hutvā yo yaṃ disābhāgaṃ icchati, so tena
sapattabhārova – uppatitvā gacchati. Evameva ayaṃ bhikkhu nissaṅgo
nirapekkhoyeva pakkamati. Tena vuttaṃ ‘‘samādāyeva pakkamatī’’ti. Ariyenāti
niddosena. Ajjhattanti sake attabhāve. Anavajjasukhanti niddosasukhaṃ.
295. So cakkhunā rūpaṃ disvāti so iminā ariyena sīlakkhandhena
samannāgato bhikkhu cakkhuviññāṇena rūpaṃ passitvāti attho. Sesapadesu yaṃ
vattabbaṃ siyā, taṃ sabbaṃ visuddhimagge vuttaṃ. Abyāsekasukhanti kilesehi
anavasittasukhaṃ, avikiṇṇasukhantipi vuttaṃ. Indriyasaṃvarasukhañhi diṭṭhādīsu
diṭṭhamattādivasena pavattatāya avikiṇṇaṃ hoti. So abhikkante paṭikkanteti so
manacchaṭṭhānaṃ indriyānaṃ saṃvarena samannāgato bhikkhu imesu abhikkantapaṭikkantādīsu
sattasu ṭhānesu satisampajaññavasena sampajānakārī hoti. Tattha yaṃ vattabbaṃ
siyā, taṃ satipaṭṭhāne vuttameva.
296. So iminā cātiādinā kiṃ dasseti? Araññavāsassa paccayasampattiṃ
dasseti. Yassa hi ime cattāro paccayā natthi, tassa araññavāso na ijjhati,
tiracchānagatehi vā vanacarakehi vā saddhiṃ vattabbataṃ āpajjati, araññe
adhivatthā devatā, ‘‘kiṃ evarūpassa pāpabhikkhuno araññavāsenā’’ti bheravasaddaṃ
sāventi, hatthehi sīsaṃ paharitvā palāyanākāraṃ karonti. ‘‘Asuko bhikkhu araññaṃ
pavisitvā idañcidañca pāpakammaṃ akāsī’’ti ayaso pattharati. Yassa panete
cattāro paccayā atthi, tassa araññavāso ijjhati, so hi attano sīlaṃ
paccavekkhanto kiñci kāḷakaṃ vā tilakaṃ vā apassanto pītiṃ uppādetvā taṃ
khayato vayato sammasanto ariyabhūmiṃ okkamati, araññe adhivatthā devatā
attamanā vaṇṇaṃ bhāsanti, itissa udake pakkhittatelabindu viya yaso vitthāriko
hoti.
Tattha vivittanti suññaṃ appasaddaṃ, appanigghosanti attho. Etadeva hi sandhāya vibhaṅge, ‘‘vivittanti santike cepi senāsanaṃ hoti, tañca anākiṇṇaṃ gahaṭṭhehi pabbajitehi, tena taṃ vivitta’’nti (vibha. 526) vuttaṃ. Seti ceva āsati ca etthāti senāsanaṃ, mañcapīṭhādīnametaṃ adhivacanaṃ. Tenāha – ‘‘senāsananti mañcopi senāsanaṃ, pīṭhampi bhisipi bimbohanampi, vihāropi aḍḍhayogopi, pāsādopi, hammiyampi, guhāpi, aṭṭopi, māḷopi, leṇampi, veḷugumbopi, rukkhamūlampi, maṇḍapopi senāsanaṃ, yattha vā pana bhikkhū paṭikkamanti, sabbametaṃ senāsana’’nti. Apica ‘‘vihāro aḍḍhayogo pāsādo hammiyaṃ guhā’’ti idaṃ vihārasenāsanaṃ nāma. ‘‘Mañco pīṭhaṃ, bhisi bimbohana’’nti idaṃ mañcapīṭhasenāsanaṃ nāma. ‘‘Cimilikā, cammakhaṇḍo, tiṇasanthāro, paṇṇasanthāro’’ti idaṃ santhatasenāsanaṃ nāma. ‘‘Yattha vā pana bhikkhū paṭikkamantī’’ti idaṃ okāsasenāsanaṃ nāmāti evaṃ
catubbidhaṃ senāsanaṃ hoti, taṃ sabbampi senāsanaggahaṇena gahitameva.
Imassa pana sakuṇasadisassa cātuddisassa bhikkhuno anucchavikaṃ dassento araññaṃ
rukkhamūlantiādimāha.
Tattha araññanti ‘‘nikkhamitvā bahi indakhīlā, sabbametaṃ arañña’’nti
idaṃ bhikkhunīnaṃ vasena āgataṃ araññaṃ. ‘‘Āraññakaṃ nāma senāsanaṃ
pañcadhanusatikaṃ pacchima’’nti (pārā. 654) idaṃ pana imassa bhikkhuno anurūpaṃ,
tassa lakkhaṇaṃ visuddhimagge dhutaṅganiddese vuttaṃ. Rukkhamūlanti yaṃkiñci
sandacchāyaṃ vivittaṃ rakkhamūlaṃ. Pabbatanti selaṃ. Tattha hi udakasoṇḍīsu
udakakiccaṃ katvā sītāya rukkhacchāyāya nisinnassa nānādisāsu khāyamānāsu
sītena vātena vījiyamānassa cittaṃ ekaggaṃ hoti. Kandaranti kaṃ vuccati udakaṃ,
tena dāritaṃ, udakena bhinnaṃ pabbatappadesaṃ, yaṃ nadītumbantipi
nadīkuñjantipi vadanti. Tattha hi rajatapaṭṭasadisā vālikā honti, matthake maṇivitānaṃ
viya vanagahanaṃ, maṇikkhandhasadisaṃ udakaṃ sandati. Evarūpaṃ kandaraṃ oruyha
pānīyaṃ pivitvā gattāni sītāni katvā vālikaṃ ussāpetvā paṃsukūlacīvaraṃ
paññāpetvā nisinnassa samaṇadhammaṃ karoto cittaṃ ekaggaṃ hoti. Giriguhanti
dvinnaṃ pabbatānaṃ antarā, ekasmiṃyeva vā umaṅgasadisaṃ mahāvivaraṃ.
Susānalakkhaṇaṃ visuddhimagge vuttaṃ. Vanapatthanti atikkamitvā manussānaṃ
upacāraṭṭhānaṃ, yattha na kasanti na vapanti. Tenevāha – ‘‘vanapatthanti
dūrānametaṃ senāsanānaṃ adhivacana’’ntiādi (vibha. 531). Abbhokāsanti acchannaṃ,
ākaṅkhamāno panettha cīvarakuṭiṃ katvā vasati. Palālapuñjanti palālarāsiṃ.
Mahāpalālapuñjato hi palālaṃ nikkaḍḍhitvā pabbhāraleṇasadise ālaye karonti,
gacchagumbādīnampi upari palālaṃ pakkhipitvā heṭṭhā nisinnā samaṇadhammaṃ
karonti, taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ.
Pacchābhattanti bhattassa pacchato. Piṇḍapātapaṭikkantoti piṇḍapātapariyesanato
paṭikkanto. Pallaṅkanti samantato ūrubaddhāsanaṃ. Ābhujitvāti bandhitvā. Ujuṃ
kāyaṃ paṇidhāyāti uparimaṃ sarīraṃ ujukaṃ ṭhapetvā aṭṭhārasa piṭṭhikaṇṭake koṭiyā
koṭiṃ paṭipādetvā. Evañhi nisinnassa cammamaṃsanahārūni na paṇamanti. Athassa
yā tesaṃ paṇamanapaccayā khaṇe khaṇe vedanā uppajjeyyuṃ, tā na uppajjanti. Tāsu
anuppajjamānāsu cittaṃ ekaggaṃ hoti, kammaṭṭhānaṃ na paripatati, vuddhiṃ phātiṃ
upagacchati. Parimukhaṃ satiṃ upaṭṭhapetvāti kammaṭṭhānābhimukhaṃ satiṃ ṭhapayitvā,
mukhasamīpe vā katvāti attho. Teneva vibhaṅge vuttaṃ – ‘‘ayaṃ sati upaṭṭhitā
hoti sūpaṭṭhitā nāsikagge vā mukhanimitte vā, tena vuccati parimukhaṃ satiṃ upaṭṭhapetvā’’ti
(vibha. 537). Atha vā ‘‘parīti pariggahaṭṭho, mukhanti niyyānattho, satīti upaṭṭhānattho,
tena vuccati parimukhaṃ sati’’nti (paṭi. ma. 1.164) evaṃ paṭisambhidāyaṃ
vuttanayenapettha attho daṭṭhabbo. Tatrāyaṃ saṅkhepo ‘‘pariggahitaniyyānasatiṃ
katvā’’ti.
Abhijjhaṃ loketi ettha lujjanapalujjanaṭṭhena pañcupādānakkhandhā loko,
tasmā pañcasu upādānakkhandhesu rāgaṃ pahāya kāmacchandaṃ vikkhambhetvāti
ayamettha attho. Vigatābhijjhenāti vikkhambhanavasena pahīnattā
vigatābhijjhena, na cakkhuviññāṇasadisenāti attho. Abhijjhāya cittaṃ
parisodhetīti abhijjhāto cittaṃ parimoceti. Yathā naṃ sā muñcati ceva, muñcitvā
ca na puna gaṇhāti, evaṃ karotīti attho. Byāpādapadosaṃ pahāyātiādīsupi eseva
nayo. Byāpajjati iminā cittaṃ pūtikammāsādayo viya purimapakatiṃ pajahatīti
byāpādo. Vikārāpattiyā padussati, paraṃ vā padūseti vināsetīti padoso.
Ubhayametaṃ kodhassevādhivacanaṃ. Thinaṃ cittagelaññaṃ. Middhaṃ cetasikagelaññaṃ.
Thinañca middhañca thinamiddhaṃ. Ālokasaññīti rattimpi divā diṭṭhaālokasañjānanasamatthatāya
vigatanīvaraṇāya parisuddhāya saññāya samannāgato. Sato sampajānoti satiyā ca
ñāṇena ca samannāgato. Idaṃ ubhayaṃ ālokasaññāya upakārattā vuttaṃ. Uddhaccañca
kukkuccañca uddhaccakukkuccaṃ. Tiṇṇavicikicchoti vicikicchaṃ taritvā
atikkamitvā ṭhito. ‘‘Kathamidaṃ kathamida’’nti evaṃ nappavattatīti akathaṃkathī.
Kusalesu dhammesūti anavajjesu dhammesu. ‘‘Ime nu kho kusalā, kathamime
kusalā’’ti evaṃ na vicikicchati na kaṅkhatīti attho. Ayamettha saṅkhepo, imesu
pana nīvaraṇesu vacanatthalakkhaṇādibhedato yaṃ vattabbaṃ siyā, taṃ sabbaṃ
visuddhimagge vuttaṃ.
297. Paññāya dubbalīkaraṇeti ime pañca nīvaraṇā uppajjamānā anuppannāya
lokiyalokuttarāya paññāya uppajjituṃ na denti, uppannā api aṭṭha samāpattiyo
pañca vā abhiññā ucchinditvā pātenti; tasmā ‘‘paññāya dubbalīkaraṇā’’ti
vuccanti. Tathāgatapadaṃ itipīti idampi tathāgatassa ñāṇapadaṃ ñāṇavaḷañjaṃ ñāṇena
akkantaṭṭhānanti vuccati. Tathāgatanisevitanti tathāgatassa ñāṇaphāsukāya nighaṃsitaṭṭhānaṃ.
Tathāgatārañjitanti tathāgatassa ñāṇadāṭhāya ārañjitaṭṭhānaṃ.
299. Yathābhūtaṃ pajānātīti yathāsabhāvaṃ pajānāti. Natveva tāva ariyasāvako
niṭṭhaṃ gato hotīti imā jhānābhiññā bāhirakehipi sādhāraṇāti na tāva niṭṭhaṃ
gato hoti. Maggakkhaṇepi apariyositakiccatāya na tāva niṭṭhaṃ gato hoti. Apica
kho niṭṭhaṃ gacchatīti apica kho pana maggakkhaṇe mahāhatthiṃ passanto
nāgavaniko viya sammāsambuddho bhagavāti iminā ākārena tīsu ratanesu niṭṭhaṃ
gacchati. Niṭṭhaṃ gato hotīti evaṃ maggakkhaṇe niṭṭhaṃ gacchanto
arahattaphalakkhaṇe pariyositasabbakiccatāya sabbākārena tīsu ratanesu niṭṭhaṃ
gato hoti. Sesaṃ uttānatthamevāti.
Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Cūḷahatthipadopamasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
-ooOoo-
No comments:
Post a Comment