Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
22. Kinh Ví Dụ Con Rắn
(Alagaddūpama Sutta) (tiếp theo)
Tên kinh lấy từ một ví dụ ở trong phần đầu của pháp thoại. Trong dụ ngôn nầy người học Phật pháp phải cẩn trọng và khéo léo như người bắt rắn. Sự vụng về có thể mang lại hậu quả tai hại. Trước kinh bài kinh nầy còn có tên thuần Hán Việt là Kinh Xà Dụ.
108. Định
hướng đúng sai khởi sự từ cái nhìn ban đầu
Này
các Tỷ-kheo, có sáu kiến xứ. Thế nào là sáu? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, có kẻ vô văn phàm phu, không đi đến yết kiến các bậc
Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các
bậc Thánh, không đi đến yết kiến các bậc Chơn nhơn, không thuần
thục pháp các bậc Chơn nhơn, không tu tập pháp các bậc Chơn nhơn,
xem sắc pháp: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này
là tự ngã của tôi", xem cảm thọ: "Cái này là của tôi,
cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi", xem tưởng:
"Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của
tôi", xem các hành: "Cái này là của tôi, cái này là tôi,
cái này là tự ngã của tôi", xem cái gì được thấy, được nghe,
được cảm xúc, được ý thức, được đạt tới, được tìm cầu, được
ý suy tư: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là
tự ngã của tôi", và bất cứ kiến xứ nào đều nói rằng:
"Ðây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết, tôi sẽ thường
còn, thường hằng, thường trú, không biến chuyển, tôi sẽ trú như
thế này cho đến mãi mãi", xem như vậy là: "Cái này là của
tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi".
Và
này chư Tỷ-kheo, có vị Ða văn Thánh đệ tử đi đến yết kiến các bậc
Thánh, thuần thục các pháp bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, đi
đến yết kiến các bậc Chơn nhơn, thuần thục pháp các bậc Chơn
nhơn, tu tập pháp các bậc Chơn nhơn, xem sắc pháp: "Cái này
không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải
tự ngã của tôi", xem cảm thọ: "Cái này không phải của
tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của
tôi", xem tưởng: "Cái này không phải của tôi, cái này
không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi", xem
các hành: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là
tôi, cái này không phải tự ngã của tôi", xem cái gì được
thấy, được nghe, được cảm xúc, được ý thức, được đạt tới, được
tìm cầu, được ý suy tư: "Cái này không phải của tôi, cái này
không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi", và
bất cứ kiến xứ nào đều nói rằng: "Ðây là thế giới, đây là
tự ngã, sau khi chết tôi sẽ thường còn, thường hằng, thường trú,
không biến chuyển, tôi sẽ trú như thế này cho đến mãi mãi",
xem như vậy là: "Cái này không phải của tôi, cái này không
phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi". Vị này do
quán sát như vậy, đối với sự vật chẳng thật có nên không có lo
âu, phiền muộn.
Thế
giới quan bị nhận thức sai lạc
gồm:
a. Sắc uẩn hay thân tức những gì thuộc vật
chất của chúng sanh.
b. Thọ uẩn hay cảm giác khổ, lạc, không khổ
không lạc
c. Tưởng uẩn hay nhận thức từ kinh nghiệm,
từ những từng trãi
d. Hành uẩn hay tạo tác, chọn lựa, chủ
trương của tâm ý
e. Thức uẩn là cái biết của các giác quan
như thị giác, thính giác, khứu giác…
f. Đối tượng của năm uẩn gồm “những gì được
thấy, được nghe, được cảm xúc, được ý thức, được đạt tới, được tìm cầu, được ý
suy tư” “
Nhận thức sai lạc là sự chấp thủ "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi", và bất cứ kiến xứ nào đều nói rằng: "Ðây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết, tôi sẽ thường còn, thường hằng, thường trú, không biến chuyển, tôi sẽ trú như thế này cho đến mãi mãi".
Đối với một vị đệ tử Phật hiểu nhiều về pháp, có đi đến yết kiến các bậc Thánh, thuần thục các pháp bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, đi đến yết kiến các bậc Chơn nhơn, thuần thục pháp các bậc Chơn nhơn, tu tập pháp các bậc Chơn nhơn sẽ không có những chấp thủ trên.
Những âu lo, phiền muộn, căng thẳng do ảo giác tạo thành. Từ bỏ chấp thủ sai lạc thì đau khổ chấm dứt
Ðược nghe nói vậy, một Tỷ-kheo khác bạch Thế Tôn:
-- Có thể có cái gì không thực có ở ngoài, có thể gây lo âu phiền muộn? Thế Tôn đáp:
Này
các Tỷ-kheo, các Ông có thể nắm giữ một vật sở hữu gì, và vật sở
hữu được nắm giữ ấy sẽ thường còn, thường hằng, thường trú,
không chuyển biến, có thể trú như thế này mãi mãi không? Chư
Tỷ-kheo, các Ông có thể thấy một vật sở hữu nào được nắm giữ và
vật sở hữu được nắm giữ ấy sẽ thường còn, thường hằng, thường
trú, không chuyển biến, có thể trú như thế này mãi mãi không?
Chấp ngã đối với những gì vô thường thì sanh ra khổ
Này
các Tỷ-kheo, các Ông có thể chấp thủ Ngã luận thủ nào mà Ngã
luận thủ ấy được chấp thủ như vậy lại không khởi lên sầu, bi,
khổ, ưu, não không? Này các Tỷ-kheo, các Ông có thấy Ngã luận thủ
nào mà Ngã luận thủ ấy được chấp thủ như vậy lại không khởi lên
sầu, bi, khổ, ưu, não không?
-- Bạch Thế Tôn không.
-- Lành thay, này các Tỷ-kheo. Này các Tỷ-kheo, Ta cũng không thấy Ngã luận thủ nào mà Ngã luận thủ ấy được chấp thủ như vậy lại không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não.
Ngay cả những quan niệm dựa trên ngã chấp cũng sanh khổ.
Này
các Tỷ-kheo, các Ông có kiến y nào, mà kiến y ấy được y chỉ như
vậy lại không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não không? Này các
Tỷ-kheo, các Ông có thấy kiến y nào, mà kiến y ấy được y chỉ như
vậy lại không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não không?
-- Bạch Thế Tôn, không
-- Lành thay, này các Tỷ-kheo! Này các Tỷ-kheo, Ta cũng không thấy một kiến y nào, mà kiến y ấy được y chỉ như vậy, lại không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não.
Chấp thủ ngã và ngã sở (chấp là ta, là của ta) là cặp bài trùng
Chư
Tỷ-kheo, nếu có ngã thời có ngã sở thuộc của tôi không?
-- Bạch Thế Tôn, có.
-- Chư Tỷ-kheo, nếu có ngã sở thuộc, thời có ngã của tôi không?
-- Bạch Thế Tôn, có.
-- Chư Tỷ-kheo, nếu ngã và ngã sở thuộc không thể được chấp nhận là thường còn, thường hằng, thì kiến xứ này: "Ðây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết tôi sẽ thành thường còn, thường hằng, thường trú, không biến chuyển tôi sẽ trú như thế này cho đến mãi mãi". Này các Tỷ-kheo, kiến xứ ấy là hoàn toàn, triệt để chẳng ngu si không?
-- Bạch Thế Tôn, làm sao có thể hoàn toàn, triệt để chẳng ngu si được!
Năm uẩn là vô thường, cái gì vô thường là khổ, cái gì vô thường là khổ thì không nên chấp thủ "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"
-- Này
các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Sắc là thường hay vô thường?
-- Bạch Thế Tôn, vô thường.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Bạch Thế Tôn, khổ.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thì có hợp lý chăng khi chánh quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
-- Bạch Thế Tôn, không.
-- Chư Tỷ-kheo, cảm thọ là thường hay vô thường?
-- Bạch Thế Tôn, là vô thường.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Bạch Thế Tôn, là khổ.
--
Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại thì có hợp lý chăng khi
chánh quán cái ấy là: "Cái này là của tôi... tự ngã của
tôi"?
-- Bạch Thế Tôn, không.
-- Chư Tỷ-kheo, tưởng là thường hay vô thường?
-- Bạch Thế Tôn, vô thường.
-- Cái gì vô thường...?
-- Bạch Thế Tôn, không.
-- Chư Tỷ-kheo, các hành là thường hay vô thường... chư Tỷ-kheo, thức là thường hay vô thường?
-- Bạch Thế Tôn, vô thường.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?-- Bạch Thế Tôn, khổ.
- Cái gì vô thường, khổ thì có hợp lý chăng, khi chánh quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
-- Bạch Thế Tôn, không.
Nhận thức một cách toàn diện
-- Do
vậy, này các Tỷ-kheo, bất cứ các sắc pháp nào, quá khứ, tương
lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần;
tất cả sắc pháp là: "Cái này không phải của tôi, cái này
không phải là của tôi, cái này không phải tự ngã của tôi",
cần phải như thật quán với chánh trí tuệ. Bất cứ cảm thọ nào...
Bất cứ tưởng nào... Bất cứ hành nào... Bất cứ thức nào, quá khứ,
vị lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay
gần, tất cả thức là: "Cái này không phải của tôi, cái này
không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi", cần
phải như thật quán với chánh trí tuệ.
Giác ngộ là cánh cửa giải thoát
Chư
Tỷ-kheo, nhờ thấy vậy, vị Ða văn Thánh đệ tử yểm ly đối với sắc,
yểm ly đối với thọ, yểm ly đối với tưởng, yểm ly đối với hành,
yểm ly đối với thức, do yểm ly nên ly tham, do ly tham, nên được giải
thoát, trong sự giải thoát có trí khởi lên, biết được đã giải
thoát. Vị ấy biết: "Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những gì
nên làm đã làm, không còn trở lui tại đây với một đời sống
khác".
Bậc A-la-hán hoàn toàn giải thoát
Chư
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là vị đã vất bỏ đi các chướng ngại
vật, là vị đã lấp đầy các thông hào, là vị đã nhổ lên cột trụ,
là vị đã mở tung các lề khóa, là bậc Thánh đã hạ cây cờ xuống,
đã đặt gánh nặng xuống, không có gì hệ lụy.
Và
thế nào là Tỷ-kheo đã vất bỏ đi các chướng ngại? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, là đã đoạn trừ vô minh, cắt tận gốc rễ, làm cho như cây
ta-la bị chặt đầu, khiến không thể tái sanh trong tương lai, không
có khả năng sanh khởi. Chư Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo đã vất bỏ
đi các chướng ngại.
No comments:
Post a Comment