Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
26. Kinh Thánh Cầu
(Ariyapariyesanā Sutta)
Thánh cầu có nghĩa là hoài bảo thánh thiện
hay chí hướng cao quý. Đó là nội dung mà Đức Phật dạy cho chư tỳ kheo qua dẫn
chứng cụ thể về cuộc đời của Ngài.
131. Cung cách và huấn thị của Đấng Pháp Vương
Như vầy tôi nghe.
-- Này các
Tỷ-kheo, lành thay khi Thiện nam tử các Người, vì lòng tin xuất gia,
từ bỏ gia đình, sống không gia đình, cùng nhau hội họp để luận bàn
đạo pháp. Này các Tỷ-kheo, khi các Người hội họp với nhau, có hai
việc cần phải làm: luận bàn đạo pháp hay giữ sự im lặng của bậc
Thánh.
Này các
Tỷ-kheo, có hai loại tầm cầu này: Thánh cầu và phi Thánh cầu. Chư
Tỷ-kheo, và thế nào là phi Thánh cầu? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có
người tự mình bị sanh lại tầm cầu cái bị sanh, tự mình bị già
lại tìm cầu cái bị già, tự mình bị bệnh... tự mình bị chết... tự
mình bị sầu... tự mình bị ô nhiễm lại tầm cầu cái bị ô nhiễm.
Và này các
Tỷ-kheo, cái gì theo các Người gọi là bị bệnh? Này các Tỷ-kheo,
vợ con là bị bệnh; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bi bệnh; dê và cừu
là bị bệnh; gà và heo là bị bệnh; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là
bị bệnh. Này các Tỷ-kheo, những chấp thủ ấy là bị bệnh, và người
ấy lại nắm giữ tham đắm, mê say chúng, tự mình bị bệnh lại tìm
cầu cái bị bệnh.
Này các
Tỷ-kheo, Ta cũng vậy, trước khi Giác Ngộ, khi chưa chứng Chánh Ðẳng
Giác, khi còn là Bồ- tát, tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh,
tự mình bị già, lại tìm cầu cái bị già, tự mình bị bệnh... tự
mình bị chết... tự mình bị sầu"... tự mình bị ô nhiễm lại
tìm cầu cái bị ô nhiễm. Này các Tỷ-kheo, rồi Ta suy nghĩ như sau:
"Tại sao Ta, tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh, tự mình
bị già... (như trên)... tự mình bi ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô
nhiễm? Vậy Ta, tự mình bị sanh, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị
sanh, hãy tìm cầu cái không sanh vô thượng an ổn khỏi các khổ ách,
Niết-bàn; tự mình bị già... cái không già... tự mình bị bệnh...
cái không bệnh... tự mình bị chết... cái bất tử... tự mình bị
sầu... cái không sầu... tự mình bi ô nhiễm, sau khi biết rõ sự nguy
hại của cái bị nhiễm, hãy tìm cầu cái không ô nhiễm, vô thượng
an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn.
Rồi này các Tỷ-kheo, sau một thời gian, khi Ta còn trẻ, niên thiếu, tóc đen nhánh, đầy đủ huyết khí của tuổi thanh xuân, trong thời vàng son cuộc đời, mặc dầu cha mẹ không bằng lòng, nước mắt đầy mặt, than khóc, Ta cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Ta xuất gia như vậy, một người đi tìm cái gì chí thiện, tìm cầu vô thượng tối thắng an tịnh đạo lộ. Ta đến chỗ Āḷāra Kālāma ở, khi đến xong liền thưa với Āḷāra Kālāma: "Hiền giả Kālāma, tôi muốn sống phạm hạnh trong pháp luật này". Này các Tỷ-kheo, được nghe nói vậy, Āḷāra Kālāma nói với Ta: "Này Tôn giả, hãy sống (và an trú). Pháp này là như vậy, khiến kẻ có trí, không bao lâu như vị Bổn sư của mình (chỉ dạy), tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú". Này các Tỷ-kheo, và không bao lâu Ta đã thông suốt pháp ấy một cách mau chóng. Và này các Tỷ-kheo, cho đến vấn đề khua môi và vấn đề phát ngôn mà nói, thời Ta nói giáo lý của kẻ trí và giáo lý của bậc Trưởng lão (Thượng tọa), và Ta tự cho rằng Ta như kẻ khác cũng vậy, Ta biết và Ta thấy.
Này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ như sau: " Āḷāra Kālāma tuyên bố pháp này không phải chỉ vì lòng tin: "Sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt, Ta mới an trú". Chắc chắn Āḷāra Kālāma biết pháp này, thấy pháp này rồi mới an trú". Này các Tỷ-kheo, rồi Ta đi đến chỗ Āḷāra Kālāma ở, sau khi đến Ta nói với Alara Kalama: "Hiền giả Kālāma, cho đến mức độ nào, Ngài tự tri, tự chứng, tự đạt, và tuyên bố pháp này?" Này các Tỷ-kheo, được nói vậy, Āḷāra Kālāma tuyên bố về Vô sở hữu xứ.
Rồi này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ: "Không phải chỉ có Āḷāra Kālāma có lòng tin, Ta cũng có lòng tin. Không phải chỉ có Āḷāra Kālāma mới có tinh tấn, Ta cũng có tinh tấn. Không phải chỉ có Āḷāra Kālāma mới có niệm, Ta cũng có niệm. Không phải chỉ có Alara Kalama mới có định, Ta cũng có định. Không phải chỉ có Āḷāra Kālāma mới có tuệ, Ta cũng có tuệ. Vậy Ta hãy cố gắng chứng cho được pháp mà Alara Kalama tuyên bố: "Sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt, ta an trú".
Rồi này các Tỷ-kheo, không bao lâu sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt pháp ấy một cách mau chóng, Ta an trú. Rồi này các Tỷ-kheo, Ta đi đến chỗ Āḷāra Kālāma ở, sau khi đến, Ta nói với Āḷāra Kālāma: "Này Hiền giả Kālāma, có phải Hiền giả đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy?"
--"Vâng, Hiền giả, tôi đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy".
-- "Này Hiền giả, tôi cũng tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy".
--"Thật lợi ích thay cho chúng tôi, Thật khéo lợi ích thay cho chúng tôi, khi chúng tôi được thấy một đồng phạm hạnh như Tôn giả! Pháp mà tôi tự tri, tự chứng, tự đạt, và tuyên bố, chính pháp ấy Hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú; pháp mà Hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú, chính pháp ấy tôi tự tri, tự chứng tự đạt và tuyên bố; pháp mà tôi biết, chính pháp ấy Hiền giả biết; pháp mà Hiền giả biết, chính pháp ấy tôi biết. Tôi như thế nào, Hiền giả là như vậy; Hiền giả như thế nào, tôi là như vậy. Nay hãy đến đây, Hiền giả, hai chúng ta hãy chăm sóc hội chúng này!"
134. Không dừng cuộc hành trình khi cứu cánh chưa đạt được
Ngài lên đường, đầu tiên tìm đến hai vị chân sư để học đạo đó là Alara Kalama và Uddaka Ramaputta; hai vị nầy một chứng thiền vô sở hữu xứ, một chứng thiền phi tưởng phi phi tưởng xứ. Bồ tát nhanh chóng chứng đạt sở đắc của hai vị thầy và được mời ở lại cùng ngồi vào chiếc ghế của giáo chủ nhưng Ngài từ chối vì thấy đó không phải là cứu cánh đích thực.
Như vậy này
các Tỷ-kheo, Āḷāra Kālāma là Ðạo Sư của Ta, lại đặt Ta, đệ tử của
vị ấy ngang hàng với mình, và tôn sùng Ta với sự tôn sùng tối
thượng. Này các Tỷ-kheo, rồi Ta tự suy nghĩ: "Pháp này không
hướng đến yểm ly, không hướng đến ly tham, không hướng đến đoạn diệt,
không hướng đến an tịnh, không hướng đến thượng trí, không hướng
đến giác ngộ, không hướng đến Niết-bàn, mà chỉ đưa đến sự chứng
đạt Vô sở hữu xứ". Như vậy này các Tỷ-kheo, Ta không tôn kính
pháp này, và từ bỏ pháp ấy, Ta bỏ đi.
Này các
Tỷ-kheo, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Pháp này do Ta chứng được, thật
là sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận,
vi diệu, chỉ người trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng này thì ưa
ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục. Ðối với quần chúng ưa ái
dục, khoái ái dục, ham thích ái dục, thật khó mà thấy được định
lý Idapaccāyata Paṭiccasamuppāda (Y Tánh Duyên Khởi Pháp); sự kiện
này thật khó thấy; tức là sự tịnh chỉ tất cả hành, sự trừ bỏ
tất cả sanh y, ái diệt, ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn. Nếu nay Ta
thuyết pháp mà các người khác không hiểu Ta, thời như vậy thật
khổ não cho Ta, như vậy thật bực mình cho Ta!" Này các Tỷ-kheo,
rồi những kệ bất khả tư nghì, từ trước chưa từng được nghe,
được khởi lên nơi Ta:
Ðược chứng ngộ
khó khăn?
Những ai còn
tham sân,
Khó chứng ngộ
pháp này.
Ði ngược dòng,
thâm diệu,
Khó thấy, thật tế nhị,
Kẻ ái nhiễm vô minh,
Không thấy được pháp này.
Hiện ra pháp bất tịnh,
Pháp do tâm cấu uế,
Do suy tư tác thành.
Hãy mỡ tung mở rộng,
Cánh cửa bất tử này.
Hãy để họ nghe Pháp,
Bậc Thanh tịnh Chứng Ngộ.
Trên đỉnh núi (tột cao)
Có người đứng nhìn xuống,
Ðám chúng sanh quây quần.
Cũng vậy, ôi Thiện Tuệ,
Bậc Biến Nhãn cùng khắp,
Leo lên ngôi lâu đài,
Xây dựng bằng Chánh pháp
Bậc Thoát Ly sầu muộn,
Nhìn xuống đám quần sanh,
Bị sầu khổ áp bức,
Bị sanh già chi phối,
Bậc Chiến Thắng chiến trường.
Vị trưởng đoàn lữ khách,
Bậc Thoát Ly nợ nần.
Hãy đi khắp thế giới,
Bậc Thế Tôn Chánh Giác!
Hãy thuyết vi diệu pháp,
Người nghe sẽ thâm hiểu!
Cho những ai chịu nghe.
Hãy từ bỏ tín tâm,
Không chính xác của mình.
Tự nghĩ đến phiền toái,
Ta đã không muốn giảng,
Tối thượng vi diệu pháp,
Giữa chúng sanh loài Người.
(Ôi Phạm thiên!)”
Này các
Tỷ-kheo, một tà mạng ngoại đạo tên là Upaka, đã thấy Ta khi Ta còn
đi trên con đường giữa Gayā và cây Bồ-đề. Sau khi thấy, vị ấy nói
với Ta:
Ta, bậc Nhất thiết Trí.
Hết thảy pháp, không nhiễm,
Hết thảy pháp, xả ly.
Ta sống chân giải thoát,
Ðoạn tận mọi khát ái.
Như vậy Ta tự giác,
Còn phải y chỉ ai?
Ta không có Ðạo Sư,
Bậc như Ta không có.
Giữa thế giới Nhơn, Thiên,
Không có ai bằng Ta.
Bậc Ứng Cúng trên đời,
Bậc Ðạo Sư vô thượng.
Tự mình Chánh Ðẳng Giác,
Ta an tịnh, thanh thoát.
Ðể chuyển bánh xe Pháp.
Ta đến thành Kàsi.
Gióng lên trống bất tử,
Trong thế giới mù lòa."
Những ai chứng lậu tận,
Ác pháp, Ta nhiếp phục,
Do vậy, Ta vô địch". (Này Upaka).
Nói xong, Upaka lắc đầu rồi đi theo một ngã khác.
Này các Tỷ-kheo, rồi Ta tuần tự đi
đến Baranasi, Isipatana, vườn Lộc Uyển, đi đến chỗ nhóm năm Tỷ- kheo
ở. Này các Tỷ-kheo, nhóm năm Tỷ-kheo khi thấy Ta từ xa đi đến, đã
cùng nhau thỏa thuận như sau: "Này các Hiền giả, nay Sa-môn
Gotama đang đi đến; vị này sống trong sự sung túc, đã từ bỏ tinh cần,
đã trở lui đời sống đầy đủ vật chất. Chúng ta chớ có đảnh lễ, chớ
có đứng dậy, chớ có lấy y bát. Hãy đặt một chỗ ngồi, và nếu vị
ấy muốn, vị ấy sẽ ngồi". Này các Tỷ-kheo, nhưng khi Ta đi đến
gần, năm Tỷ-kheo ấy không thể giữ đúng điều đã thỏa thuận với
nhau. Có người đến đón Ta và cầm lấy y bát, có người sắp đặt chỗ
ngồi, có người đem nước rửa chân đến. Nhưng các vị ấy gọi Ta
bằng tên với danh từ Hiền giả (Avuso). Này các Tỷ-kheo khi ta
nghe nói vậy, Ta nói với nhóm năm Tỷ-kheo:
"-- Này các Tỷ-kheo, chớ có gọi Ta bằng tên và dùng danh từ Hiền giả. Này các Tỷ-kheo, Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Hãy lóng tai, Pháp bất tử đã chứng được, Ta giảng dạy, Ta thuyết pháp. Sống đúng theo lời khuyến giáo, các Ông không bao lâu, sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt ngay trong hiện tại, mục đích vô thượng của phạm hạnh mà các Thiện nam tử, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình, các Ông sẽ an trú. "
Này các Tỷ-kheo, khi nghe nói vậy, nhóm năm Tỷ-kheo nói Ta:
"-- Hiền giả Gotama, với nếp sống này, với đạo tu này, với khổ
hạnh này, Hiền giả đã không chứng được Pháp siêu nhân, tri kiến,
thù thắng xứng đáng bậc Thánh, thì này làm sao Hiền giả, với nếp
sống sung túc, với sự từ bỏ tinh cần, với sự trở lui đời sống vật
chất đầy đủ, lại có thể chứng được Pháp siêu nhân, tri kiến thù
thắng xứng đáng bậc Thánh?"
Này các Tỷ-kheo, khi nghe nói vậy, Ta nói với nhóm năm Tỷ-kheo:
"-- Này các Tỷ-kheo, Như Lai không sống sung túc, không từ bỏ tinh cần, không trở lui đời sống vật chất đầy đủ. Này các Tỷ-kheo, Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Này các Tỷ-kheo, hãy lóng tai, Pháp bất tử đã chứng được, Ta giảng dạy, Ta thuyết pháp. Sống đúng theo lời khuyến giáo, các Ông không bao lâu, sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt ngay trong hiện tại mục đích vô thượng của Phạm hạnh mà các Thiện nam tử xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, các Ông sẽ an trú."
Này các Tỷ-kheo, lại lần thứ hai, nhóm năm Tỷ-kheo nói với Ta:
"-- Hiền giả Gotama, với nếp sống này ... (như trên)... tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh?"
Này các Tỷ-kheo, lại lần thứ hai Ta nói với nhóm năm Tỷ-kheo:
"-- Này các Tỷ-kheo, Như Lai không sống sung túc ... (như trên)... các Ông sẽ an trú."
Này các Tỷ-kheo, lại lần thứ ba, nhóm năm Tỷ-kheo nói với Ta:
"-- Hiền giả Gotama, với nếp sống này... (như trên)... tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh?"
Này các Tỷ-kheo, khi nghe nói vậy, Ta nói với nhóm năm Tỷ-kheo:
"-- Này các Tỷ-kheo, từ trước đến nay, các Ông có chấp nhận là Ta chưa bao giờ nói như vậy chăng?"
"-- Bạch Thế Tôn chưa bao giờ như vậy. "
"-- Này các Tỷ-kheo, Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Hãy lóng tai, Pháp bất tử đã chứng được, Ta giảng dạy, Ta thuyết pháp. Sống đúng theo lời khuyến giáo, các Ông không bao lâu, sau khi tự tri, tư chứng, tự đạt được ngay trong hiện tại mục đích vô thượng của phạm hạnh mà các Thiện nam tử xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, các Ông sẽ an trú".
Này các Tỷ-kheo, Ta đã làm cho nhóm năm Tỷ-kheo chấp nhận. Này các Tỷ-kheo, Ta thuyết giảng cho hai Tỷ-kheo. Ba Tỷ-kheo kia đi khất thực. Ðồ ăn mà ba Tỷ-kheo này khất thực mang về, đủ nuôi sống cho nhóm sáu người. Này các Tỷ-kheo, Ta thuyết giảng cho ba Tỷ-kheo. Hai Tỷ-kheo kia đi khất thực.. Ðồ ăn mà hai Tỷ-kheo này khất thực mang về, đủ nuôi sống cho nhóm sáu người. Này các Tỷ-kheo, chúng năm Tỷ-kheo, sau khi được Ta thuyết giảng, sau khi được Ta khuyến giáo, tự mình bị sanh, sau khi biết được sự nguy hại của cái bị sanh, tìm cầu cái không sanh, vô thượng an ổn, thoát khỏi các (khổ) ách, chứng Niết-bàn và đã chứng được cái không sanh, vô thượng an ổn, thoát khỏi các (khổ) ách, chứng Niết-bàn, tự mình bị già... cái không già... tự mình bị bệnh... cái không bệnh... tự mình bị chết... cái không chết... tự mình bi sầu... cái không sầu... tự mình bị ô nhiễm, sau khi biết được sự nguy hại của cái bị ô nhiễm, tìm cầu cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn, thoát khỏi các (khổ) ách, chứng Niết-bàn, và đã chứng được cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn, thoát khỏi các (khổ) ách, chứng Niết-bàn. Tri và kiến khởi lên nơi họ: "Sự giải thoát của chúng ta không bị dao động, đây thức gì được hiện khởi như vậy đều quy là đời sống cuối cùng. Nay không còn tái sanh nữa".
138. Hành trình đích thực của bậc thánh
Đó là hành trình tu chứng bao gồm chỉ và quán. Mỗi sự thành tựu đề là giai đoạn cần vượt qua chứ không phải để chấp thủ cho đến khi đạt cứu cánh viên mãn của cả hai tâm giải thoát và tuệ giải thoát: “Sau khi thấy bằng trí tuệ, các lậu hoặc được đoạn trừ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là một vị đã làm Ác ma mù mắt, đã diệt trừ mọi vết tích, đã vượt khỏi tầm mắt Ác ma. Vị ấy đã vượt khỏi mọi triền phược ở đời. An tâm vị ấy đi, an tâm vị ấy đứng, an tâm vị ấy ngồi, an tâm vị ấy nằm. Vì sao vậy? Này các Tỷ-kheo, vì vị ấy vượt khỏi tầm tay của Ác ma.”
Này các
Tỷ-kheo, có năm dục trưởng dưỡng. Thế nào là năm? Các sắc do mắt
nhận thức, sắc này khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích
lòng dục, hấp dẫn. Các tiếng do tai nhận thức... (như trên)... các
hương do mũi nhận thức... các vị do lưỡi nhận thức... các xúc do
thân cảm xúc là khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng
dục, hấp dẫn. Này các Tỷ-kheo, như vậy, là năm dục trưởng dưỡng.
Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào bị trói buộc, bị tham đắm, bị mê say bởi năm dục trưởng dưỡng này, không thấy sự nguy hại của chúng, không biết rõ sự xuất ly khỏi chúng, mà thọ dụng chúng, những vị ấy cần phải được hiểu là: "Các Người đã rơi vào bất hạnh, đã rơi vào tai họa, đã bị Ác ma sử dụng như ý muốn". Này các Tỷ-kheo, như một con nai sống trong rừng bị sập bẫy nằm xuống, con nai ấy cần phải được hiểu là: "Nó đã rơi vào bất hạnh, đã rơi vào tai họa, đã bị thợ săn sử dụng như ý muốn. Khi người thợ săn đến, con nai không thể bỏ đi như ý muốn. Này các Tỷ-kheo, cũng vậy, những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào bị trói buộc... (như trên)... đã bị Ác ma sử dụng như ý muốn.
Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào không bị trói buộc, không bị tham đắm, không bị mê say bởi năm dục trưởng dưỡng này, thấy sự nguy hại của chúng, biết rõ sự xuất ly khỏi chúng, và thọ dụng chúng, những vị ấy cần phải được hiểu là: "Các Người không rơi vào bất hạnh, không rơi vào tai họa, không bi Ác ma sử dụng như ý muốn". Này các Tỷ-kheo, như một con nai sống trong rừng, không bị sập bẫy phải nằm xuống, con nai ấy cần phải được hiểu là: "Nó không rơi vào bất hạnh, nó không rơi vào tai họa, nó không bị người thợ săn sử dụng như ý muốn". Khi người thợ săn đến, con nai có thể bỏ đi như ý muốn. Này các Tỷ-kheo, cũng vậy, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào không bị trói buộc... không bị Ác ma sử dụng như ý muốn.
Chư Tỷ-kheo, ví như con nai sống trong rừng, đi qua đi lại trong rừng, an tâm nó đi, an tâm nó đứng, an tâm nó ngồi, an tâm nó nằm. Tại sao vậy? Này các Tỷ-kheo, vì nó vượt khỏi tầm tay của người thợ săn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo ly dục, ly ác bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc, do ly dục sanh, có tầm có tứ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là: một vị đã làm Ác Ma mù mắt, đã diệt trừ mọi vết tích, đã vượt khỏi tầm mắt Ác ma.
Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là... đã vượt khỏi tầm mắt của Ác ma.
Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các vị Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là... đã vượt khỏi tầm mắt của Ác ma.
Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là... vượt khỏi tầm mắt của Ác ma.
Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo vượt lên mọi sắc tướng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng, không tác ý đối với dị tưởng, Tỷ-kheo nghĩ rằng: "Hư không là vô biên", chứng và trú Không vô biên xứ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là... đã vượt khỏi tầm mắt của Ác ma.
Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo vượt lên mọi Không vô biên xứ, nghĩ rằng: "Thức là vô biên", chứng và trú Thức Vô biên xứ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là... đã vượt khỏi tầm mắt của Ác ma.
Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo vượt lên mọi Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: "Không có vật gì", chứng và trú Vô sở hữu xứ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là... đã vượt khỏi tầm mắt của Ác ma.
Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo vượt lên mọi Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ- kheo ấy được gọi là...đã vượt khỏi tầm mắt của Ác ma.
Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo vượt lên mọi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt thọ tưởng (định). Sau khi thấy bằng trí tuệ, các lậu hoặc được đoạn trừ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là một vị đã làm Ác ma mù mắt, đã diệt trừ mọi vết tích, đã vượt khỏi tầm mắt Ác ma. Vị ấy đã vượt khỏi mọi triền phược ở đời. An tâm vị ấy đi, an tâm vị ấy đứng, an tâm vị ấy ngồi, an tâm vị ấy nằm. Vì sao vậy? Này các Tỷ-kheo, vì vị ấy vượt khỏi tầm tay của Ác ma.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ Kheo
Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 26 [tóm tắt]
Kinh Thánh Cầu
(Ariyapariyesanā Sutta)
(M.i, 160)
Đức Phật giảng
có hai loại tầm cầu: Phi thánh cầu và Thánh cầu. Phi thánh cầu là
bị sanh, già, bệnh, chết, sầu, ô nhiễm lại đi tìm cầu cái bị sanh,
già, bệnh, chết, sầu, ô nhiễm, như các chúng sanh tầm cầu vợ con,
danh vọng, tài sản, v.v. Còn Thánh cầu là mình bị sanh, bị già, bị
bệnh, bị chết, bị sầu, bị ô nhiễm, đi cầu cái không sanh, không
già, không bệnh, không chết, không sầu, không ô nhiễm, vô thượng
an ổn khỏi các khổ ách Niết-bàn.
Rồi đức Phật
kể lại Thánh cầu của mình, từ khi còn là Thái tử xuất gia, học
đạo với Āḷāra Kālāma và Uddaka Rāmaputto, và từ bỏ hai vị này vì
thấy hai vị này chưa chứng được Thánh quả. Rồi Ngài đến Uruvelā
lựa một địa điểm khả ái ngồi xuống tu tập, và cuối cùng Ngài trở
thành giác ngộ. Bị sanh, bị già, bị bệnh, bị chết, bị sầu, bị ô
nhiễm, đức Phật chứng được cái không sanh, không già, không bệnh,
không chết, không sầu, không ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các
khổ ách, Niết-bàn. Sau khi giác ngộ, Ngài ban đầu không muốn thuyết
pháp, sau có Phạm thiên yêu cầu, Ngài mới quyết định thuyết pháp,
chuyển pháp luân. Rồi Ngài đi đến vườn Lộc Uyển thuyết pháp cho
năm vị Tỷ-kheo trước kia cùng tu khổ hạnh với Ngài và cuối cùng
năm vị này chứng được quả A-la-hán.
Rồi đức Phật
đề cập đến năm dục tăng trưởng, những Sa-môn, Bà-la-môn nào bị
trói buộc, bị tham đắm, bị say mê bởi năm dục tăng trưởng này,
không thấy sự nguy hại, sự xuất ly của chúng mà thọ dụng chúng
thời các vị này sẽ gặp ách nạn, rơi vào tầm tay của Ác ma. Còn
những Sa-môn, Bà-la-môn nào không bị trói buộc, không bị tham đắm,
không bị say mê bởi năm dục tăng trưởng này, thấy sự nguy hại, sự
xuất ly của chúng mà thọ dụng chúng, thời khỏi gặp các ách nạn,
khỏi rơi vào tầm tay của Ác ma.
Lại nữa, ví
như con nai sống trong rừng, an tâm đi lại trong rừng, và vượt khỏi
tầm tay của người thợ săn. Cũng vậy, vị Tỷ-kheo chứng được các
cảnh giới thiền, bốn thiền, bốn không, diệt thọ tưởng định, sau khi
thấy với trí tuệ, các lậu hoặc được đoạn trừ. Như vậy là làm Ác
ma mù mắt, đã vượt khỏi tầm mắt Ác ma.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 26 [dàn ý]
Kinh Thánh Cầu
(Ariyapariyesanā Sutta)
(M.i, 160)
A. Duyên khởi:
Các Tỷ-kheo tụ họp
tại nhà Bà-la-môn Rāmmaka và Thế Tôn đến đấy để thuyết pháp.
B. Chánh kinh:
I. Định nghĩa phi thánh cầu và thánh cầu.
II. Kinh nghiệm thánh cầu của Đức Phật trước
khi thành đạo
1. Cầu đạo, học đạo:
a. Thánh cầu của Thái tử.
b. Học đạo với Āḷāra Kālāma.
c. Học đạo với Uddaka Rāmaputta.
2. Sa-môn Gotama thành đạo.
3. Đức Phật thuyết pháp:
a. Do dự.
b. Phạm thiên thỉnh Đức Phật thuyết pháp.
c. Đức Phật quyết định thuyết pháp.
d. Đức Phật thuyết pháp cho 5 vị Tỷ-kheo.
e. Trên đường đi đến Ba-la-nại. Sự gặp gỡ
với Upaka.
4. Đức Phật thuyết pháp cho 5 vị Tỷ-kheo.
III. Bài thuyết pháp về 5 dục trưởng dưỡng
1. Định nghĩa.
2. Nguy hiểm.
3. Giải thoát.
C. Kết luận:
Các Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 26 [toát yếu]
Kinh Thánh Cầu
(Ariyapariyesanā Sutta)
(M.i, 160)
I.
TOÁT YẾU
Ariyapariyesana Sutta - the noble
search.
The Buddha gives the Bhikkhus a long
account of his own quest for enlightenment from
the time of his life in the palace up to his transmission of the Dhamma to his
first five disciples.
Sự tầm cầu cao thượng.
Phật kể cho chúng tỳ kheo về sự tầm
cầu giác ngộ trong đời Ngài, từ khi còn ở trong cung điện cho đến khi
truyền Pháp cho năm đệ tử đầu tiên.
II.
TÓM TẮT
Một số đông tỳ kheo đang hội họp ở
tịnh thất của bà-la- môn Rāmmaka khi Phật đến. Ngài hỏi họđang bàn
chuyện gì, họ trả lời đang luận bàn về đức Thế Tôn. Phật khen và
dạy, khi tỳ kheo tụ hội chỉ có hai việc nên làm: hoặc bàn luận về
Pháp, hoặc giữ sự im lặng của bậc thánh. Và Ngài giảng giải về hai
sự tầm cầu. Một là trong khi mình đang bị sinh già bệnh chết, khổ
sầu, ô nhiễm, lại đi tìm cầu những thứ cũng bị sinh già bệnh chết,
khổ sầu, ô nhiễm; đó là vợ con, tôi tớ, vàng bạc, của cải.... Hai
là khi thấy mình bị già chết, khổ sầu, ô nhiễm, bèn đi tìm những
thứ vượt ngoài già chết, khổ sầu, ô nhiễm.... đạt đến Niết- bàn,
thoát khỏi mọi khổ ách.
Phật kể lại, trong lúc tuổi trẻ,
tóc còn đen nhánh, do thấy mình bị sinh, già chết, khổ sầu, ô
nhiễm, nên Ngài đã ra đi tìm cái không già chết, khổ sầu, ô nhiễm.
Lúc đầu, Ngài theo học đạo sĩ Āḷāra Kālāma. Chỗ chứng đắc cao nhất
của vị này là Vô sở hữu xứ. Sau một thời gian, Ngài cũng chứng
được Vô sở hữu xứ, được thầy xem ngang hàng, mời ở lại cùng lãnh
đạo đồ chúng, nhưng Ngài đã bỏ đi vì thấy Vô sở hữu xứ chưa phải
Niết-bàn. Vị thầy thứ hai là Uddaka Rāmaputta, cho rằng chứng Phi
tưởng phi phi tưởng xứ là tối cao. Ngài cũng nhanh chóng đạt đến
Phi tưởng phi phi tưởng xứ, được Uddaka khen ngợi, mời ở lại cùng
lãnh đạo, nhưng Ngài đã từ chối vì biết Phi tưởng phi phi tưởng
xứ cũng chưa phải là Niết-bàn. Ngài ra đi đến tụ lạc Uruvela xứ
Ma-kiệt-đà, vào khu rừng khả ái ở bên sông để tinh tấn thiền định.
Ngài đã chứng được cái không sinh, già, bệnh, chết, khổ sầu, cái
không ô nhiễm; đạt đến Niết-bàn, vô thượng an ổn khỏi các khổ
ách.
Ngài suy nghĩ, Pháp Ngài chứng được
thật sâu kín, siêu lý luận, chỉ bậc trí thấu hiểu; đối với quần
chúng đam mê khoái lạc, rất khó thấy pháp Duyên khởi này, rất khó
hiểu thấu sự tịnh chỉ tất cả hành, từ bỏ sinh y, đạt đến ái diệt,
ly tham, Niết-bàn. Nếu thuyết pháp mà quần chúng không hiểu thì chỉ
thêm phiền não. Do vậy tâm Ngài do dự không muốn thuyết pháp. Khi
ấy Phạm thiên xuất hiện, cầu thỉnh Ngài vì chúng sinh mà mở cửa
Pháp cam lồ vi diệu. Phật lại quán thấy có ba hạng chúng sinh, như
ba hạng hoa sen: Có hạng còn chìm nghỉm; có hạng vươn lên ngang mặt
nước; nhưng cũng có hạng đã vượt khỏi mặt nước, không bị nước
làm ướt. Chúng sinh cũng vậy, có hạng nhiều nhiễm bụi đời, có
hạng ít nhiễm bụi đời, có hạng lợi căn, có hạng độn căn. Khi ấy
Ngài quyết định ra thuyết pháp. Và hai người đầu tiên Ngài nghĩ
đến là hai vị thầy của Ngài trước kia; nhưng chư thiên cho Ngài
biết Alara Kalama đã từ trần cách đó bảy ngày, còn Uddaka Rāmaputta
vừa mới tạ thế. Khi ấy Ngài đi đến vườn Lộc uyển ở Ba-la-nại tìm
năm anh em Kiều Trần Như để hóa độ. Trên đường đi, Ngài gặp ngoại
đạo Upaka. Vị này trông thấy sắc diện thanh khiết của Phật, khen
ngợi và hỏi Ngài thờ ai làm thầy. Khi nghe Phật trả lời Ngài không
có thầy, Ngài đã tự chứng thành bậc Chánh đẳng giác trên đời
không ai bằng, ngoại đạo Upaka lắc đầu bỏ đi. Khi đến vườn Lộc
uyển, Ngài tìm gặp năm anh em Kiều Trần Như để thuyết pháp cho họ.
Ngài giảng về năm dục trưởng
dưỡng là sắc thanh hương vị xúc. Những sa môn bà-la-môn nào bị
chúng trói buộc thì phải rơi vào cạm bẫy Ác ma, như nai bị sập
bẫy thợ săn vì tham ăn. Những sa môn bà-la-môn nào biết rõ vị
ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của năm dục thì không bị chúng
trói buộc, không rơi vào cạm bẫy Ác ma, như nai không sập bẫy. Vị
ấy có thể tu chứng bốn thiền, bốn không và Diệt thọ tưởng định,
vượt khỏi tầm mắt của Ác ma, như nai không bị sập bẫy, vượt khỏi
tầm tay thợ săn, có thể tung tăng trong rừng.
III.
CHÚ GIẢI
Sự im lặng của bậc Thánh: Theo Luận giải
kinh Trung bộ, "im lặng như thánh" là nhị thiền (không còn
tầm tứ) và đề mục thiền căn bản của hành giả - ví dụ quán tứ niệm
xứ.
Người nào chưa đắc nhị thiền thì
nên giữ sự "im lặng của bậc thánh" bằng cách bám sát đề
mục thiền căn bản của mình.
Sinh y - upadhi: Nghĩa gốc là
nền tảng, cơ sở. Luận kể ra nhiều loại sinh y là năm uẩn, các đối
tượng của dục lạc, các ô nhiễm, và nghiệp. Đại đức Bodhi diễn
dịch sinh y là "đối tượng chấp thủ" hoặc chính sự chấp
thủ. Niết-bàn là sự từ mọi sinh y với cả hai nghĩa ấy.
Vàng bạc là thứ không
bị sinh già bệnh chết sầu bi khổ... nhưng theo Luận, nó vẫn bị ô
nhiễm vì có thể pha lẫn với kim loại kém giá trị hơn nó.
Vô sở hữu xứ - base of nothingness:
Định thứ ba trong bốn định vô sắc -immaterial attainments, thuộc thiền
chỉ - serenity meditation. Mặc dù là những chứng đắc cao siêu, bốn
thiền bốn định vẫn còn thuộc thế gian, không đưa đến Niết-bàn.
Tuổi thọ ở Vô sở hữu xứ - chỗ tái sinh của thiền giả chứng Vô sở
hữu - là sáu mươi ngàn kiếp, sau đó vẫn phải rơi xuống các cõi
thấp và chịu luân hồi sinh tử, chưa thoát khỏi lưới bẫy của Ác
ma.
Pháp, theo Luận giải, chính là Bốn
chân lý cao cả. Pháp này gồm haiđiểm cốt yếu là Duyên khởi và
Niết- bàn. Duyên khởi bao gồm Khổ và Tập trong bốn chân lý,
Niết-bàn là Diệt và Đạo.
Không muốn thuyết pháp: Luận nêu lên
câu hỏi ở đây là, tại sao Bồ-tát đã từ lâu phát nguyện tìm đạo
để cứu chúng sinh, mà bây giờ tâm Ngài lại do dự. Lý do là, chỉ
sau khi đắc đạo, Ngài mới thấy rõ sức mạnh của vô minh phiền não
trong tâm chúng sinh, và sự sâu xa vi diệu của Pháp. Hơn nữa, Ngài
chờ Phạm thiên cầu thỉnh mới ra nói Pháp, là cốt cho những người
thờ Phạm thiên thấy được giá trị của Pháp và mong mỏi lắng nghe.
Ngoại đạo Upaka: Luận nói ông
này sau khi gặp Phật rồi bỏ đi, đã yêu một cô gái con thợ săn và
cưới nàng. Chỉ sau khi bị đau khổ vì tình, Upaka mới trở lại tìm Phật.
Ông đã gia nhập tăng đoàn, chứng quả thứ ba - Bất hoàn - và sinh
vào cõi trời Avìha, nơi ông đắc quả A-la-hán.
Sa môn bà-la-môn ... Đoạn này
đề cập trở lại sự tầm cầu bất đáng nói ở đầu Kinh là tầm cầu
năm dục, cốt để hiển là "tầm cầu cao thượng" hay thánh
cầu, mà trong đời sống xuất gia vẫn có thể có những tầm cầu bất
đáng, những tầm cầu đưa đến sinh già bệnh chết sầu khổ ô nhiễm.
IV.
PHÁP SỐ
Bốn
thiền, Bốn không, Năm dục trưởng dưỡng, Chín định thứ đệ.
V.
KỆ TỤNG
Tịnh
thất Ra-ma-ka
Chúng tỳ kheo tụ tập
Đang bàn luận về Phật
Thì Thế Tôn đến liền.
Khi biết chuyện, Phật khen:
Tỳ
kheo lúc nhóm họp
Chỉ
nên bàn luận Pháp
Hoặc
như thánh mặc nhiên.
Có
hai sự tầm cầu:
Thánh cầu và phi thánh.
Sinh,
già, bệnh, chết, sầu,
Ô nhiễm là phi thánh.
Tìm năm dục trưởng dưỡng
Gọi
là phi thánh cầu
Trong
khi mình đã khổ
Lại
rước thêm khổ đau.
Thế
nào là thánh cầu?
Xưa
kia khi hành đạo
Xét
nguy hiểm của "sinh"
Ta
đi tìm vô sinh.
Xét
nguy hiểm của già
Ta
tìm cái không già
Xét
nguy hiểm của bệnh
Ta
tìm cái không bệnh
Xét
nguy hiểm của chết
Ta
tìm cái bất tử
Tự mình bị khổ sầu
Ta
tìm cái không sầu
Tự
mình bị ô nhiễm
Ta tìm cái không nhiễm
Đạt
Niết-bàn vô thượng
An
ổn thoát khổ ách.
Ta
cạo bỏ râu tóc
Trong độ tuổi thanh xuân
Và
từ bỏ gia đình
Đi tìm cái chí thiện.
Thầy đầu tiên ta gặp
Chứng
Vô sở hữu xứ
Cho thế là tối cao.
Tín tấn niệm định tuệ
Trong
ta lại thiếu sao?
Ta nỗ lực tinh cần
Chứng Vô sở hữu xứ.
Thầy
vô cùng khen ngợi
Xem
ta người ngang hàng
Mời
trông coi đệ tử
Nhưng
ta lại ra đi
Vì
thấy rõ pháp ấy
Không
hướng đến yểm ly
Không
đưa đến Niết-bàn
Chỉ
đến Vô sở hữu.
Kế
tiếp ta đã gặp
Út đa Ra-ma tử
Vị này chỉ tuyên bố
Phi tưởng phi phi tưởng.
Ta
cũng đắc pháp ấy
Biết
chưa phải tối thượng
Nên
ta lại ra đi
Tìm
vô thượng Niết-bàn.
Tại
xứ Ma-kiệt-đà
Trong khu rừng ven sông
Ta
tinh cần tinh tấn
Đạt giải thoát bất động
Đây
đời sống cuối cùng.
Ta
chứng cái không sinh
Không
già, bệnh, chết, sầu
Chứng
cái không ô nhiễm:
Niết-bàn
khỏi khổ ách.
Rồi
ta lại suy nghĩ
"Sao
ta nói chính pháp
Được
chứng ngộ khó khăn?
Những
ai còn tham sân
Khó chứng ngộ pháp này
Đi ngược dòng, thâm diệu
Kẻ
ái nhiễm vô minh
Không thấy được pháp này."
Bấy
giờ vị Phạm thiên
Hiện
xuống trước mặt ta
Chắp
tay mà cầu thỉnh:
"Tại
xứ Ma-kiệt-đà
Hiện ra pháp bất tịnh
Do suy tư tác thành.
Hãy mở cửa bất tử
Cho chúng được nghe pháp
Mà
bậc thánh vô uế
Đã chân chính giác ngộ.
Như
đứng trên tảng đá
Tại chót đỉnh núi cao
Đưa
mắt nhìn chúng sinh
Quần
chúng dưới chân mình.
Cũng
vậy đấng Thiện thệ
Biến
nhãn không sầu muộn
Lên
lầu cao Chánh pháp
Nhìn
xuống đám quần sinh
Bị
sinh già áp bức
Bị ưu tư sầu khổ
Anh hùng, hãy đứng lên
Bậc Chiến thắng chiến trường
Vị
trưởng đoàn lữ khách
Đấng
thoát ly nợ nần
Hãy thuyết vi diệu pháp
Sẽ có người nhờ nghe
Mà
thâm hiểu diệu nghĩa."
Tại
khu vườn Lộc uyển
Gặp
nhóm năm tỳ kheo
Ta
giảng về năm dục
Vị ngọt cùng nguy hiểm
Và
xuất ly khỏi chúng
Ai
bị dục trói buộc
Không
thoát khỏi ác ma.
Tỳ
kheo lìa ác dục
Chứng
trú tám giải thoát
Cho
đến diệt tận định
Ác
ma không thấy được.
Như
nai được tự do
Thoát
tầm thợ săn bẫy.
(Lời
thỉnh của Phạm thiên viết theo một bài giảng của Hòa
thượng
Thiện Siêu)
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
26.
Pāsarāsisuttaṃ [Mūla]
272. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ
samayaṃ Bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.
Atha kho Bhagavā pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya sāvatthiṃ
piṇḍāya pāvisi. Atha kho sambahulā bhikkhū yenāyasmā ānando tenupasaṅkamiṃsu
upasaṅkamitvā āyasmantaṃ ānandaṃ etadavocuṃ : ''cirassutā no, āvuso ānanda,
bhagavato sammukhā dhammī kathā. Sādhu mayaṃ, āvuso ānanda, labheyyāma
bhagavato sammukhā dhammiṃ kathaṃ savanāyāti. ''Tena hāyasmanto yena rammakassa
brāhmaṇassa assamo tenupasaṅkamatha appeva nāma labheyyātha bhagavato sammukhā
dhammiṃ kathaṃ savanāyāti. ''Evamāvusoti kho te bhikkhū āyasmato ānandassa
paccassosuṃ. Atha kho Bhagavā sāvatthiyaṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ
piṇḍapātapaṭikkanto āyasmantaṃ ānandaṃ āmantesi : ''āyāmānanda, yena pubbārāmo
migāramātupāsādo tenupasaṅkamissāma divāvihārāyāti. ''Evaṃ, bhanteti kho āyasmā
ānando bhagavato paccassosi. Atha kho Bhagavā
āyasmatā ānandena saddhiṃ yena pubbārāmo migāramātupāsādo tenupasaṅkami
divāvihārāya. Atha kho Bhagavā sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito
āyasmantaṃ ānandaṃ āmantesi : ''āyāmānanda, yena pubbakoṭṭhako tenupasaṅkamissāma gattāni
parisiñcitunti. ''Evaṃ, bhanteti kho āyasmā ānando bhagavato paccassosi.
273. Atha kho Bhagavā āyasmatā ānandena saddhiṃ yena
pubbakoṭṭhako tenupasaṅkami gattāni parisiñcituṃ. Pubbakoṭṭhake gattāni
parisiñcitvā paccuttaritvā ekacīvaro aṭṭhāsi gattāni pubbāpayamāno. Atha kho
āyasmā ānando bhagavantaṃ etadavoca : ''ayaṃ, bhante, rammakassa brāhmaṇassa
assamo avidūre. Ramaṇīyo, bhante, rammakassa brāhmaṇassa assamo pāsādiko,
bhante, rammakassa brāhmaṇassa assamo. Sādhu, bhante, Bhagavā yena
rammakassa brāhmaṇassa assamo tenupasaṅkamatu anukampaṃ upādāyāti. Adhivāsesi Bhagavā
tuṇhībhāvena. Atha kho Bhagavā
yena rammakassa brāhmaṇassa assamo tenupasaṅkami. Tena kho pana samayena
sambahulā bhikkhū rammakassa brāhmaṇassa assame dhammiyā kathāya sannisinnā
honti. Atha kho Bhagavā bahidvārakoṭṭhake aṭṭhāsi kathāpariyosānaṃ
āgamayamāno. Atha kho Bhagavā kathāpariyosānaṃ viditvā ukkāsitvā aggaḷaṃ
ākoṭesi. Vivariṃsu kho te bhikkhū bhagavato dvāraṃ. Atha kho Bhagavā
rammakassa brāhmaṇassa assamaṃ pavisitvā paññatte āsane nisīdi. Nisajja kho Bhagavā
bhikkhū āmantesi : ''kāyanuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā? kā ca
pana vo antarākathā vippakatāti ? ''bhagavantameva kho no, bhante, ārabbha dhammī
kathā vippakatā, atha Bhagavā anuppattoti. ''Sādhu, bhikkhave! etaṃ kho,
bhikkhave, tumhākaṃ patirūpaṃ kulaputtānaṃ saddhā agārasmā anagāriyaṃ
pabbajitānaṃ yaṃ tumhe dhammiyā kathāya sannisīdeyyātha. Sannipatitānaṃ vo,
bhikkhave, dvayaṃ karaṇīyaṃ : dhammī vā kathā, ariyo vā tuṇhībhāvo.
274. ''Dvemā, bhikkhave, pariyesanā : ariyā ca pariyesanā,
anariyā ca pariyesanā. ''Katamā ca, bhikkhave, anariyā pariyesanā? idha,
bhikkhave, ekacco attanā jātidhammo samāno jātidhammaṃyeva pariyesati, attanā
jarādhammo samāno jarādhammaṃyeva
pariyesati, attanā byādhidhammo samāno byādhidhammaṃyeva pariyesati,
attanā maraṇadhammo samāno maraṇadhammaṃyeva pariyesati, attanā sokadhammo
samāno sokadhammaṃyeva pariyesati, attanā saṃkilesadhammo samāno saṃkilesadhammaṃyeva
pariyesati. ''Kiñca, bhikkhave, jātidhammaṃ vadetha? puttabhariyaṃ, bhikkhave,
jātidhammaṃ, dāsidāsaṃ jātidhammaṃ, ajeḷakaṃ jātidhammaṃ, kukkuṭasūkaraṃ
jātidhammaṃ, hatthigavāssavaḷavaṃ jātidhammaṃ, jātarūparajataṃ jātidhammaṃ.
Jātidhammā hete, bhikkhave, upadhayo. Etthāyaṃ gathito [gadhīto (syā. ka.)]
mucchito ajjhāpanno attanā jātidhammo samāno jātidhammaṃyeva pariyesati.
''Kiñca, bhikkhave, jarādhammaṃ vadetha? puttabhariyaṃ, bhikkhave, jarādhammaṃ,
dāsidāsaṃ jarādhammaṃ, ajeḷakaṃ jarādhammaṃ, kukkuṭasūkaraṃ jarādhammaṃ, hatthigavāssavaḷavaṃ jarādhammaṃ
, jātarūparajataṃ jarādhammaṃ.
Jarādhammā hete, bhikkhave, upadhayo. Etthāyaṃ gathito mucchito ajjhāpanno
attanā jarādhammo samāno jarādhammaṃyeva pariyesati. ''Kiñca, bhikkhave,
byādhidhammaṃ vadetha? puttabhariyaṃ, bhikkhave, byādhidhammaṃ, dāsidāsaṃ
byādhidhammaṃ, ajeḷakaṃ byādhidhammaṃ, kukkuṭasūkaraṃ byādhidhammaṃ,
hatthigavāssavaḷavaṃ byādhidhammaṃ. Byādhidhammā hete, bhikkhave, upadhayo.
Etthāyaṃ gathito mucchito ajjhāpanno attanā byādhidhammo samāno byādhidhammaṃyeva
pariyesati. ''Kiñca, bhikkhave, maraṇadhammaṃ vadetha? puttabhariyaṃ,
bhikkhave, maraṇadhammaṃ, dāsidāsaṃ maraṇadhammaṃ, ajeḷakaṃ maraṇadhammaṃ,
kukkuṭasūkaraṃ maraṇadhammaṃ, hatthigavāssavaḷavaṃ maraṇadhammaṃ. Maraṇadhammā
hete, bhikkhave, upadhayo. Etthāyaṃ gathito mucchito ajjhāpanno attanā maraṇadhammo
samāno maraṇadhammaṃyeva pariyesati. ''Kiñca, bhikkhave, sokadhammaṃ vadetha?
puttabhariyaṃ, bhikkhave, sokadhammaṃ, dāsidāsaṃ sokadhammaṃ, ajeḷakaṃ
sokadhammaṃ, kukkuṭasūkaraṃ sokadhammaṃ, hatthigavāssavaḷavaṃ sokadhammaṃ.
Sokadhammā hete, bhikkhave, upadhayo. Etthāyaṃ gathito mucchito ajjhāpanno
attanā sokadhammo samāno sokadhammaṃyeva pariyesati. ''Kiñca, bhikkhave, saṃkilesadhammaṃ
vadetha? puttabhariyaṃ, bhikkhave, saṃkilesadhammaṃ, dāsidāsaṃ saṃkilesadhammaṃ,
ajeḷakaṃ saṃkilesadhammaṃ , kukkuṭasūkaraṃ saṃkilesadhammaṃ, hatthigavāssavaḷavaṃ
saṃkilesadhammaṃ, jātarūparajataṃ saṃkilesadhammaṃ. Saṃkilesadhammā hete,
bhikkhave, upadhayo. Etthāyaṃ gathito mucchito ajjhāpanno attanā saṃkilesadhammo
samāno saṃkilesadhammaṃyeva pariyesati. Ayaṃ, bhikkhave, anariyā pariyesanā.
275. ''Katamā ca, bhikkhave, ariyā pariyesanā? idha, bhikkhave,
ekacco attanā jātidhammo samāno jātidhamme ādīnavaṃ viditvā ajātaṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ pariyesati,
attanā jarādhammo samāno jarādhamme ādīnavaṃ viditvā ajaraṃ anuttaraṃ
yogakkhemaṃ nibbānaṃ pariyesati, attanā byādhidhammo samāno byādhidhamme
ādīnavaṃ viditvā abyādhiṃ anuttaraṃ
yogakkhemaṃ nibbānaṃ pariyesati, attanā maraṇadhammo samāno maraṇadhamme ādīnavaṃ viditvā amataṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ
nibbānaṃ pariyesati, attanā sokadhammo samāno sokadhamme ādīnavaṃ viditvā asokaṃ
anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ pariyesati, attanā saṃkilesadhammo samāno saṃkilesadhamme
ādīnavaṃ viditvā asaṃkiliṭṭhaṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ pariyesati. Ayaṃ,
bhikkhave, ariyā pariyesanā.
276. ''Ahampi sudaṃ, bhikkhave, pubbeva sambodhā anabhisambuddho
bodhisattova samāno attanā jātidhammo samāno jātidhammaṃyeva pariyesāmi, attanā
jarādhammo samāno jarādhammaṃyeva pariyesāmi, attanā byādhidhammo samāno byādhidhammaṃyeva
pariyesāmi, attanā maraṇadhammo samāno maraṇadhammaṃyeva pariyesāmi, attanā
sokadhammo samāno sokadhammaṃyeva pariyesāmi, attanā saṃkilesadhammo samāno saṃkilesadhammaṃyeva
pariyesāmi. Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi : 'kiṃ nu kho ahaṃ attanā
jātidhammo samāno jātidhammaṃyeva pariyesāmi, attanā jarādhammo samāno - pe -
byādhidhammo samāno... maraṇadhammo samāno... sokadhammo samāno... attanā saṃkilesadhammo
samāno saṃkilesadhammaṃyeva pariyesāmi? yaṃnūnāhaṃ attanā jātidhammo samāno
jātidhamme ādīnavaṃ viditvā ajātaṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ pariyeseyyaṃ,
attanā jarādhammo samāno jarādhamme ādīnavaṃ viditvā ajaraṃ anuttaraṃ
yogakkhemaṃ nibbānaṃ pariyeseyyaṃ, attanā byādhidhammo samāno byādhidhamme
ādīnavaṃ viditvā abyādhiṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ pariyeseyyaṃ, attanā
maraṇadhammo samāno maraṇadhamme ādīnavaṃ viditvā amataṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ
nibbānaṃ pariyeseyyaṃ, attanā sokadhammo samāno sokadhamme ādīnavaṃ viditvā
asokaṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ pariyeseyyaṃ, attanā saṃkilesadhammo
samāno saṃkilesadhamme ādīnavaṃ viditvā asaṃkiliṭṭhaṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ
nibbānaṃ pariyeseyyanti.
277. ''So kho ahaṃ, bhikkhave, aparena samayena daharova samāno
susukāḷakeso , bhadrena yobbanena samannāgato paṭhamena vayasā akāmakānaṃ
mātāpitūnaṃ assumukhānaṃ rudantānaṃ kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ
pabbajiṃ. So evaṃ pabbajito samāno kiṃ kusalagavesī [kiṃkusalaṃgavesī (ka.)]
anuttaraṃ santivarapadaṃ pariyesamāno yena āḷāro kālāmo tenupasaṅkamiṃ. Upasaṅkamitvā
āḷāraṃ kālāmaṃ etadavocaṃ : 'icchāmahaṃ, āvuso kālāma, imasmiṃ
dhammavinaye brahmacariyaṃ caritunti.
Evaṃ vutte, bhikkhave, āḷāro kālāmo maṃ etadavoca : 'viharatāyasmā tādiso ayaṃ
dhammo yattha viññū puriso nacirasseva
sakaṃ ācariyakaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja vihareyyāti. So kho ahaṃ,
bhikkhave, nacirasseva khippameva taṃ dhammaṃ pariyāpuṇiṃ. So kho ahaṃ,
bhikkhave, tāvatakeneva oṭṭhapahatamattena lapitalāpanamattena ñāṇavādañca
vadāmi theravādañca, 'jānāmi passāmīti ca paṭijānāmi ahañceva aññe ca. Tassa
mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi : 'na kho āḷāro kālāmo imaṃ dhammaṃ kevalaṃ
saddhāmattakena sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharāmīti pavedeti addhā
āḷāro kālāmo imaṃ dhammaṃ jānaṃ passaṃ viharatīti.
''Atha khvāhaṃ, bhikkhave, yena āḷāro kālāmo tenupasaṅkamiṃ upasaṅkamitvā
āḷāraṃ kālāmaṃ etadavocaṃ : 'kittāvatā no, āvuso kālāma, imaṃ dhammaṃ sayaṃ
abhiññā sacchikatvā upasampajja viharāmīti pavedesīti [upasampajja pavedesīti
(sī. syā. pī.)]? evaṃ vutte, bhikkhave, āḷāro kālāmo ākiñcaññāyatanaṃ pavedesi. Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi
: 'na kho āḷārasseva kālāmassa atthi saddhā, mayhaṃpatthi saddhā na kho āḷārasseva
kālāmassa atthi vīriyaṃ, mayhaṃpatthi vīriyaṃ na kho āḷārasseva kālāmassa atthi
sati, mayhaṃpatthi sati na kho āḷārasseva kālāmassa atthi samādhi, mayhaṃpatthi
samādhi na kho āḷārasseva kālāmassa atthi paññā, mayhaṃpatthi paññā. Yaṃnūnāhaṃ
yaṃ dhammaṃ āḷāro kālāmo sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharāmīti
pavedeti, tassa dhammassa sacchikiriyāya padaheyyanti. So kho ahaṃ, bhikkhave,
nacirasseva khippameva taṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja vihāsiṃ.
''Atha khvāhaṃ, bhikkhave, yena āḷāro kālāmo tenupasaṅkamiṃ upasaṅkamitvā āḷāraṃ
kālāmaṃ etadavocaṃ : 'ettāvatā no, āvuso kālāma, imaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññā
sacchikatvā upasampajja pavedesīti? 'ettāvatā
kho ahaṃ, āvuso, imaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja
pavedemīti. 'Ahampi kho, āvuso, ettāvatā
imaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharāmīti.
'Lābhā no, āvuso, suladdhaṃ no, āvuso, ye mayaṃ āyasmantaṃ tādisaṃ
sabrahmacāriṃ passāma. Iti yāhaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja
pavedemi taṃ tvaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharasi. Yaṃ
tvaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā
upasampajja viharasi tamahaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja pavedemi. Iti yāhaṃ
dhammaṃ jānāmi taṃ tvaṃ dhammaṃ jānāsi, yaṃ tvaṃ dhammaṃ jānāsi tamahaṃ dhammaṃ
jānāmi. Iti yādiso ahaṃ tādiso tuvaṃ, yādiso tuvaṃ tādiso ahaṃ. Ehi dāni,
āvuso, ubhova santā imaṃ gaṇaṃ pariharāmāti. Iti kho, bhikkhave, āḷāro kālāmo
ācariyo me samāno (attano) [( ) natthi (sī. syā. pī.)] antevāsiṃ maṃ samānaṃ
attanā [attano (sī. pī.)] samasamaṃ ṭhapesi, uḷārāya ca maṃ pūjāya pūjesi.
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi : 'nāyaṃ dhammo nibbidāya na virāgāya na
nirodhāya na upasamāya na abhiññāya na sambodhāya na nibbānāya saṃvattati,
yāvadeva ākiñcaññāyatanūpapattiyāti. So kho ahaṃ, bhikkhave, taṃ dhammaṃ analaṅkaritvā
tasmā dhammā nibbijja apakkamiṃ.
278. ''So kho ahaṃ, bhikkhave, kiṃ kusalagavesī anuttaraṃ
santivarapadaṃ pariyesamāno yena udako [uddako (sī. syā. pī.)] rāmaputto
tenupasaṅkamiṃ upasaṅkamitvā udakaṃ rāmaputtaṃ etadavocaṃ : 'icchāmahaṃ, āvuso
[āvuso rāma (sī. syā. ka.) mahāsatto rāmaputtameva avoca, na rāmaṃ, rāmo hi
tattha gaṇācariyo bhaveyya, tadā ca kālaṅkato asanto. Tenevettha rāmāyattāni
kriyapadāni atītakālavasena āgatāni, udako ca rāmaputto mahāsattassa
sabrahmacārītveva vutto, na ācariyoti. Ṭīkāyaṃ ca ''pāḷiyaṃ rāmasseva
samāpattilābhitā āgatā na udakassāti ādi pacchābhāge pakāsitā], imasmiṃ
dhammavinaye brahmacariyaṃ caritunti. Evaṃ vutte, bhikkhave, udako rāmaputto maṃ
etadavoca : 'viharatāyasmā tādiso ayaṃ dhammo yattha viññū puriso nacirasseva
sakaṃ ācariyakaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja vihareyyāti. So kho ahaṃ,
bhikkhave, nacirasseva khippameva taṃ dhammaṃ pariyāpuṇiṃ. So kho ahaṃ, bhikkhave, tāvatakeneva oṭṭhapahatamattena
lapitalāpanamattena ñāṇavādañca vadāmi
theravādañca, 'jānāmi passāmīti ca paṭijānāmi ahañceva aññe ca. Tassa
mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi : 'na kho rāmo imaṃ dhammaṃ kevalaṃ
saddhāmattakena sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharāmīti pavedesi addhā
rāmo imaṃ dhammaṃ jānaṃ passaṃ vihāsīti. ''Atha khvāhaṃ, bhikkhave, yena udako
rāmaputto tenupasaṅkamiṃ upasaṅkamitvā udakaṃ rāmaputtaṃ etadavocaṃ :
'kittāvatā no, āvuso, rāmo imaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā
upasampajja viharāmīti pavedesīti? evaṃ
vutte, bhikkhave, udako rāmaputto nevasaññānāsaññāyatanaṃ pavedesi. Tassa mayhaṃ,
bhikkhave, etadahosi : 'na kho rāmasseva ahosi saddhā, mayhaṃpatthi saddhā na
kho rāmasseva ahosi vīriyaṃ , mayhaṃpatthi vīriyaṃ na kho rāmasseva ahosi sati,
mayhaṃpatthi sati na kho rāmasseva ahosi samādhi, mayhaṃpatthi samādhi, na kho
rāmasseva ahosi paññā, mayhaṃpatthi paññā. Yaṃnūnāhaṃ yaṃ dhammaṃ rāmo sayaṃ
abhiññā sacchikatvā upasampajja viharāmīti pavedesi, tassa dhammassa
sacchikiriyāya padaheyyanti. So kho ahaṃ, bhikkhave, nacirasseva khippameva taṃ
dhammaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja vihāsiṃ. ''Atha khvāhaṃ,
bhikkhave, yena udako rāmaputto tenupasaṅkamiṃ upasaṅkamitvā udakaṃ rāmaputtaṃ
etadavocaṃ : 'ettāvatā no, āvuso, rāmo imaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā
upasampajja pavedesīti? 'ettāvatā kho, āvuso, rāmo imaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññā
sacchikatvā upasampajja pavedesīti. 'Ahampi kho, āvuso, ettāvatā imaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja
viharāmīti. 'Lābhā no, āvuso, suladdhaṃ no, āvuso, ye mayaṃ āyasmantaṃ tādisaṃ
sabrahmacāriṃ passāma. Iti yaṃ dhammaṃ rāmo sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja
pavedesi, taṃ tvaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharasi. Yaṃ
tvaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharasi, taṃ dhammaṃ rāmo
sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja pavedesi. Iti yaṃ dhammaṃ rāmo abhiññāsi
taṃ tvaṃ dhammaṃ jānāsi, yaṃ tvaṃ dhammaṃ jānāsi, taṃ dhammaṃ rāmo abhiññāsi.
Iti yādiso rāmo ahosi tādiso tuvaṃ, yādiso tuvaṃ tādiso rāmo ahosi. Ehi dāni,
āvuso, tuvaṃ imaṃ gaṇaṃ pariharāti . Iti kho, bhikkhave , udako rāmaputto
sabrahmacārī me samāno ācariyaṭṭhāne maṃ ṭhapesi, uḷārāya ca maṃ pūjāya pūjesi.
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi : 'nāyaṃ dhammo nibbidāya na virāgāya na
nirodhāya na upasamāya na abhiññāya na sambodhāya na nibbānāya saṃvattati,
yāvadeva nevasaññānāsaññāyatanūpapattiyāti. So kho ahaṃ, bhikkhave, taṃ dhammaṃ
analaṅkaritvā tasmā dhammā nibbijja apakkamiṃ.
279. ''So kho ahaṃ, bhikkhave, kiṃ kusalagavesī anuttaraṃ
santivarapadaṃ pariyesamāno magadhesu anupubbena cārikaṃ caramāno yena uruvelā
senānigamo tadavasariṃ. Tatthaddasaṃ
ramaṇīyaṃ bhūmibhāgaṃ, pāsādikañca vanasaṇḍaṃ, nadiñca sandantiṃ setakaṃ
supatitthaṃ ramaṇīyaṃ, samantā [sāmantā (?)] ca gocaragāmaṃ . Tassa mayhaṃ,
bhikkhave, etadahosi : 'ramaṇīyo vata, bho, bhūmibhāgo, pāsādiko ca vanasaṇḍo,
nadī ca sandati setakā supatitthā ramaṇīyā, samantā ca gocaragāmo. Alaṃ vatidaṃ
kulaputtassa padhānatthikassa padhānāyāti. So kho ahaṃ, bhikkhave, tattheva
nisīdiṃ : alamidaṃ padhānāyāti.
280. ''So kho ahaṃ, bhikkhave, attanā jātidhammo samāno
jātidhamme ādīnavaṃ viditvā ajātaṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ pariyesamāno
ajātaṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ ajjhagamaṃ, attanā jarādhammo samāno
jarādhamme ādīnavaṃ viditvā ajaraṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ pariyesamāno
ajaraṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ ajjhagamaṃ, attanā byādhidhammo samāno
byādhidhamme ādīnavaṃ viditvā abyādhiṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ
pariyesamāno abyādhiṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ ajjhagamaṃ, attanā maraṇadhammo
samāno maraṇadhamme ādīnavaṃ viditvā amataṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ
ajjhagamaṃ, attanā sokadhammo samāno sokadhamme ādīnavaṃ viditvā asokaṃ
anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ ajjhagamaṃ, attanā saṃkilesadhammo samāno saṃkilesadhamme
ādīnavaṃ viditvā asaṃkiliṭṭhaṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ pariyesamāno asaṃkiliṭṭhaṃ
anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ ajjhagamaṃ. ñĀṇañca pana me dassanaṃ udapādi :
'akuppā me vimutti, ayamantimā jāti, natthi dāni punabbhavoti.
281. ''Tassa mayhaṃ,
bhikkhave, etadahosi : 'adhigato kho myāyaṃ dhammo gambhīro duddaso duranubodho
santo paṇīto atakkāvacaro nipuṇo paṇḍitavedanīyo. Ālayarāmā kho panāyaṃ pajā
ālayaratā ālayasammuditā. Ālayarāmā kho panāyaṃ
pajā ālayaratāya ālayasammuditāya duddasaṃ idaṃ ṭhānaṃ yadidaṃ :
idappaccayatā paṭiccasamuppādo. Idampi kho ṭhānaṃ duddasaṃ yadidaṃ : sabbasaṅkhārasamatho
sabbūpadhipaṭinissaggo taṇhākkhayo
virāgo nirodho nibbānaṃ. Ahañceva
kho pana dhammaṃ deseyyaṃ, pare ca me na ājāneyyuṃ, so mamassa
kilamatho, sā mamassa vihesāti. Apissu maṃ, bhikkhave, imā anacchariyā gāthāyo
paṭibhaṃsu pubbe assutapubbā :
'Kicchena me adhigataṃ, halaṃ dāni pakāsituṃ.
Rāgadosaparetehi, nāyaṃ dhammo susambudho..
'Paṭisotagāmiṃ nipuṇaṃ, gambhīraṃ duddasaṃ aṇuṃ.
Rāgarattā na dakkhanti, tamokhandhena āvuṭāti [āvaṭāti (sī.), āvutā
(syā.)]..
282. ''Itiha me, bhikkhave, paṭisañcikkhato appossukkatāya cittaṃ
namati, no dhammadesanāya. Atha kho, bhikkhave, brahmuno sahampatissa mama
cetasā cetoparivitakkamaññāya etadahosi : 'nassati vata bho loko, vinassati
vata bho loko, yatra hi nāma tathāgatassa arahato sammāsambuddhassa
appossukkatāya cittaṃ namati [namissati (?)], no dhammadesanāyāti. Atha kho,
bhikkhave, brahmā sahampati : seyyathāpi nāma balavā puriso samiñjitaṃ vā bāhaṃ
pasāreyya, pasāritaṃ vā bāhaṃ samiñjeyya, evameva : brahmaloke antarahito mama
purato pāturahosi. Atha kho, bhikkhave, brahmā sahampati ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ
karitvā yenāhaṃ tenañjaliṃ paṇāmetvā maṃ etadavoca : 'desetu, bhante, Bhagavā
dhammaṃ, desetu sugato dhammaṃ. Santi
sattā apparajakkhajātikā, assavanatā dhammassa parihāyanti. Bhavissanti
dhammassa aññātāroti. Idamavoca, bhikkhave, brahmā sahampati. Idaṃ vatvā
athāparaṃ etadavoca :
'Pāturahosi magadhesu pubbe,
Dhammo asuddho samalehi cintito.
Apāpuretaṃ [avāpuretaṃ (sī.)] amatassa dvāraṃ,
Suṇantu dhammaṃ vimalenānubuddhaṃ..
'Sele yathā pabbatamuddhaniṭṭhito,
Yathāpi passe janataṃ samantato.
Tathūpamaṃ dhammamayaṃ sumedha,
Pāsādamāruyha samantacakkhu.
Sokāvatiṇṇaṃ [sokāvakiṇṇaṃ (syā.)] janatamapetasoko,
Avekkhassu jātijarābhibhūtaṃ..
'Uṭṭhehi vīra vijitasaṅgāma,
Satthavāha aṇaṇa vicara loke.
Desassu [desetu (syā. ka.)] Bhagavā dhammaṃ,
Aññātāro bhavissantīti..
283. ''Atha kho ahaṃ, bhikkhave, brahmuno ca ajjhesanaṃ viditvā
sattesu ca kāruññataṃ paṭicca buddhacakkhunā lokaṃ volokesiṃ. Addasaṃ kho ahaṃ,
bhikkhave, buddhacakkhunā lokaṃ volokento satte apparajakkhe mahārajakkhe, tikkhindriye mudindriye,
svākāre dvākāre, suviññāpaye duviññāpaye, appekacce paralokavajjabhayadassāvine
[dassāvino (syā. kaṃ. ka.)] viharante, appekacce na paralokavajjabhayadassāvine
[dassāvino (syā. kaṃ. ka.)] viharante. Seyyathāpi nāma uppaliniyaṃ vā
paduminiyaṃ vā puṇḍarīkiniyaṃ vā appekaccāni uppalāni vā padumāni vā puṇḍarīkāni
vā udake jātāni udake saṃvaḍḍhāni udakānuggatāni antonimuggaposīni, appekaccāni
uppalāni vā padumāni vā puṇḍarīkāni vā udake jātāni udake saṃvaḍḍhāni
udakānuggatāni samodakaṃ ṭhitāni, appekaccāni uppalāni vā padumāni vā puṇḍarīkāni
vā udake jātāni udake saṃvaḍḍhāni udakaṃ accuggamma ṭhitāni [tiṭṭhanti (sī.
syā. pī.)] anupalittāni udakena evameva kho ahaṃ, bhikkhave,
buddhacakkhunā lokaṃ volokento addasaṃ
satte apparajakkhe mahārajakkhe, tikkhindriye mudindriye, svākāre dvākāre,
suviññāpaye duviññāpaye, appekacce paralokavajjabhayadassāvine viharante,
appekacce na paralokavajjabhayadassāvine viharante. Atha khvāhaṃ, bhikkhave,
brahmānaṃ sahampatiṃ gāthāya paccabhāsiṃ :
'Apārutā tesaṃ amatassa dvārā,
Ye sotavanto pamuñcantu saddhaṃ.
Vihiṃsasaññī paguṇaṃ na bhāsiṃ,
Dhammaṃ paṇītaṃ manujesu brahmeti.. ''Atha kho, bhikkhave, brahmā
sahampati 'katāvakāso khomhi bhagavatā dhammadesanāyāti maṃ abhivādetvā
padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyi.
284. ''Tassa mayhaṃ,
bhikkhave, etadahosi : 'kassa nu kho ahaṃ paṭhamaṃ dhammaṃ deseyyaṃ ko imaṃ
dhammaṃ khippameva ājānissatīti? tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi : 'ayaṃ kho
āḷāro kālāmo paṇḍito viyatto medhāvī dīgharattaṃ apparajakkhajātiko. Yaṃnūnāhaṃ
āḷārassa kālāmassa paṭhamaṃ dhammaṃ
deseyyaṃ. So imaṃ dhammaṃ khippameva ājānissatīti. Atha kho maṃ, bhikkhave,
devatā upasaṅkamitvā etadavoca : 'sattāhakālaṅkato, bhante, āḷāro kālāmoti. ñĀṇañca
pana me dassanaṃ udapādi : 'sattāhakālaṅkato āḷāro kālāmoti. Tassa mayhaṃ,
bhikkhave, etadahosi : 'mahājāniyo kho āḷāro kālāmo. Sace hi so imaṃ dhammaṃ suṇeyya,
khippameva ājāneyyāti. ''Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi : 'kassa nu kho ahaṃ
paṭhamaṃ dhammaṃ deseyyaṃ ko imaṃ dhammaṃ khippameva ājānissatīti? tassa mayhaṃ,
bhikkhave, etadahosi : 'ayaṃ kho udako rāmaputto paṇḍito viyatto medhāvī
dīgharattaṃ apparajakkhajātiko. Yaṃnūnāhaṃ udakassa rāmaputtassa paṭhamaṃ
dhammaṃ deseyyaṃ. So imaṃ dhammaṃ khippameva ājānissatīti. Atha kho maṃ,
bhikkhave, devatā upasaṅkamitvā etadavoca : 'abhidosakālaṅkato, bhante, udako
rāmaputtoti. ñĀṇañca pana me dassanaṃ udapādi : 'abhidosakālaṅkato udako
rāmaputtoti. Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi : 'mahājāniyo kho udako
rāmaputto. Sace hi so imaṃ dhammaṃ suṇeyya , khippameva ājāneyyāti.
''Tassa mayhaṃ , bhikkhave, etadahosi : 'kassa nu kho ahaṃ paṭhamaṃ
dhammaṃ deseyyaṃ ko imaṃ dhammaṃ khippameva ājānissatīti? tassa mayhaṃ,
bhikkhave, etadahosi : 'bahukārā kho me
pañcavaggiyā bhikkhū, ye maṃ padhānapahitattaṃ upaṭṭhahiṃsu. Yaṃnūnāhaṃ
pañcavaggiyānaṃ bhikkhūnaṃ paṭhamaṃ dhammaṃ deseyyanti. Tassa mayhaṃ,
bhikkhave, etadahosi : 'kahaṃ nu kho etarahi pañcavaggiyā bhikkhū viharantīti?
addasaṃ kho ahaṃ, bhikkhave, dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena
pañcavaggiye bhikkhū bārāṇasiyaṃ viharante isipatane migadāye. Atha khvāhaṃ,
bhikkhave, uruvelāyaṃ yathābhirantaṃ viharitvā yena bārāṇasī tena cārikaṃ
pakkamiṃ [pakkāmiṃ (syā. pī. ka.)].
285. ''Addasā kho maṃ, bhikkhave, upako ājīvako antarā [ājīviko
(sī. pī. ka.)] ca gayaṃ antarā ca bodhiṃ addhānamaggappaṭipannaṃ. Disvāna maṃ
etadavoca : 'vippasannāni kho te, āvuso, indriyāni, parisuddho chavivaṇṇo
pariyodāto! kaṃsi tvaṃ, āvuso, uddissa pabbajito, ko vā te satthā, kassa vā tvaṃ
dhammaṃ rocesīti ? evaṃ vutte, ahaṃ, bhikkhave, upakaṃ ājīvakaṃ gāthāhi
ajjhabhāsiṃ :
'Sabbābhibhū sabbavidūhamasmi, sabbesu dhammesu anūpalitto.
Sabbañjaho taṇhākkhaye vimutto, sayaṃ abhiññāya kamuddiseyyaṃ..
'Na me ācariyo atthi, sadiso me
na vijjati.
Sadevakasmiṃ lokasmiṃ, natthi me paṭipuggalo..
'Ahañhi arahā loke, ahaṃ satthā anuttaro.
Ekomhi sammāsambuddho, sītibhūtosmi nibbuto..
'Dhammacakkaṃ pavattetuṃ, gacchāmi kāsinaṃ puraṃ.
Andhībhūtasmiṃ [andhabhūtasmiṃ (sī. syā. pī.)] lokasmiṃ, āhañchaṃ
amatadundubhinti.. 'Yathā kho tvaṃ, āvuso, paṭijānāsi, arahasi anantajinoti!
'Mādisā ve jinā honti, ye pattā
āsavakkhayaṃ.
Jitā me pāpakā dhammā, tasmāhamupaka jinoti.. ''Evaṃ vutte, bhikkhave, upako ājīvako
'hupeyyapāvusoti [huveyyapāvuso (sī. pī.), huveyyāvuso (syā.)] vatvā sīsaṃ
okampetvā ummaggaṃ gahetvā pakkāmi.
286. ''Atha khvāhaṃ, bhikkhave, anupubbena cārikaṃ caramāno yena
bārāṇasī isipatanaṃ migadāyo yena pañcavaggiyā bhikkhū tenupasaṅkamiṃ. Addasaṃsu
kho maṃ, bhikkhave, pañcavaggiyā bhikkhū dūrato āgacchantaṃ. Disvāna aññamaññaṃ
saṇṭhapesuṃ [aññamaññaṃ katikaṃ saṇṭhapesuṃ (vinayapiṭake mahāvagge)] : 'ayaṃ
kho, āvuso, samaṇo gotamo āgacchati bāhulliko [bāhuliko (sī. pī.)
sāratthadīpanīṭīkāya sameti] padhānavibbhanto āvatto bāhullāya. So neva
abhivādetabbo, na paccuṭṭhātabbo nāssa pattacīvaraṃ paṭiggahetabbaṃ. Api ca kho
āsanaṃ ṭhapetabbaṃ, sace ākaṅkhissati nisīdissatīti. Yathā yathā kho ahaṃ,
bhikkhave, upasaṅkamiṃ tathā tathā
pañcavaggiyā bhikkhū nāsakkhiṃsu sakāya katikāya saṇṭhātuṃ. Appekacce maṃ
paccuggantvā pattacīvaraṃ paṭiggahesuṃ, appekacce āsanaṃ paññapesuṃ, appekacce
pādodakaṃ upaṭṭhapesuṃ. Api ca kho maṃ nāmena ca āvusovādena ca samudācaranti.
''Evaṃ vutte, ahaṃ, bhikkhave, pañcavaggiye bhikkhū etadavocaṃ : 'mā,
bhikkhave, tathāgataṃ nāmena ca āvusovādena ca samudācaratha [samudācarittha
(sī. syā. pī.)]. Arahaṃ, bhikkhave, tathāgato sammāsambuddho . oDahatha,
bhikkhave, sotaṃ, amatamadhigataṃ, ahamanusāsāmi, ahaṃ dhammaṃ desemi.
Yathānusiṭṭhaṃ tathā paṭipajjamānā nacirasseva : yassatthāya kulaputtā
sammadeva agārasmā anagāriyaṃ pabbajanti tadanuttaraṃ : brahmacariyapariyosānaṃ
diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharissathāti. Evaṃ
vutte, bhikkhave, pañcavaggiyā bhikkhū maṃ etadavocuṃ : 'tāyapi kho tvaṃ, āvuso
gotama, iriyāya tāya paṭipadāya tāya dukkarakārikāya nājjhagamā
uttarimanussadhammā alamariyañāṇadassanavisesaṃ, kiṃ pana tvaṃ etarahi
bāhulliko padhānavibbhanto āvatto bāhullāya adhigamissasi uttarimanussadhammā
alamariyañāṇadassanavisesanti? evaṃ vutte, ahaṃ, bhikkhave, pañcavaggiye
bhikkhū etadavocaṃ : 'na, bhikkhave, tathāgato bāhulliko, na padhānavibbhanto,
na āvatto bāhullāya . Arahaṃ, bhikkhave,
tathāgato sammāsambuddho. oDahatha, bhikkhave, sotaṃ, amatamadhigataṃ,
ahamanusāsāmi, ahaṃ dhammaṃ desemi. Yathānusiṭṭhaṃ tathā paṭipajjamānā
nacirasseva : yassatthāya kulaputtā
sammadeva agārasmā anagāriyaṃ pabbajanti tadanuttaraṃ :
brahmacariyapariyosānaṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja
viharissathāti. Dutiyampi kho, bhikkhave, pañcavaggiyā bhikkhū maṃ etadavocuṃ :
'tāyapi kho tvaṃ, āvuso gotama, iriyāya tāya paṭipadāya tāya dukkarakārikāya
nājjhagamā uttarimanussadhammā alamariyañāṇadassanavisesaṃ, kiṃ pana tvaṃ
etarahi bāhulliko padhānavibbhanto āvatto bāhullāya adhigamissasi
uttarimanussadhammā alamariyañāṇadassanavisesanti? dutiyampi kho ahaṃ,
bhikkhave, pañcavaggiye bhikkhū etadavocaṃ : 'na, bhikkhave, tathāgato
bāhulliko - pe - upasampajja viharissathāti. Tatiyampi kho, bhikkhave,
pañcavaggiyā bhikkhū maṃ etadavocuṃ : 'tāyapi kho tvaṃ, āvuso gotama, iriyāya
tāya paṭipadāya tāya dukkarakārikāya nājjhagamā uttarimanussadhammā alamariyañāṇadassanavisesaṃ,
kiṃ pana tvaṃ etarahi bāhulliko padhānavibbhanto āvatto bāhullāya adhigamissasi
uttarimanussadhammā alamariyañāṇadassanavisesanti? ''evaṃ vutte, ahaṃ,
bhikkhave, pañcavaggiye bhikkhū etadavocaṃ : 'abhijānātha me no tumhe,
bhikkhave, ito pubbe evarūpaṃ pabhāvitametanti [bhāsitametanti (sī. syā.
vinayepi)]? 'no hetaṃ, bhante. 'Arahaṃ, bhikkhave, tathāgato sammāsambuddho.
oDahatha, bhikkhave, sotaṃ, amatamadhigataṃ, ahamanusāsāmi, ahaṃ dhammaṃ
desemi. Yathānusiṭṭhaṃ tathā paṭipajjamānā nacirasseva : yassatthāya kulaputtā sammadeva agārasmā
anagāriyaṃ pabbajanti tadanuttaraṃ : brahmacariyapariyosānaṃ diṭṭheva dhamme
sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja
viharissathāti. ''Asakkhiṃ kho ahaṃ, bhikkhave, pañcavaggiye bhikkhū saññāpetuṃ.
Dvepi sudaṃ, bhikkhave, bhikkhū ovadāmi, tayo bhikkhū piṇḍāya caranti. Yaṃ tayo
bhikkhū piṇḍāya caritvā āharanti tena chabbaggiyā [chabbaggā (sī. syā.)]
yāpema. Tayopi sudaṃ, bhikkhave, bhikkhū ovadāmi, dve bhikkhū piṇḍāya caranti.
Yaṃ dve bhikkhū piṇḍāya caritvā āharanti tena chabbaggiyā yāpema. Atha kho, bhikkhave,
pañcavaggiyā bhikkhū mayā evaṃ
ovadiyamānā evaṃ anusāsiyamānā attanā jātidhammā samānā jātidhamme ādīnavaṃ
viditvā ajātaṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ pariyesamānā ajātaṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ ajjhagamaṃsu, attanā
jarādhammā samānā jarādhamme ādīnavaṃ viditvā ajaraṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ
nibbānaṃ pariyesamānā ajaraṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ ajjhagamaṃsu,
attanā byādhidhammā samānā - pe - attanā maraṇadhammā samānā... attanā
sokadhammā samānā... attanā saṃkilesadhammā samānā saṃkilesadhamme ādīnavaṃ
viditvā asaṃkiliṭṭhaṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ pariyesamānā asaṃkiliṭṭhaṃ
anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ ajjhagamaṃsu. ñĀṇañca pana nesaṃ dassanaṃ
udapādi : 'akuppā no vimutti [akuppā
nesaṃ vimutti (ka.)], ayamantimā jāti, natthi dāni punabbhavoti.
287. ''Pañcime, bhikkhave, kāmaguṇā. Katame pañca? cakkhuviññeyyā
rūpā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā, sotaviññeyyā saddā -
pe - ghānaviññeyyā gandhā... jivhāviññeyyā rasā... kāyaviññeyyā phoṭṭhabbā iṭṭhā
kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā. Ime kho, bhikkhave, pañca kāmaguṇā.
Ye hi keci, bhikkhave, samaṇā vā brāhmaṇā vā ime pañca kāmaguṇe gathitā
mucchitā ajjhopannā anādīnavadassāvino anissaraṇapaññā paribhuñjanti, te
evamassu veditabbā : 'anayamāpannā byasanamāpannā yathākāmakaraṇīyā pāpimato
[pāpimatoti (?)]. 'Seyyathāpi, bhikkhave, āraññako mago baddho pāsarāsiṃ
adhisayeyya. So evamassa veditabbo : anayamāpanno byasanamāpanno yathākāmakaraṇīyo
luddassa. Āgacchante ca pana ludde yena kāmaṃ na pakkamissatīti. Evameva kho,
bhikkhave, ye hi keci samaṇā vā brāhmaṇā vā ime pañca kāmaguṇe gathitā mucchitā
ajjhopannā anādīnavadassāvino anissaraṇapaññā paribhuñjanti, te evamassu
veditabbā : 'anayamāpannā byasanamāpannā yathākāmakaraṇīyā pāpimato. Ye ca kho
keci, bhikkhave, samaṇā vā brāhmaṇā vā ime pañca kāmaguṇe agathitā amucchitā
anajjhopannā ādīnavadassāvino nissaraṇapaññā
paribhuñjanti, te evamassu veditabbā : 'na anayamāpannā na
byasanamāpannā na yathākāmakaraṇīyā
pāpimato. ''Seyyathāpi , bhikkhave, āraññako mago abaddho pāsarāsiṃ
adhisayeyya. So evamassa veditabbo : 'na anayamāpanno na byasanamāpanno na
yathākāmakaraṇīyo luddassa. Āgacchante ca pana ludde yena kāmaṃ pakkamissatīti.
Evameva kho, bhikkhave, ye hi keci samaṇā vā brāhmaṇā vā ime pañca kāmaguṇe agathitā
amucchitā anajjhopannā ādīnavadassāvino nissaraṇapaññā paribhuñjanti, te
evamassu veditabbā : 'na anayamāpannā na byasanamāpannā na yathākāmakaraṇīyā pāpimato. ''Seyyathāpi,
bhikkhave, āraññako mago araññe pavane caramāno vissattho gacchati, vissattho
tiṭṭhati, vissattho nisīdati, vissattho seyyaṃ kappeti. Taṃ kissa hetu?
anāpāthagato, bhikkhave, luddassa. Evameva kho, bhikkhave, bhikkhu vivicceva
kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ
jhānaṃ upasampajja viharati. Ayaṃ vuccati, bhikkhave, bhikkhu andhamakāsi māraṃ
apadaṃ, vadhitvā māracakkhuṃ adassanaṃ gato pāpimato. ''Puna caparaṃ,
bhikkhave, bhikkhu vitakkavicārānaṃ vūpasamā ajjhattaṃ sampasādanaṃ cetaso
ekodibhāvaṃ avitakkaṃ avicāraṃ samādhijaṃ pītisukhaṃ dutiyaṃ jhānaṃ upasampajja
viharati. Ayaṃ vuccati, bhikkhave - pe - pāpimato. ''Puna caparaṃ, bhikkhave,
bhikkhu pītiyā ca virāgā upekkhako ca viharati, sato ca sampajāno, sukhañca
kāyena paṭisaṃvedeti yaṃ taṃ ariyā ācikkhanti 'upekkhako satimā sukhavihārīti
tatiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. Ayaṃ vuccati, bhikkhave - pe - pāpimato.
''Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu sukhassa ca pahānā dukkhassa ca pahānā
pubbeva somanassadomanassānaṃ atthaṅgamā adukkhamasukhaṃ upekkhāsatipārisuddhiṃ
catutthaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. Ayaṃ vuccati, bhikkhave - pe - pāpimato.
''Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu sabbaso rūpasaññānaṃ samatikkamā paṭighasaññānaṃ
atthaṅgamā nānattasaññānaṃ amanasikārā
'ananto ākāsoti ākāsānañcāyatanaṃ upasampajja viharati. Ayaṃ vuccati, bhikkhave
- pe - pāpimato. ''Puna caparaṃ,
bhikkhave, bhikkhu sabbaso ākāsānañcāyatanaṃ samatikkamma 'anantaṃ viññāṇanti
viññāṇañcāyatanaṃ upasampajja viharati. Ayaṃ vuccati, bhikkhave - pe -
pāpimato.
''Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu sabbaso viññāṇañcāyatanaṃ
samatikkamma 'natthi kiñcīti ākiñcaññāyatanaṃ upasampajja viharati. Ayaṃ
vuccati, bhikkhave - pe - pāpimato. ''Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu sabbaso
ākiñcaññāyatanaṃ samatikkamma
nevasaññānāsaññāyatanaṃ upasampajja viharati. Ayaṃ vuccati, bhikkhave -
pe - pāpimato.
''Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu sabbaso nevasaññānāsaññāyatanaṃ
samatikkamma saññāvedayitanirodhaṃ upasampajja viharati, paññāya cassa disvā
āsavā parikkhīṇā honti. Ayaṃ vuccati, bhikkhave, bhikkhu andhamakāsi māraṃ
apadaṃ, vadhitvā māracakkhuṃ adassanaṃ gato pāpimato. Tiṇṇo loke visattikaṃ
vissattho gacchati, vissattho tiṭṭhati, vissattho nisīdati, vissattho seyyaṃ
kappeti. Taṃ kissa hetu? anāpāthagato, bhikkhave, pāpimatoti. Idamavoca Bhagavā.
Attamanā te bhikkhū bhagavato bhāsitaṃ abhinandunti.
Pāsarāsisuttaṃ niṭṭhitaṃ chaṭṭhaṃ.
-ooOoo-
26.
Pāsarāsisuttavaṇṇanā [Atthakathā]
272. Evaṃ me sutanti pāsarāsisuttaṃ. Tattha sādhu mayaṃ, āvusoti
āyācantā bhaṇanti. Ete kira pañcasatā bhikkhū janapadavāsino ‘‘dasabalaṃ
passissāmā’’ti sāvatthiṃ anuppattā. Satthudassanaṃ pana etehi laddhaṃ, dhammiṃ
kathaṃ na tāva suṇanti. Te satthugāravena ‘‘amhākaṃ, bhante, dhammakathaṃ
kathethā’’ti vattuṃ na sakkonti. Buddhā hi garū honti, ekacāriko sīho migarājā
viya, pabhinnakuñjaro viya, phaṇakataāsīviso viya, mahāaggikkhandho viya ca
durāsadā vuttampi cetaṃ –
‘‘Āsīviso yathā ghoro, migarājāva kesarī;
Nāgova kuñjaro dantī, evaṃ buddhā durāsadā’’ti.
Evaṃ durāsadaṃ satthāraṃ te bhikkhū sayaṃ yācituṃ asakkontā āyasmantaṃ
ānandaṃ yācamānā ‘‘sādhu mayaṃ, āvuso’’ti āhaṃsu.
Appeva nāmāti api nāma labheyyātha. Kasmā pana thero te bhikkhū
‘‘rammakassa brāhmaṇassa assamaṃ upasaṅkameyyāthā’’ti āha? Pākaṭakiriyatāya.
Dasabalassa hi kiriyā therassa pākaṭā hoti; jānāti thero, ‘‘ajja satthā
jetavane vasitvā pubbārāme divāvihāraṃ karissati; ajja pubbārāme vasitvā
jetavane divāvihāraṃ karissati; ajja ekakova piṇḍāya pavisissati; ajja
bhikkhusaṅghaparivuto imasmiṃ kāle janapadacārikaṃ nikkhamissatī’’ti. Kiṃ
panassa evaṃ jānanatthaṃ cetopariyañāṇaṃ atthīti? Natthi. Anumānabuddhiyā pana
katakiriyāya nayaggāhena jānāti. Yañhi divasaṃ bhagavā jetavane vasitvā
pubbārāme divāvihāraṃ kātukāmo hoti, tadā senāsanaparikkhārabhaṇḍānaṃ paṭisāmanākāraṃ
dasseti, thero sammajjanisaṅkārachaḍḍanakādīni paṭisāmeti. Pubbārāme vasitvā
jetavanaṃ divāvihārāya āgamanakālepi eseva nayo.
Yadā pana ekako piṇḍāya pavisitukāmo hoti, tadā pātova sarīrapaṭijagganaṃ
katvā gandhakuṭiṃ pavisitvā dvāraṃ pidhāya phalasamāpattiṃ appetvā nisīdati.
Thero ‘‘ajja bhagavā bodhaneyyabandhavaṃ disvā nisinno’’ti tāya saññāya ñatvā
‘‘ajja, āvuso, bhagavā ekako pavisitukāmo, tumhe bhikkhācārasajjā hothā’’ti
bhikkhūnaṃ saññaṃ deti. Yadā pana bhikkhusaṅghaparivāro pavisitukāmo hoti, tadā
gandhakuṭidvāraṃ upaḍḍhapidahitaṃ katvā phalasamāpattiṃ appetvā nisīdati, thero
tāya saññāya ñatvā pattacīvaraggahaṇatthāya bhikkhūnaṃ saññaṃ deti. Yadā
janapadacārikaṃ nikkhamitukāmo hoti, tadā ekaṃ dve ālope atirekaṃ bhuñjati,
sabbakālaṃ caṅkamanañcāruyha aparāparaṃ caṅkamati, thero tāya saññāya ñatvā
‘‘bhagavā, āvuso, janapadacārikaṃ caritukāmo, tumhākaṃ kattabbaṃ karothā’’ti
bhikkhūnaṃ saññaṃ deti.
Bhagavā paṭhamabodhiyaṃ vīsati vassāni anibaddhavāso ahosi, pacchā
pañcavīsati vassāni abbokiṇṇaṃ sāvatthiṃyeva upanissāya vasanto ekadivase dve ṭhānāni
paribhuñjati. Jetavane rattiṃ vasitvā punadivase bhikkhusaṅghaparivuto dakkhiṇadvārena
sāvatthiṃ piṇḍāya pavisitvā pācīnadvārena nikkhamitvā pubbārāme divāvihāraṃ
karoti. Pubbārāme rattiṃ vasitvā punadivase pācīnadvārena sāvatthiṃ piṇḍāya
pavisitvā dakkhiṇadvārena nikkhamitvā jetavane divāvihāraṃ karoti. Kasmā?
Dvinnaṃ kulānaṃ anukampāya. Manussattabhāve ṭhitena hi anāthapiṇḍikena viya aññena
kenaci, mātugāmattabhāve ṭhitāya ca visākhāya viya aññāya itthiyā tathāgataṃ
uddissa dhanapariccāgo kato nāma natthi, tasmā bhagavā tesaṃ anukampāya
ekadivase imāni dve ṭhānāni paribhuñjati. Tasmiṃ pana divase jetavane vasi,
tasmā thero – ‘‘ajja bhagavā sāvatthiyaṃ piṇḍāya caritvā sāyanhakāle gattāni
parisiñcanatthāya pubbakoṭṭhakaṃ gamissati; athāhaṃ gattāni parisiñcitvā ṭhitaṃ
bhagavantaṃ yācitvā rammakassa brāhmaṇassa assamaṃ gahetvā gamissāmi. Evamime
bhikkhū bhagavato sammukhā labhissanti dhammakathaṃ savanāyā’’ti cintetvā te
bhikkhū evamāha.
Migāramātupāsādoti visākhāya pāsādo. Sā hi migārena seṭṭhinā mātuṭṭhāne ṭhapitattā
migāramātāti vuccati. Paṭisallānā vuṭṭhitoti tasmiṃ kira pāsāde dvinnaṃ
mahāsāvakānaṃ sirigabbhānaṃ majjhe bhagavato sirigabbho ahosi. Thero dvāraṃ
vivaritvā antogabbhaṃ sammajjitvā mālākacavaraṃ nīharitvā mañcapīṭhaṃ
paññapetvā satthu saññaṃ adāsi. Satthā sirigabbhaṃ pavisitvā dakkhiṇena passena
sato sampajāno sīhaseyyaṃ upagamma darathaṃ paṭippassambhetvā uṭṭhāya
phalasamāpattiṃ appetvā nisīditvā sāyanhasamaye tato vuṭṭhāsi. Taṃ sandhāya
vuttaṃ ‘‘paṭisallānā vuṭṭhito’’ti.
Parisiñcitunti yo hi cuṇṇamattikādīhi gattāni ubbaṭṭento mallakamuṭṭhādīhi
vā ghaṃsanto nhāyati, so nhāyatīti vuccati. Yo tathā akatvā pakatiyāva nhāyati,
so parisiñcatīti vuccati. Bhagavatopi sarīre tathā haritabbaṃ rajojallaṃ nāma
na upalimpati, utuggahaṇatthaṃ pana bhagavā kevalaṃ udakaṃ otarati. Tenāha –
‘‘gattāni parisiñcitu’’nti. Pubbakoṭṭhakoti pācīnakoṭṭhako.
Sāvatthiyaṃ kira vihāro kadāci mahā hoti kadāci khuddako. Tathā hi so
vipassissa bhagavato kāle yojaniko ahosi, sikhissa tigāvuto, vessabhussa aḍḍhayojaniko,
kakusandhassa gāvutappamāṇo, koṇāgamanassa aḍḍhagāvutappamāṇo, kassapassa
vīsatiusabhappamāṇo, amhākaṃ bhagavato kāle aṭṭhakarīsappamāṇo jāto. Tampi
nagaraṃ tassa vihārassa kadāci pācīnato hoti, kadāci dakkhiṇato, kadāci
pacchimato, kadāci uttarato. Jetavane gandhakuṭiyaṃ pana catunnaṃ mañcapādānaṃ
patiṭṭhitaṭṭhānaṃ acalameva.
Cattāri hi acalacetiyaṭṭhānāni nāma mahābodhipallaṅkaṭṭhānaṃ isipatane
dhammacakkappavattanaṭṭhānaṃ saṅkassanagaradvāre devorohaṇakāle sopānassa patiṭṭhaṭṭhānaṃ
mañcapādaṭṭhānanti. Ayaṃ pana pubbakoṭṭhako kassapadasabalassa
vīsatiusabhavihārakāle pācīnadvāre koṭṭhako ahosi. So idānipi pubbakoṭṭhakotveva
paññāyati. Kassapadasabalassa kāle aciravatī nagaraṃ parikkhipitvā sandamānā
pubbakoṭṭhakaṃ patvā udakena bhinditvā mahantaṃ udakarahadaṃ māpesi samatitthaṃ
anupubbagambhīraṃ. Tattha ekaṃ rañño nhānatitthaṃ, ekaṃ nāgarānaṃ, ekaṃ
bhikkhusaṅghassa, ekaṃ buddhānanti evaṃ pāṭiyekkāni nhānatitthāni honti ramaṇīyāni
vippakiṇṇarajatapaṭṭasadisavālikāni. Iti bhagavā āyasmatā ānandena saddhiṃ yena
ayaṃ evarūpo pubbakoṭṭhako tenupasaṅkami gattāni parisiñcituṃ. Athāyasmā ānando
udakasāṭikaṃ upanesi. Bhagavā rattadupaṭṭaṃ apanetvā udakasāṭikaṃ nivāsesi.
Thero dupaṭṭena saddhiṃ mahācīvaraṃ attano hatthagatamakāsi. Bhagavā udakaṃ
otari. Sahotaraṇenevassa udake macchakacchapā sabbe suvaṇṇavaṇṇā ahesuṃ.
Yantanālikāhi suvaṇṇarasadhārānisiñcamānakālo viya suvaṇṇapaṭapasāraṇakālo viya
ca ahosi. Atha bhagavato nhānavattaṃ dassetvā nhatvā paccuttiṇṇassa thero
rattadupaṭṭaṃ upanesi. Bhagavā taṃ nivāsetvā vijjulatāsadisaṃ kāyabandhanaṃ
bandhitvā mahācīvaraṃ antantena saṃharitvā padumagabbhasadisaṃ katvā upanītaṃ
dvīsu kaṇṇesu gahetvā aṭṭhāsi. Tena vuttaṃ – ‘‘pubbakoṭṭhake gattāni
parisiñcitvā paccuttaritvā ekacīvaro aṭṭhāsī’’ti.
Evaṃ ṭhitassa pana bhagavato sarīraṃ vikasitakamaluppalasaraṃ
sabbapāliphullaṃ pāricchattakaṃ tārāmarīcivikasitaṃ ca gaganatalaṃ siriyā
avahasamānaṃ viya virocittha. Byāmappabhāparikkhepavilāsinī cassa dvattiṃsavaralakkhaṇamālā
ganthetvā ṭhapitā dvattiṃsacandamālā viya, dvattiṃsasūriyamālā viya, paṭipāṭiyā
ṭhapitā dvattiṃsacakkavatti dvattiṃsadevarājā dvattiṃsamahābrahmāno viya ca
ativiya virocittha, vaṇṇabhūmināmesā. Evarūpesu ṭhānesu buddhānaṃ sarīravaṇṇaṃ
vā guṇavaṇṇaṃ vā cuṇṇiyapadehi vā gāthāhi vā atthañca upamāyo ca kāraṇāni ca
āharitvā paṭibalena dhammakathikena pūretvā kathetuṃ vaṭṭatīti evarūpesu ṭhānesu
dhammakathikassa thāmo veditabbo.
273. Gattāni pubbāpayamānoti pakatibhāvaṃ gamayamāno nirudakāni
kurumāno, sukkhāpayamānoti attho. Sodakena gattena cīvaraṃ pārupantassa hi
cīvare kaṇṇikā uṭṭhahanti, parikkhārabhaṇḍaṃ dussati. Buddhānaṃ pana sarīre
rajojallaṃ na upalimpati; padumapatte pakkhittaudakabindu viya udakaṃ
vinivattetvā gacchati, evaṃ santepi sikkhāgāravatāya bhagavā, ‘‘pabbajitavattaṃ
nāmeta’’nti mahācīvaraṃ ubhosu kaṇṇesu gahetvā purato kāyaṃ paṭicchādetvā aṭṭhāsi.
Tasmiṃ khaṇe thero cintesi – ‘‘bhagavā mahācīvaraṃ pārupitvā migāramātupāsādaṃ
ārabbha gamanābhihārato paṭṭhāya dunnivattiyo bhavissati; buddhānañhi
adhippāyakopanaṃ nāma ekacārikasīhassa gahaṇatthaṃ hatthappasāraṇaṃ viya;
pabhinnavaravāraṇassa soṇḍāya parāmasanaṃ viya; uggatejassa āsīvisassa gīvāya
gahaṇaṃ viya ca bhāriyaṃ hoti. Idheva rammakassa brāhmaṇassa assamassa vaṇṇaṃ
kathetvā tattha gamanatthāya bhagavantaṃ yācissāmī’’ti. So tathā akāsi. Tena
vuttaṃ – ‘‘atha kho āyasmā ānando…pe… anukampaṃ upādāyā’’ti.
Tattha anukampaṃ upādāyāti bhagavato sammukhā dhammiṃ kathaṃ sossāmāti
taṃ assamaṃ gatānaṃ pañcannaṃ bhikkhusatānaṃ anukampaṃ paṭicca, tesu kāruññaṃ
katvāti attho. Dhammiyā kathāyāti dasasu pāramitāsu aññatarāya pāramiyā ceva
mahābhinikkhamanassa ca vaṇṇaṃ kathayamānā sannisinnā honti. Āgamayamānoti
olokayamāno. Ahaṃ buddhoti sahasā appavisitvā yāva sā kathā niṭṭhāti, tāva aṭṭhāsīti
attho. Aggaḷaṃ ākoṭesīti agganakhena kavāṭe saññaṃ adāsi. Vivariṃsūti sotaṃ
odahitvāva nisinnattā taṅkhaṇaṃyeva āgantvā vivariṃsu.
Paññatte āsaneti buddhakāle kira yattha yattha ekopi bhikkhu viharati,
sabbattha buddhāsanaṃ paññattameva hoti. Kasmā? Bhagavā kira attano santike
kammaṭṭhānaṃ gahetvā phāsukaṭṭhāne viharante manasi karoti ‘‘asuko mayhaṃ
santike kammaṭṭhānaṃ gahetvā gato, sakkhissati nu kho visesaṃ nibbattetuṃ no
vā’’ti. Atha naṃ passati kammaṭṭhānaṃ vissajjetvā akusalavitakke vitakkayamānaṃ,
tato ‘‘kathañhi nāma mādisassa satthu santike kammaṭṭhānaṃ gahetvā viharantaṃ
imaṃ kulaputtaṃ akusalavitakkā abhibhavitvā anamatagge vaṭṭadukkhe saṃsāressantī’’ti
tassa anuggahatthaṃ tattheva attānaṃ dassetvā taṃ kulaputtaṃ ovaditvā ākāsaṃ
uppatitvā puna attano vasanaṭṭhānameva gacchati. Athevaṃ ovadiyamānā te bhikkhū
cintayiṃsu – ‘‘satthā amhākaṃ manaṃ jānitvā āgantvā amhākaṃ samīpe ṭhitaṃyeva
attānaṃ dasseti; tasmiṃ khaṇe, ‘bhante, idha nisīdatha, idha nisīdathā’ti
āsanapariyesanaṃ nāma bhāro’’ti. Te āsanaṃ paññapetvāva viharanti. Yassa pīṭhaṃ
atthi, so taṃ paññapeti. Yassa natthi, so mañcaṃ vā phalakaṃ vā kaṭṭhaṃ vā pāsāṇaṃ
vā vālikapuñjaṃ vā paññapeti. Taṃ alabhamānā purāṇapaṇṇānipi saṅkaḍḍhitvā
tattha paṃsukūlaṃ pattharitvā ṭhapenti. Idha pana pakatipaññattameva āsanaṃ
ahosi, taṃ sandhāya vuttaṃ – ‘‘paññatte āsane nisīdī’’ti.
Kāya nutthāti katamāya nu kathāya sannisinnā bhavathāti attho. ‘‘Kāya
netthā’’tipi pāḷi, tassā katamāya nu etthāti attho. ‘‘Kāya notthā’’tipi pāḷi,
tassāpi purimoyeva attho. Antarā kathāti kammaṭṭhānamanasikārauddesaparipucchādīnaṃ
antarā aññā ekā kathā. Vippakatāti mama āgamanapaccayā apariniṭṭhitā sikhaṃ
appattā. Atha bhagavā anuppattoti atha etasmiṃ kāle bhagavā āgato. Dhammī vā
kathāti dasakathāvatthunissitā vā dhammī kathā. Ariyo vā tuṇhībhāvoti ettha
pana dutiyajjhānampi ariyo tuṇhībhāvo mūlakammaṭṭhānampi. Tasmā taṃ jhānaṃ
appetvā nisinnopi, mūlakammaṭṭhānaṃ gahetvā nisinnopi bhikkhu ariyena tuṇhībhāvena
nisinnoti veditabbo.
274. Dvemā, bhikkhave, pariyesanāti ko anusandhi? Te bhikkhū sammukhā
dhammiṃ kathaṃ sossāmāti therassa bhāraṃ akaṃsu, thero tesaṃ
assamagamanamakāsi. Te tattha nisīditvā atiracchānakathikā hutvā dhammiyā
kathāya nisīdiṃsu. Atha bhagavā ‘‘ayaṃ tumhākaṃ pariyesanā ariyapariyesanā
nāmā’’ti dassetuṃ imaṃ desanaṃ ārabhi. Tattha katamā ca, bhikkhave,
anariyapariyesanāti ettha yathā maggakusalo puriso paṭhamaṃ vajjetabbaṃ
apāyamaggaṃ dassento ‘‘vāmaṃ muñcitvā dakkhiṇaṃ gaṇhā’’ti vadati. Evaṃ bhagavā
desanākusalatāya paṭhamaṃ vajjetabbaṃ anariyapariyesanaṃ ācikkhitvā pacchā
itaraṃ ācikkhissāmīti uddesānukkamaṃ bhinditvā evamāha. Jātidhammoti
jāyanasabhāvo. Jarādhammoti jīraṇasabhāvo. Byādhidhammoti byādhisabhāvo. Maraṇadhammoti
maraṇasabhāvo. Sokadhammoti socanakasabhāvo. Saṃkilesadhammoti saṃkilissanasabhāvo.
Puttabhariyanti puttā ca bhariyā ca. Esa nayo sabbattha.
Jātarūparajatanti ettha pana jātarūpanti suvaṇṇaṃ. Rajatanti yaṃkiñci
vohārūpagaṃ lohamāsakādi. Jātidhammā hete, bhikkhave, upadhayoti ete
pañcakāmaguṇūpadhayo nāma honti, te sabbepi jātidhammāti dasseti.
Byādhidhammavārādīsu jātarūparajataṃ na gahitaṃ, na hetassa sīsarogādayo
byādhayo nāma honti, na sattānaṃ viya cutisaṅkhātaṃ maraṇaṃ, na soko uppajjati.
Ayādīhi pana saṃkilesehi saṃkilissatīti saṃkilesadhammavāre gahitaṃ. Tathā
utusamuṭṭhānattā jātidhammavāre. Malaṃ gahetvā jīraṇato jarādhammavāre ca.
275. Ayaṃ , bhikkhave, ariyā pariyesanāti, bhikkhave, ayaṃ niddosatāyapi
ariyehi pariyesitabbatāyapi ariyapariyesanāti veditabbā.
276. Ahampi sudaṃ, bhikkhaveti kasmā ārabhi? Mūlato paṭṭhāya
mahābhinikkhamanaṃ dassetuṃ. Evaṃ kirassa ahosi – ‘‘bhikkhave, ahampi pubbe
anariyapariyesanaṃ pariyesiṃ. Svāhaṃ taṃ pahāya ariyapariyesanaṃ pariyesitvā
sabbaññutaṃ patto. Pañcavaggiyāpi anariyapariyesanaṃ pariyesiṃsu. Te taṃ pahāya
ariyapariyesanaṃ pariyesitvā khīṇāsavabhūmiṃ pattā. Tumhepi mama ceva
pañcavaggiyānañca maggaṃ āruḷhā. Ariyapariyesanā tumhākaṃ pariyesanā’’ti mūlato
paṭṭhāya attano mahābhinikkhamanaṃ dassetuṃ imaṃ desanaṃ ārabhi.
277. Tattha daharova samānoti taruṇova samāno. Susukāḷakesoti suṭṭhu kāḷakeso,
añjanavaṇṇakesova hutvāti attho. Bhadrenāti bhaddakena. Paṭhamena vayasāti tiṇṇaṃ
vayānaṃ paṭhamavayena. Akāmakānanti anicchamānānaṃ, anādaratthe sāmivacanaṃ.
Assūni mukhe etesanti assumukhā; tesaṃ assumukhānaṃ, assukilinnamukhānanti
attho. Rudantānanti kanditvā rodamānānaṃ. Kiṃ kusalagavesīti kiṃ kusalanti
gavesamāno. Anuttaraṃ santivarapadanti uttamaṃ santisaṅkhātaṃ varapadaṃ,
nibbānaṃ pariyesamānoti attho. Yena āḷāro kālāmoti ettha āḷāroti tassa nāmaṃ,
dīghapiṅgalo kireso. Tenassa āḷāroti nāmaṃ ahosi. Kālāmoti gottaṃ.
Viharatāyasmāti viharatu āyasmā. Yattha viññū purisoti yasmiṃ dhamme paṇḍito
puriso. Sakaṃ ācariyakanti attano ācariyasamayaṃ. Upasampajja vihareyyāti paṭilabhitvā
vihareyya. Ettāvatā tena okāso kato hoti. Taṃ dhammanti taṃ tesaṃ samayaṃ tantiṃ.
Pariyāpuṇinti sutvāva uggaṇhiṃ.
Oṭṭhapahatamattenāti tena vuttassa paṭiggahaṇatthaṃ oṭṭhapaharaṇamattena;
aparāparaṃ katvā oṭṭhasañcaraṇamattakenāti attho. Lapitalāpanamattenāti tena
lapitassa paṭilāpanamattakena. Ñāṇavādanti jānāmīti vādaṃ. Theravādanti
thirabhāvavādaṃ, thero ahametthāti etaṃ vacanaṃ. Ahañceva aññe cāti na kevalaṃ
ahaṃ, aññepi bahū evaṃ vadanti. Kevalaṃ saddhāmattakenāti paññāya asacchikatvā
suddhena saddhāmattakeneva. Bodhisatto kira vācāya dhammaṃ uggaṇhantoyeva, ‘‘na
kālāmassa vācāya pariyattimattameva asmiṃ dhamme, addhā esa sattannaṃ
samāpattīnaṃ lābhī’’ti aññāsi, tenassa etadahosi.
Ākiñcaññāyatanaṃ pavedesīti ākiñcaññāyatanapariyosānā satta samāpattiyo
maṃ jānāpesi. Saddhāti imāsaṃ sattannaṃ samāpattīnaṃ nibbattanatthāya saddhā.
Vīriyādīsupi eseva nayo. Padaheyyanti payogaṃ kareyyaṃ. Nacirasseva taṃ dhammaṃ
sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja vihāsinti bodhisatto kira vīriyaṃ
paggahetvā katipāhaññeva satta suvaṇṇanisseṇiyo pasārento viya satta
samāpattiyo nibbattesi; tasmā evamāha.
Lābhā no, āvusoti anusūyako kiresa kālāmo. Tasmā ‘‘ayaṃ adhunāgato,
kinti katvā imaṃ dhammaṃ nibbattesī’’ti usūyaṃ akatvā pasanno pasādaṃ pavedento
evamāha. Ubhova santā imaṃ gaṇaṃ pariharāmāti ‘‘mahā ayaṃ gaṇo, dvepi janā
pariharāmā’’ti vatvā gaṇassa saññaṃ adāsi, ‘‘ahampi sattannaṃ samāpattīnaṃ
lābhī, mahāpurisopi sattannameva, ettakā janā mahāpurisassa santike parikammaṃ
uggaṇhatha, ettakā mayha’’nti majjhe bhinditvā adāsi. Uḷārāyāti uttamāya.
Pūjāyāti kālāmassa kira upaṭṭhākā itthiyopi purisāpi gandhamālādīni gahetvā
āgacchanti. Kālāmo – ‘‘gacchatha, mahāpurisaṃ pūjethā’’ti vadati. Te taṃ
pūjetvā yaṃ avasiṭṭhaṃ hoti, tena kālāmaṃ pūjenti. Mahagghāni mañcapīṭhāni
āharanti; tānipi mahāpurisassa dāpetvā yadi avasiṭṭhaṃ hoti, attanā gaṇhāti.
Gatagataṭṭhāne varasenāsanaṃ bodhisattassa jaggāpetvā sesakaṃ attanā gaṇhāti.
Evaṃ uḷārāya pūjāya pūjesi. Nāyaṃ dhammo nibbidāyātiādīsu ayaṃ
sattasamāpattidhammo neva vaṭṭe nibbindanatthāya, na virajjanatthāya, na
rāgādinirodhatthāya, na upasamatthāya, na abhiññeyyadhammaṃ abhijānanatthāya,
na catumaggasambodhāya, na nibbānasacchikiriyāya saṃvattatīti attho.
Yāvadeva ākiñcaññāyatanūpapattiyāti yāva saṭṭhikappasahassāyuparimāṇe
ākiñcaññāyatanabhave upapatti, tāvadeva saṃvattati, na tato uddhaṃ. Evamayaṃ
punarāvattanadhammoyeva; yañca ṭhānaṃ pāpeti, taṃ jātijarāmaraṇehi
aparimuttameva maccupāsaparikkhittamevāti. Tato paṭṭhāya ca pana mahāsatto
yathā nāma chātajjhattapuriso manuññabhojanaṃ labhitvā sampiyāyamānopi
bhuñjitvā pittavasena vā semhavasena vā makkhikāvasena vā chaḍḍetvā puna ekaṃ
piṇḍampi bhuñjissāmīti manaṃ na uppādeti; evameva imā satta samāpattiyo
mahantena ussāhena nibbattetvāpi, tāsu imaṃ punarāvattikādibhedaṃ ādīnavaṃ
disvā, puna imaṃ dhammaṃ āvajjissāmi vā samāpajjissāmi vā adhiṭṭhahissāmi vā vuṭṭhahissāmi
vā paccavekkhissāmi vāti cittameva na uppādesi. Analaṅkaritvāti alaṃ iminā, alaṃ
imināti punappunaṃ alaṅkaritvā. Nibbijjāti nibbinditvā. Apakkaminti agamāsiṃ.
278. Na kho rāmo imaṃ dhammanti idhāpi bodhisatto taṃ dhammaṃ uggaṇhantoyeva
aññāsi – ‘‘nāyaṃ aṭṭhasamāpattidhammo udakassa vācāya uggahitamattova, addhā
panesa aṭṭhasamāpattilābhī’’ti. Tenassa etadahosi – ‘‘na kho rāmo…pe… jānaṃ
passaṃ vihāsī’’ti. Sesamettha purimavāre vuttanayeneva veditabbaṃ.
279. Yena uruvelā senānigamoti ettha uruvelāti mahāvelā,
mahāvālikarāsīti attho. Atha vā urūti vālikā vuccati; velāti mariyādā,
velātikkamanahetu āhaṭā uru uruvelāti evamettha attho daṭṭhabbo. Atīte kira
anuppanne buddhe dasasahassā kulaputtā tāpasapabbajjaṃ pabbajitvā tasmiṃ padese
viharantā ekadivasaṃ sannipatitvā katikavattaṃ akaṃsu – ‘‘kāyakammavacīkammāni
nāma paresampi pākaṭāni honti, manokammaṃ pana apākaṭaṃ. Tasmā yo kāmavitakkaṃ
vā byāpādavitakkaṃ vā vihiṃsāvitakkaṃ vā vitakketi, tassa añño codako nāma
natthi; so attanāva attānaṃ codetvā pattapuṭena vālikaṃ āharitvā imasmiṃ ṭhāne
ākiratu, idamassa daṇḍakamma’’nti. Tato paṭṭhāya yo tādisaṃ vitakkaṃ vitakketi,
so tattha pattapuṭena vālikaṃ ākirati, evaṃ tattha anukkamena mahāvālikarāsi
jāto. Tato taṃ pacchimā janatā parikkhipitvā cetiyaṭṭhānamakāsi; taṃ sandhāya
vuttaṃ – ‘‘uruvelāti mahāvelā, mahāvālikarāsīti attho’’ti. Tameva sandhāya
vuttaṃ – ‘‘atha vā urūti vālikā vuccati, velāti mariyādā. Velātikkamanahetu āhaṭā
uru uruvelāti evamettha attho daṭṭhabbo’’ti.
Senānigamoti senāya nigamo. Paṭhamakappikānaṃ kira tasmiṃ ṭhāne
senāniveso ahosi; tasmā so padeso senānigamoti vuccati. ‘‘Senāni-gāmo’’tipi pāṭho.
Senānī nāma sujātāya pitā, tassa gāmoti attho. Tadavasarinti tattha osariṃ.
Ramaṇīyaṃ bhūmibhāganti supupphitanānappakārajalajathalajapupphavicittaṃ
manorammaṃ bhūmibhāgaṃ. Pāsādikañca vanasaṇḍanti morapiñchakalāpasadisaṃ
pasādajananavanasaṇḍañca addasaṃ. Nadiñca sandantinti sandamānañca maṇikkhandhasadisaṃ
vimalanīlasītalasalilaṃ nerañjaraṃ nadiṃ addasaṃ. Setakanti parisuddhaṃ
nikkaddamaṃ. Supatitthanti anupubbagambhīrehi sundarehi titthehi upetaṃ. Ramaṇīyanti
rajatapaṭṭasadisaṃ vippakiṇṇavālikaṃ pahūtamacchakacchapaṃ abhirāmadassanaṃ.
Samantā ca gocaragāmanti tassa padesassa samantā avidūre gamanāgamanasampannaṃ
sampattapabbajitānaṃ sulabhapiṇḍaṃ gocaragāmañca addasaṃ. Alaṃ vatāti samatthaṃ
vata. Tattheva nisīdinti bodhipallaṅke nisajjaṃ sandhāyāha. Uparisuttasmiñhi
tatthevāti dukkarakārikaṭṭhānaṃ adhippetaṃ, idha pana bodhipallaṅko. Tenāha –
‘‘tattheva nisīdi’’nti. Alamidaṃ padhānāyāti idaṃ ṭhānaṃ padhānatthāya
samatthanti evaṃ cintetvā nisīdinti attho.
280. Ajjhagamanti adhigacchiṃ paṭilabhiṃ. Ñāṇañca pana me dassananti
sabbadhammadassanasamatthañca me sabbaññutaññāṇaṃ udapādi. Akuppā me vimuttīti
mayhaṃ arahattaphalavimutti akuppatāya ca akuppārammaṇatāya ca akuppā, sā hi
rāgādīhi na kuppatīti akuppatāyapi akuppā, akuppaṃ nibbānamassārammaṇantipi
akuppā. Ayamantimā jātīti ayaṃ sabbapacchimā jāti. Natthi dāni punabbhavoti
idāni me puna paṭisandhi nāma natthīti evaṃ paccavekkhaṇañāṇampi me uppannanti
dasseti.
281. Adhigatoti paṭividdho. Dhammoti catusaccadhammo. Gambhīroti
uttānabhāvapaṭikkhepavacanametaṃ. Duddasoti gambhīrattāva duddaso dukkhena daṭṭhabbo,
na sakkā sukhena daṭṭhuṃ. Duddasattāva duranubodho, dukkhena avabujjhitabbo, na
sakkā sukhena avabujjhituṃ. Santoti nibbuto. Paṇītoti atappako. Idaṃ dvayaṃ
lokuttarameva sandhāya vuttaṃ. Atakkāvacaroti takkena avacaritabbo ogāhitabbo
na hoti, ñāṇeneva avacaritabbo. Nipuṇoti saṇho. Paṇḍitavedanīyoti sammāpaṭipadaṃ
paṭipannehi paṇḍitehi veditabbo. Ālayarāmāti sattā pañcasu kāmaguṇesu
allīyanti. Tasmā te ālayāti vuccanti. Aṭṭhasatataṇhāvicaritāni ālayanti, tasmā
ālayāti vuccanti. Tehi ālayehi ramantīti ālayarāmā. Ālayesu ratāti ālayaratā.
Ālayesu suṭṭhu muditāti ālayasammuditā. Yatheva hi susajjitaṃ
pupphaphalabharitarukkhādisampannaṃ uyyānaṃ paviṭṭho rājā tāya tāya sampattiyā
ramati, sammudito āmoditapamodito hoti, na ukkaṇṭhati, sāyampi nikkhamituṃ na
icchati; evamimehipi kāmālayataṇhālayehi sattā ramanti, saṃsāravaṭṭe sammuditā
anukkaṇṭhitā vasanti. Tena nesaṃ bhagavā duvidhampi ālayaṃ uyyānabhūmiṃ viya
dassento ‘‘ālayarāmā’’tiādimāha.
Yadidanti nipāto, tassa ṭhānaṃ sandhāya ‘‘yaṃ ida’’nti, paṭiccasamuppādaṃ
sandhāya ‘‘yo aya’’nti evamattho daṭṭhabbo. Idappaccayatāpaṭiccasamuppādoti
imesaṃ paccayā idappaccayā; idappaccayā eva idappaccayatā; idappaccayatā ca sā
paṭiccasamuppādo cāti idappaccayatāpaṭiccasamuppādo. Saṅkhārādipaccayānametaṃ
adhivacanaṃ. Sabbasaṅkhārasamathotiādi sabbaṃ nibbānameva. Yasmā hi taṃ āgamma
sabbasaṅkhāravipphanditāni sammanti vūpasammanti, tasmā sabbasaṅkhārasamathoti
vuccati. Yasmā ca taṃ āgamma sabbe upadhayo paṭinissaṭṭhā honti, sabbā taṇhā
khīyanti, sabbe kilesarāgā virajjanti, sabbaṃ dukkhaṃ nirujjhati; tasmā
sabbūpadhipaṭinissaggo taṇhākkhayo virāgo nirodhoti vuccati. Sā panesā taṇhā
bhavena bhavaṃ, phalena vā saddhiṃ kammaṃ vinati saṃsibbatīti katvā vānanti
vuccati, tato nikkhantaṃ vānatoti nibbānaṃ. So mamassa kilamathoti yā
ajānantānaṃ desanā nāma, so mama kilamatho assa, sā mama vihesā assāti attho.
Kāyakilamatho ceva kāyavihesā ca assāti vuttaṃ hoti. Citte pana ubhayampetaṃ
buddhānaṃ natthi. Apissūti anubrūhanatthe nipāto, so ‘‘na kevalaṃ etadahosi,
imāpi gāthā paṭibhaṃsū’’ti dīpeti. Manti mama. Anacchariyāti anuacchariyā. Paṭibhaṃsūti
paṭibhānasaṅkhātassa ñāṇassa gocarā ahesuṃ; parivitakkayitabbataṃ pāpuṇiṃsu.
Kicchenāti dukkhena, na dukkhāya paṭipadāya. Buddhānañhi cattāropi maggā
sukhappaṭipadāva honti. Pāramīpūraṇakāle pana sarāgasadosasamohasseva sato
āgatāgatānaṃ yācakānaṃ, alaṅkatappaṭiyattaṃ sīsaṃ kantitvā, galalohitaṃ
nīharitvā, suañjitāni akkhīni uppāṭetvā, kulavaṃsappadīpaṃ puttaṃ manāpacāriniṃ
bhariyanti evamādīni dentassa, aññāni ca khantivādisadisesu attabhāvesu
chejjabhejjādīni pāpuṇantassa āgamaniyapaṭipadaṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ. Halanti
ettha ha-kāro nipātamatto, alanti attho. Pakāsitunti desituṃ, evaṃ kicchena
adhigatassa dhammassa alaṃ desituṃ, pariyattaṃ desituṃ, ko attho desitenāti
vuttaṃ hoti. Rāgadosaparetehīti rāgadosapariphuṭṭhehi rāgadosānugatehi vā.
Paṭisotagāminti niccādīnaṃ paṭisotaṃ aniccaṃ dukkhamanattā asubhanti evaṃ
gataṃ catusaccadhammaṃ. Rāgarattāti kāmarāgena bhavarāgena diṭṭhirāgena ca
rattā. Na dakkhantīti aniccaṃ dukkhamanattā asubhanti iminā sabhāvena na
passissanti, te apassante ko sakkhissati evaṃ gāhāpetuṃ. Tamokhandhena āvuṭāti
avijjārāsinā ajjhotthatā.
282. Appossukkatāyāti nirussukkabhāvena, adesetukāmatāyāti attho. Kasmā
panassa evaṃ cittaṃ nami, nanu esa mutto mocessāmi, tiṇṇo tāressāmi.
‘‘Kiṃ me aññātavesena, dhammaṃ sacchikatenidha;
Sabbaññutaṃ pāpuṇitvā, tārayissaṃ sadevaka’’nti. (bu. vaṃ. 2.56) –
Patthanaṃ katvā pāramiyo pūretvā sabbaññutaṃ pattoti. Saccametaṃ, tadevaṃ
paccavekkhaṇānubhāvena panassa evaṃ cittaṃ nami. Tassa hi sabbaññutaṃ patvā
sattānaṃ kilesagahanataṃ, dhammassa ca gambhīrataṃ paccavekkhantassa sattānaṃ
kilesagahanatā ca dhammagambhīratā ca sabbākārena pākaṭā jātā. Athassa ‘‘ime
sattā kañjikapuṇṇā lābu viya, takkabharitā cāṭi viya, vasātelapītapilotikā
viya, añjanamakkhitahattho viya ca kilesabharitā atisaṃkiliṭṭhā rāgarattā
dosaduṭṭhā mohamūḷhā, te kiṃ nāma paṭivijjhissantī’’ti cintayato
kilesagahanapaccavekkhaṇānubhāvenāpi evaṃ cittaṃ nami.
‘‘Ayañca dhammo pathavīsandhārakaudakakkhandho viya gambhīro, pabbatena
paṭicchādetvā ṭhapito sāsapo viya duddaso, satadhā bhinnassa vālassa koṭiyā koṭipaṭipādanaṃ
viya duranubodho. Nanu mayā hi imaṃ dhammaṃ paṭivijjhituṃ vāyamantena adinnaṃ
dānaṃ nāma natthi, arakkhitaṃ sīlaṃ nāma natthi, aparipūritā kāci pāramī nāma
natthi? Tassa me nirussāhaṃ viya mārabalaṃ vidhamantassāpi pathavī na
kampittha, paṭhamayāme pubbenivāsaṃ anussarantassāpi na kampittha, majjhimayāme
dibbacakkhuṃ sodhentassāpi na kampittha, pacchimayāme pana paṭiccasamuppādaṃ paṭivijjhantasseva
me dasasahassilokadhātu kampittha. Iti mādisenāpi tikkhañāṇena kicchenevāyaṃ
dhammo paṭividdho, taṃ lokiyamahājanā kathaṃ paṭivijjhissantī’’ti
dhammagambhīratāpaccavekkhaṇānubhāvenāpi evaṃ cittaṃ namīti veditabbaṃ.
Apica brahmunā yācite desetukāmatāyapissa evaṃ cittaṃ nami. Jānāti hi
bhagavā – ‘‘mama appossukkatāya citte namamāne maṃ mahābrahmā dhammadesanaṃ
yācissati, ime ca sattā brahmagarukā, te ‘satthā kira dhammaṃ na desetukāmo
ahosi, atha naṃ mahābrahmā yācitvā desāpesi, santo vata, bho, dhammo paṇīto vata,
bho, dhammo’ti maññamānā sussūsissantī’’ti. Idampissa kāraṇaṃ paṭicca
appossukkatāya cittaṃ nami, no dhammadesanāyāti veditabbaṃ.
Sahampatissāti so kira kassapassa bhagavato sāsane sahako nāma thero paṭhamajjhānaṃ
nibbattetvā paṭhamajjhānabhūmiyaṃ kappāyukabrahmā hutvā nibbatto. Tatra naṃ
sahampatibrahmāti paṭisañjānanti, taṃ sandhāyāha – ‘‘brahmuno sahampatissā’’ti.
Nassati vata, bhoti so kira imaṃ saddaṃ tathā nicchāresi, yathā
dasasahassilokadhātubrahmāno sutvā sabbe sannipatiṃsu. Yatra hi nāmāti yasmiṃ
nāma loke. Purato pāturahosīti tehi dasahi brahmasahassehi saddhiṃ pāturahosi.
Apparajakkhajātikāti paññāmaye akkhimhi appaṃ parittaṃ rāgadosamoharajaṃ etesaṃ,
evaṃsabhāvāti apparajakkhajātikā. Assavanatāti assavanatāya. Bhavissantīti
purimabuddhesu dasapuññakiriyavasena katādhikārā paripākagatapadumāni viya
sūriyarasmisamphassaṃ, dhammadesanaṃyeva ākaṅkhamānā catuppadikagāthāvasāne
ariyabhūmiṃ okkamanārahā na eko, na dve, anekasatasahassā dhammassa aññātāro
bhavissantīti dasseti.
Pāturahosīti pātubhavi. Samalehi cintitoti samalehi chahi satthārehi
cintito. Te hi puretaraṃ uppajjitvā sakalajambudīpe kaṇṭake pattharamānā viya,
visaṃ siñcamānā viya ca samalaṃ micchādiṭṭhidhammaṃ desayiṃsu. Apāpuretanti
vivara etaṃ. Amatassa dvāranti amatassa nibbānassa dvārabhūtaṃ ariyamaggaṃ. Suṇantu
dhammaṃ vimalenānubuddhanti ime sattā rāgādimalānaṃ abhāvato vimalena
sammāsambuddhena anubuddhaṃ catusaccadhammaṃ suṇantu tāva bhagavāti yācati.
Sele yathā pabbatamuddhaniṭṭhitoti selamaye ekagghane pabbatamuddhani
yathā ṭhitova. Na hi tassa ṭhitassa dassanatthaṃ gīvukkhipanapasāraṇādikiccaṃ
atthi. Tathūpamanti tappaṭibhāgaṃ selapabbatūpamaṃ. Ayaṃ panettha saṅkhepattho
– yathā selapabbatamuddhani ṭhitova cakkhumā puriso samantato janataṃ passeyya,
tathā tvampi, sumedha, sundarapañña-sabbaññutaññāṇena samantacakkhu bhagavā
dhammamayaṃ pāsādamāruyha sayaṃ apetasoko sokāvatiṇṇaṃ jātijarābhibhūtaṃ janataṃ
avekkhassu upadhāraya upaparikkha. Ayaṃ panettha adhippāyo – yathā hi
pabbatapāde samantā mahantaṃ khettaṃ katvā tattha kedārapāḷīsu kuṭikāyo katvā
rattiṃ aggiṃ jāleyyuṃ. Caturaṅgasamannāgatañca andhakāraṃ assa, atha tassa
pabbatassa matthake ṭhatvā cakkhumato purisassa bhūmiṃ olokayato neva khettaṃ,
na kedārapāḷiyo, na kuṭiyo, na tattha sayitamanussā paññāyeyyuṃ. Kuṭikāsu pana
aggijālāmattakameva paññāyeyya. Evaṃ dhammapāsādaṃ āruyha sattanikāyaṃ
olokayato tathāgatassa, ye te akatakalyāṇā sattā, te ekavihāre dakkhiṇajāṇupasse
nisinnāpi buddhacakkhussa āpāthaṃ nāgacchanti, rattiṃ khittā sarā viya honti.
Ye pana katakalyāṇā veneyyapuggalā, te evassa dūrepi ṭhitā āpāthaṃ āgacchanti,
so aggi viya himavantapabbato viya ca. Vuttampi cetaṃ –
‘‘Dūre santo pakāsenti, himavantova pabbato;
Asantettha na dissanti, rattiṃ khittā yathā sarā’’ti. (dha. pa. 304);
Uṭṭhehīti bhagavato dhammadesanatthaṃ cārikacaraṇaṃ yācanto bhaṇati.
Vīrātiādīsu bhagavā vīriyavantatāya vīro. Devaputtamaccukilesamārānaṃ vijitattā
vijitasaṅgāmo. Jātikantārādinittharaṇatthāya veneyyasatthavāhanasamatthatāya
satthavāho. Kāmacchandaiṇassa abhāvato aṇaṇoti veditabbo.
283. Ajjhesananti yācanaṃ. Buddhacakkhunāti indriyaparopariyattañāṇena
ca āsayānusayañāṇena ca. Imesañhi dvinnaṃ ñāṇānaṃ buddhacakkhūti nāmaṃ,
sabbaññutaññāṇassa samantacakkhūti, tiṇṇaṃ maggañāṇānaṃ dhammacakkhūti.
Apparajakkhetiādīsu yesaṃ vuttanayeneva paññācakkhumhi rāgādirajaṃ appaṃ, te
apparajakkhā. Yesaṃ taṃ mahantaṃ, te mahārajakkhā. Yesaṃ saddhādīni indriyāni
tikkhāni, te tikkhindriyā. Yesaṃ tāni mudūni, te mudindriyā. Yesaṃ teyeva
saddhādayo ākārā sundarā, te svākārā. Ye kathitakāraṇaṃ sallakkhenti, sukhena
sakkā honti viññāpetuṃ, te suviññāpayā. Ye paralokañceva vajjañca bhayato
passanti, te paralokavajjabhayadassāvino nāma.
Ayaṃ panettha pāḷi – ‘‘saddho puggalo apparajakkho, assaddho puggalo
mahārajakkho. Āraddhavīriyo…, kusito…, upaṭṭhitassati…, muṭṭhassati…,
samāhito…, asamāhito…, paññavā…, duppañño puggalo mahārajakkho. Tathā saddho
puggalo tikkhindriyo…pe… paññavā puggalo paralokavajjabhayadassāvī, duppañño
puggalo na paralokavajjabhayadassāvī. Lokoti khandhaloko, āyatanaloko,
dhātuloko, sampattibhavaloko, sampattisambhavaloko, vipattibhavaloko,
vipattisambhavaloko, eko loko sabbe sattā āhāraṭṭhitikā. Dve lokā – nāmañca
rūpañca. Tayo lokā – tisso vedanā. Cattāro lokā – cattāro āhārā. Pañca lokā –
pañcupādānakkhandhā. Cha lokā – cha ajjhattikāni āyatanāni. Satta lokā – satta
viññāṇaṭṭhitiyo. Aṭṭha lokā – aṭṭha lokadhammā. Nava lokā – nava sattāvāsā.
Dasa lokā – dasāyatanāni. Dvādasa lokā – dvādasāyatanāni. Aṭṭhārasa lokā – aṭṭhārassa
dhātuyo. Vajjanti sabbe kilesā vajjā, sabbe duccaritā vajjā, sabbe abhisaṅkhārā
vajjā, sabbe bhavagāmikammā vajjā. Iti imasmiñca loke imasmiñca vajje tibbā
bhayasaññā paccupaṭṭhitā hoti, seyyathāpi ukkhittāsike vadhake. Imehi paññāsāya
ākārehi imāni pañcindriyāni jānāti passati aññāsi paṭivijjhi. Idaṃ tathāgatassa
indriyaparopariyatte ñāṇa’’nti (paṭi. ma. 1.112).
Uppaliniyanti uppalavane. Itaresupi eseva nayo. Antonimuggaposīnīti yāni
anto nimuggāneva posiyanti. Udakaṃ accuggamma ṭhitānīti udakaṃ atikkamitvā ṭhitāni.
Tattha yāni accuggamma ṭhitāni, tāni sūriyarasmisamphassaṃ āgamayamānāni ṭhitāni
ajja pupphanakāni. Yāni samodakaṃ ṭhitāni, tāni sve pupphanakāni. Yāni
udakānuggatāni antonimuggaposīni, tāni tatiyadivase pupphanakāni. Udakā pana
anuggatāni aññānipi sarogauppalādīni nāma atthi, yāni neva pupphissanti,
macchakacchapabhakkhāneva bhavissanti. Tāni pāḷiṃ nāruḷhāni. Āharitvā pana
dīpetabbānīti dīpitāni.
Yatheva hi tāni catubbidhāni pupphāni, evameva ugghaṭitaññū vipañcitaññū
neyyo padaparamoti cattāro puggalā. Tattha ‘‘yassa puggalassa saha udāhaṭavelāya
dhammābhisamayo hoti, ayaṃ vuccati puggalo ugghaṭitaññū. Yassa puggalassa saṃkhittena
bhāsitassa vitthārena atthe vibhajiyamāne dhammābhisamayo hoti, ayaṃ vuccati
puggalo vipañcitaññū. Yassa puggalassa uddesato paripucchato yoniso
manasikaroto kalyāṇamitte sevato bhajato payirupāsato anupubbena
dhammābhisamayo hoti, ayaṃ vuccati puggalo neyyo. Yassa puggalassa bahumpi suṇato
bahumpi bhaṇato bahumpi dhārayato bahumpi vācayato na tāya jātiyā
dhammābhisamayo hoti, ayaṃ vuccati puggalo padaparamo’’ (pu. pa. 151). Tattha
bhagavā uppalavanādisadisaṃ dasasahassilokadhātuṃ olokento ‘‘ajja pupphanakāni
viya ugghaṭitaññū, sve pupphanakāni viya vipañcitaññū, tatiyadivase
pupphanakāni viya neyyo, macchakacchapabhakkhāni pupphāni viya padaparamo’’ti
addasa. Passanto ca ‘‘ettakā apparajakkhā, ettakā mahārajakkhā, tatrāpi ettakā
ugghaṭitaññū’’ti evaṃ sabbākāratova addasa.
Tattha tiṇṇaṃ puggalānaṃ imasmiṃyeva attabhāve bhagavato dhammadesanā
atthaṃ sādheti. Padaparamānaṃ anāgate vāsanatthāya hoti. Atha bhagavā imesaṃ
catunnaṃ puggalānaṃ atthāvahaṃ dhammadesanaṃ viditvā desetukamyataṃ uppādetvā
puna sabbepi tīsu bhavesu satte bhabbābhabbavasena dve koṭṭhāse akāsi. Ye
sandhāya vuttaṃ – ‘‘katame te sattā abhabbā, ye te sattā kammāvaraṇena
samannāgatā kilesāvaraṇena samannāgatā vipākāvaraṇena samannāgatā assaddhā
acchandikā duppaññā abhabbā niyāmaṃ okkamituṃ kusalesu dhammesu sammattaṃ, ime
te sattā abhabbā. Katame te sattā bhabbā? Ye te sattā na kammāvaraṇena…pe… ime
te sattā bhabbā’’ti (vibha. 827; paṭi. ma. 1.115). Tattha sabbepi
abhabbapuggale pahāya bhabbapuggaleyeva ñāṇena pariggahetvā ‘‘ettakā
rāgacaritā, ettakā dosamohacaritā vitakkasaddhābuddhicaritā’’ti cha koṭṭhāse
akāsi; evaṃ katvā dhammaṃ desissāmīti cintesi.
Paccabhāsinti patiabhāsiṃ. Apārutāti vivaṭā. Amatassa dvārāti
ariyamaggo. So hi amatasaṅkhātassa nibbānassa dvāraṃ, so mayā vivaritvā ṭhapitoti
dasseti. Pamuñcantu saddhanti sabbe attano saddhaṃ pamuñcantu, vissajjentu.
Pacchimapadadvaye ayamattho, ahañhi attano paguṇaṃ suppavattitampi imaṃ paṇītaṃ
uttamaṃ dhammaṃ kāyavācākilamathasaññī hutvā na bhāsiṃ. Idāni pana sabbo jano
saddhābhājanaṃ upanetu, pūressāmi nesaṃ saṅkappanti.
284. Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosīti etaṃ ahosi – kassa nu kho ahaṃ
paṭhamaṃ dhammaṃ deseyyanti ayaṃ dhammadesanāpaṭisaṃyutto vitakko udapādīti
attho. Kadā panesa udapādīti? Buddhabhūtassa aṭṭhame sattāhe.
Tatrāyaṃ anupubbikathā – bodhisatto kira mahābhinikkhamanadivase vivaṭaṃ
itthāgāraṃ disvā saṃviggahadayo, ‘‘kaṇḍakaṃ āharā’’ti channaṃ āmantetvā
channasahāyo assarājapiṭṭhigato nagarato nikkhamitvā kaṇḍakanivattanacetiyaṭṭhānaṃ
nāma dassetvā tīṇi rajjāni atikkamma anomānadītīre pabbajitvā anupubbena cārikaṃ
caramāno rājagahe piṇḍāya caritvā paṇḍavapabbate nisinno magadhissarena raññā
nāmagottaṃ pucchitvā, ‘‘imaṃ rajjaṃ sampaṭicchāhī’’ti vutto, ‘‘alaṃ mahārāja,
na mayhaṃ rajjena attho, ahaṃ rajjaṃ pahāya lokahitatthāya padhānaṃ anuyuñjitvā
loke vivaṭacchado bhavissāmīti nikkhanto’’ti vatvā, ‘‘tena hi buddho hutvā paṭhamaṃ
mayhaṃ vijitaṃ osareyyāsī’’ti paṭiññaṃ gahito kālāmañca udakañca upasaṅkamitvā
tesaṃ dhammadesanāya sāraṃ avindanto tato pakkamitvā uruveḷāya chabbassāni
dukkarakārikaṃ karontopi amataṃ paṭivijjhituṃ asakkonto oḷārikāhārapaṭisevanena
kāyaṃ santappesi.
Tadā ca uruvelagāme sujātā nāma kuṭumbiyadhītā ekasmiṃ nigrodharukkhe
patthanamakāsi – ‘‘sacāhaṃ samānajātikaṃ kulagharaṃ gantvā paṭhamagabbhe puttaṃ
labhissāmi, balikammaṃ karissāmī’’ti. Tassā sā patthanā samijjhi. Sā visākhapuṇṇamadivase
pātova balikammaṃ karissāmīti rattiyā paccūsasamaye eva pāyasaṃ paṭiyādesi.
Tasmiṃ pāyase paccamāne mahantamahantā pupphuḷā uṭṭhahitvā dakkhiṇāvaṭṭā hutvā
sañcaranti. Ekaphusitampi bahi na gacchati. Mahābrahmā chattaṃ dhāresi. Cattāro
lokapālā khaggahatthā ārakkhaṃ gaṇhiṃsu. Sakko alātāni samānento aggiṃ jālesi.
Devatā catūsu dīpesu ojaṃ saṃharitvā tattha pakkhipiṃsu. Bodhisatto
bhikkhācārakālaṃ āgamayamāno pātova gantvā rukkhamūle nisīdi. Rukkhamūle
sodhanatthāya gatā dhātī āgantvā sujātāya ārocesi – ‘‘devatā rukkhamūle
nisinnā’’ti. Sujātā, sabbaṃ pasādhanaṃ pasādhetvā satasahassagghanike suvaṇṇathāle
pāyasaṃ vaḍḍhetvā aparāya suvaṇṇapātiyā pidahitvā ukkhipitvā gatā mahāpurisaṃ
disvā saheva pātiyā hatthe ṭhapetvā vanditvā ‘‘yathā mayhaṃ manoratho
nipphanno, evaṃ tumhākampi nipphajjatū’’ti vatvā pakkāmi.
Bodhisatto nerañjarāya tīraṃ gantvā suvaṇṇathālaṃ tīre ṭhapetvā nhatvā
paccuttaritvā ekūnapaṇṇāsapiṇḍe karonto pāyasaṃ paribhuñjitvā ‘‘sacāhaṃ ajja
buddho bhavāmi, thālaṃ paṭisotaṃ gacchatū’’ti khipi. Thālaṃ paṭisotaṃ gantvā
thokaṃ ṭhatvā kālanāgarājassa bhavanaṃ pavisitvā tiṇṇaṃ buddhānaṃ thālāni
ukkhipitvā aṭṭhāsi.
Mahāsatto vanasaṇḍe divāvihāraṃ katvā sāyanhasamaye sottiyena dinnā aṭṭha
tiṇamuṭṭhiyo gahetvā bodhimaṇḍaṃ āruyha dakkhiṇadisābhāge aṭṭhāsi. So padeso
paduminipatte udakabindu viya akampittha. Mahāsatto, ‘‘ayaṃ mama guṇaṃ dhāretuṃ
na sakkotī’’ti pacchimadisābhāgaṃ agamāsi, sopi tatheva akampittha.
Uttaradisābhāgaṃ agamāsi, sopi tatheva akampittha. Puratthimadisābhāgaṃ
agamāsi, tattha pallaṅkappamāṇaṃ ṭhānaṃ sunikhātaindakhilo viya niccalamahosi.
Mahāsatto ‘‘idaṃ ṭhānaṃ sabbabuddhānaṃ kilesabhañjanaviddhaṃsanaṭṭhāna’’nti
tāni tiṇāni agge gahetvā cālesi. Tāni cittakārena tūlikaggena paricchinnāni
viya ahesuṃ. Bodhisatto, ‘‘bodhiṃ appatvā imaṃ pallaṅkaṃ na bhindissāmī’’ti
caturaṅgavīriyaṃ adhiṭṭhahitvā pallaṅkaṃ ābhujitvā nisīdi.
Taṅkhaṇaññeva māro bāhusahassaṃ māpetvā diyaḍḍhayojanasatikaṃ
girimekhalaṃ nāma hatthiṃ āruyha navayojanaṃ mārabalaṃ gahetvā addhakkhikena
olokayamāno pabbato viya ajjhottharanto upasaṅkami. Mahāsatto, ‘‘mayhaṃ dasa
pāramiyo pūrentassa añño samaṇo vā brāhmaṇo vā devo vā māro vā brahmā vā sakkhi
natthi, vessantarattabhāve pana mayhaṃ sattasu vāresu mahāpathavī sakkhi ahosi;
idānipi me ayameva acetanā kaṭṭhakaliṅgarūpamā mahāpathavī sakkhī’’ti hatthaṃ
pasāreti. Mahāpathavī tāvadeva ayadaṇḍena pahataṃ kaṃsathālaṃ viya ravasataṃ
ravasahassaṃ muñcamānā viravitvā parivattamānā mārabalaṃ cakkavāḷamukhavaṭṭiyaṃ
muñcanamakāsi. Mahāsatto sūriye dharamāneyeva mārabalaṃ vidhamitvā paṭhamayāme
pubbenivāsañāṇaṃ, majjhimayāme dibbacakkhuṃ visodhetvā pacchimayāme paṭiccasamuppāde
ñāṇaṃ otāretvā vaṭṭavivaṭṭaṃ sammasitvā aruṇodaye buddho hutvā, ‘‘mayā
anekakappakoṭisatasahassaṃ addhānaṃ imassa pallaṅkassa atthāya vāyāmo kato’’ti
sattāhaṃ ekapallaṅkena nisīdi. Athekaccānaṃ devatānaṃ, ‘‘kiṃ nu kho aññepi
buddhattakarā dhammā atthī’’ti kaṅkhā udapādi.
Atha bhagavā aṭṭhame divase samāpattito vuṭṭhāya devatānaṃ kaṅkhaṃ ñatvā
kaṅkhāvidhamanatthaṃ ākāse uppatitvā yamakapāṭihāriyaṃ dassetvā tāsaṃ kaṅkhaṃ
vidhamitvā pallaṅkato īsakaṃ pācīnanissite uttaradisābhāge ṭhatvā cattāri asaṅkhyeyyāni
kappasatasahassañca pūritānaṃ pāramīnaṃ phalādhigamaṭṭhānaṃ pallaṅkañceva
bodhirukkhañca animisehi akkhīhi olokayamāno sattāhaṃ vītināmesi, taṃ ṭhānaṃ
animisacetiyaṃ nāma jātaṃ.
Atha pallaṅkassa ca ṭhitaṭṭhānassa ca antarā puratthimapacchimato āyate
ratanacaṅkame caṅkamanto sattāhaṃ vītināmesi, taṃ ṭhānaṃ ratanacaṅkamacetiyaṃ
nāma jātaṃ. Tato pacchimadisābhāge devatā ratanagharaṃ māpayiṃsu, tattha pallaṅkena
nisīditvā abhidhammapiṭakaṃ visesato cettha anantanayasamantapaṭṭhānaṃ
vicinanto sattāhaṃ vītināmesi, taṃ ṭhānaṃ ratanagharacetiyaṃ nāma jātaṃ. Evaṃ
bodhisamīpeyeva cattāri sattāhāni vītināmetvā pañcame sattāhe bodhirukkhamūlā
yena ajapālanigrodho tenupasaṅkami, tatrāpi dhammaṃ vicinantoyeva
vimuttisukhañca paṭisaṃvedento nisīdi, dhammaṃ vicinanto cettha evaṃ abhidhamme
nayamaggaṃ sammasi – paṭhamaṃ dhammasaṅgaṇīpakaraṇaṃ nāma, tato vibhaṅgapakaraṇaṃ,
dhātukathāpakaraṇaṃ, puggalapaññattipakaraṇaṃ, kathāvatthu nāma pakaraṇaṃ,
yamakaṃ nāma pakaraṇaṃ, tato mahāpakaraṇaṃ paṭṭhānaṃ nāmāti.
Tatthassa saṇhasukhumapaṭṭhānamhi citte otiṇṇe pīti uppajji; pītiyā
uppannāya lohitaṃ pasīdi, lohite pasanne chavi pasīdi. Chaviyā pasannāya
puratthimakāyato kūṭāgārādippamāṇā rasmiyo uṭṭhahitvā ākāse
pakkhandachaddantanāgakulaṃ viya pācīnadisāya anantāni cakkavāḷāni pakkhandā,
pacchimakāyato uṭṭhahitvā pacchimadisāya, dakkhiṇaṃsakūṭato uṭṭhahitvā dakkhiṇadisāya,
vāmaṃsakūṭato uṭṭhahitvā uttaradisāya anantāni cakkavāḷāni pakkhandā,
pādatalehi pavāḷaṅkuravaṇṇā rasmiyo nikkhamitvā mahāpathaviṃ vinivijjhitvā
udakaṃ dvidhā bhinditvā vātakkhandhaṃ padāletvā ajaṭākāsaṃ pakkhandā, sīsato
samparivattiyamānaṃ maṇidāmaṃ viya nīlavaṇṇā rasmivaṭṭi uṭṭhahitvā cha devaloke
vinivijjhitvā nava brahmaloke vehapphale pañca suddhāvāse ca vinivijjhitvā cattāro
āruppe atikkamma ajaṭākāsaṃ pakkhandā. Tasmiṃ divase aparimāṇesu cakkavāḷesu
aparimāṇā sattā sabbe suvaṇṇavaṇṇāva ahesuṃ. Taṃ divasañca pana bhagavato
sarīrā nikkhantā yāvajjadivasāpi tā rasmiyo anantā lokadhātuyo gacchantiyeva.
Evaṃ bhagavā ajapālanigrodhe sattāhaṃ vītināmetvā tato aparaṃ sattāhaṃ
mucalinde nisīdi, nisinnamattasseva cassa sakalaṃ cakkavāḷagabbhaṃ pūrento
mahāakālamegho udapādi. Evarūpo kira mahāmegho dvīsuyeva kālesu vassati
cakkavattimhi vā uppanne buddhe vā. Idha buddhakāle udapādi. Tasmiṃ pana
uppanne mucalindo nāgarājā cintesi – ‘‘ayaṃ megho satthari mayhaṃ bhavanaṃ paviṭṭhamatteva
uppanno, vāsāgāramassa laddhuṃ vaṭṭatī’’ti. So sattaratanamayaṃ pāsādaṃ
nimminituṃ sakkontopi evaṃ kate mayhaṃ mahapphalaṃ na bhavissati, dasabalassa kāyaveyyāvaccaṃ
karissāmīti mahantaṃ attabhāvaṃ katvā satthāraṃ sattakkhattuṃ bhogehi
parikkhipitvā upari phaṇaṃ dhāresi. Parikkhepassa anto okāso heṭṭhā
lohapāsādappamāṇo ahosi. Icchiticchitena iriyāpathena satthā viharissatīti
nāgarājassa ajjhāsayo ahosi. Tasmā evaṃ mahantaṃ okāsaṃ parikkhipi. Majjhe
ratanapallaṅko paññatto hoti, upari suvaṇṇatārakavicittaṃ
samosaritagandhadāmakusumadāmacelavitānaṃ ahosi. Catūsu koṇesu gandhatelena
dīpā jalitā, catūsu disāsu vivaritvā candanakaraṇḍakā ṭhapitā. Evaṃ bhagavā taṃ
sattāhaṃ tattha vītināmetvā tato aparaṃ sattāhaṃ rājāyatane nisīdi.
Aṭṭhame sattāhe sakkena devānamindena ābhataṃ dantakaṭṭhañca
osadhaharītakañca khāditvā mukhaṃ dhovitvā catūhi lokapālehi upanīte paccagghe
selamaye patte tapussabhallikānaṃ piṇḍapātaṃ paribhuñjitvā puna paccāgantvā
ajapālanigrodhe nisinnassa sabbabuddhānaṃ āciṇṇo ayaṃ vitakko udapādi.
Tattha paṇḍitoti paṇḍiccena samannāgato. Viyattoti veyyattiyena
samannāgato. Medhāvīti ṭhānuppattiyā paññāya samannāgato. Apparajakkhajātikoti
samāpattiyā vikkhambhitattā nikkilesajātiko visuddhasatto. Ājānissatīti
sallakkhessati paṭivijjhissati. Ñāṇañca pana meti mayhampi sabbaññutaññāṇaṃ
uppajji. Bhagavā kira devatāya kathiteneva niṭṭhaṃ agantvā sayampi
sabbaññutaññāṇena olokento ito sattamadivasamatthake kālaṃ katvā
ākiñcaññāyatane nibbattoti addasa. Taṃ sandhāyāha – ‘‘ñāṇañca pana me dassanaṃ
udapādī’’ti. Mahājāniyoti sattadivasabbhantare pattabbamaggaphalato parihīnattā
mahatī jāni assāti mahājāniyo. Akkhaṇe nibbattattā gantvā desiyamānaṃ
dhammampissa sotuṃ sotappasādo natthi, idha dhammadesanaṭṭhānaṃ āgamanapādāpi
natthi, evaṃ mahājāniyo jātoti dasseti. Abhidosakālaṅkatoti aḍḍharatte kālaṅkato.
Ñāṇañca pana meti mayhampi sabbaññutaññāṇaṃ udapādi. Idhāpi kira bhagavā
devatāya vacanena sanniṭṭhānaṃ akatvā sabbaññutaññāṇena olokento ‘‘hiyyo aḍḍharatte
kālaṅkatvā udako rāmaputto nevasaññānāsaññāyatane nibbatto’’ti addasa. Tasmā
evamāha. Sesaṃ purimanayasadisameva. Bahukārāti bahūpakārā. Padhānapahitattaṃ
upaṭṭhahiṃsūti padhānatthāya pesitattabhāvaṃ vasanaṭṭhāne pariveṇasammajjanena
pattacīvaraṃ gahetvā anubandhanena mukhodakadantakaṭṭhadānādinā ca upaṭṭhahiṃsu.
Ke pana te pañcavaggiyā nāma? Yete –
Rāmo dhajo lakkhaṇo jotimanti,
Yañño subhojo suyāmo sudatto;
Ete tadā aṭṭha ahesuṃ brāhmaṇā,
Chaḷaṅgavā mantaṃ viyākariṃsūti.
Bodhisattassa jātakāle supinapaṭiggāhakā ceva lakkhaṇapaṭiggāhakā ca aṭṭha
brāhmaṇā. Tesu tayo dvedhā byākariṃsu – ‘‘imehi lakkhaṇehi samannāgato agāraṃ
ajjhāvasamāno rājā hoti cakkavattī, pabbajamāno buddho’’ti. Pañca brāhmaṇā ekaṃsabyākaraṇā
ahesuṃ – ‘‘imehi lakkhaṇehi samannāgato agāre na tiṭṭhati, buddhova hotī’’ti.
Tesu purimā tayo yathāmantapadaṃ gatā, ime pana pañca mantapadaṃ atikkantā. Te
attanā laddhaṃ puṇṇapattaṃ ñātakānaṃ vissajjetvā ‘‘ayaṃ mahāpuriso agāraṃ na
ajjhāvasissati, ekantena buddho bhavissatī’’ti nibbitakkā bodhisattaṃ uddissa
samaṇapabbajjaṃ pabbajitā. Tesaṃ puttātipi vadanti. Taṃ aṭṭhakathāya paṭikkhittaṃ.
Ete kira daharakāleyeva bahū mante jāniṃsu, tasmā te brāhmaṇā ācariyaṭṭhāne
ṭhapayiṃsu. Te pacchā amhehi puttadārajaṭaṃ chaḍḍetvā na sakkā bhavissati
pabbajitunti daharakāleyeva pabbajitvā ramaṇīyāni senāsanāni paribhuñjantā
vicariṃsu. Kālena kālaṃ pana ‘‘kiṃ, bho, mahāpuriso mahābhinikkhamanaṃ
nikkhanto’’ti pucchanti. Manussā, ‘‘kuhiṃ tumhe mahāpurisaṃ passissatha, tīsu
pāsādesu tividhanāṭakamajjhe devo viya sampattiṃ anubhotī’’ti vadanti. Te
sutvā, ‘‘na tāva mahāpurisassa ñāṇaṃ paripākaṃ gacchatī’’ti appossukkā vihariṃsuyeva.
Kasmā panettha bhagavā, ‘‘bahukārā kho ime pañcavaggiyā’’ti āha? Kiṃ
upakārakānaṃyeva esa dhammaṃ deseti, anupakārakānaṃ na desetīti? No na deseti.
Paricayavasena hesa āḷārañceva kālāmaṃ udakañca rāmaputtaṃ olokesi. Etasmiṃ
pana buddhakkhette ṭhapetvā aññāsikoṇḍaññaṃ paṭhamaṃ dhammaṃ sacchikātuṃ
samattho nāma natthi. Kasmā? Tathāvidhaupanissayattā.
Pubbe kira puññakaraṇakāle dve bhātaro ahesuṃ. Te ekatova sassaṃ akaṃsu.
Tattha jeṭṭhakassa ‘‘ekasmiṃ sasse navavāre aggasassadānaṃ mayā dātabba’’nti
ahosi. So vappakāle bījaggaṃ nāma datvā gabbhakāle kaniṭṭhena saddhiṃ mantesi –
‘‘gabbhakāle gabbhaṃ phāletvā dassāmā’’ti. Kaniṭṭho ‘‘taruṇasassaṃ
nāsetukāmosī’’ti āha. Jeṭṭho kaniṭṭhassa ananuvattanabhāvaṃ ñatvā khettaṃ
vibhajitvā attano koṭṭhāsato gabbhaṃ phāletvā khīraṃ nīharitvā sappiphāṇitehi
yojetvā adāsi, puthukakāle puthukaṃ kāretvā adāsi, lāyane lāyanaggaṃ veṇikaraṇe
veṇaggaṃ kalāpādīsu kalāpaggaṃ khaḷaggaṃ bhaṇḍaggaṃ koṭṭhagganti evaṃ ekasasse
navavāre aggadānaṃ adāsi. Kaniṭṭho panassa uddharitvā adāsi, tesu jeṭṭho
aññāsikoṇḍaññatthero jāto, kaniṭṭho subhaddaparibbājako. Iti ekasmiṃ sasse navannaṃ
aggadānānaṃ dinnattā ṭhapetvā theraṃ añño paṭhamaṃ dhammaṃ sacchikātuṃ samattho
nāma natthi. ‘‘Bahukārā kho ime pañcavaggiyā’’ti idaṃ pana upakārānussaraṇamattakeneva
vuttaṃ.
Isipatane migadāyeti tasmiṃ kira padese anuppanne buddhe
paccekasambuddhā gandhamādanapabbate sattāhaṃ nirodhasamāpattiyā vītināmetvā
nirodhā vuṭṭhāya nāgalatādantakaṭṭhaṃ khāditvā anotattadahe mukhaṃ dhovitvā
pattacīvaramādāya ākāsena āgantvā nipatanti. Tattha cīvaraṃ pārupitvā nagare piṇḍāya
caritvā katabhattakiccā gamanakālepi tatoyeva uppatitvā gacchanti. Iti isayo
ettha nipatanti uppatanti cāti taṃ ṭhānaṃ isipatananti saṅkhaṃ gataṃ. Migānaṃ
pana abhayatthāya dinnattā migadāyoti vuccati. Tena vuttaṃ ‘‘isipatane
migadāye’’ti.
285. Antarā ca gayaṃ antarā ca bodhinti gayāya ca bodhissa ca vivare
tigāvutantare ṭhāne. Bodhimaṇḍato hi gayā tīṇi gāvutāni. Bārāṇasī aṭṭhārasa
yojanāni. Upako bodhimaṇḍassa ca gayāya ca antare bhagavantaṃ addasa.
Antarāsaddena pana yuttattā upayogavacanaṃ kataṃ. Īdisesu ca ṭhānesu
akkharacintakā ‘‘antarā gāmañca nadiñca yātī’’ti evaṃ ekameva antarāsaddaṃ
payujjanti. So dutiyapadenapi yojetabbo hoti. Ayojiyamāne upayogavacanaṃ na
pāpuṇāti. Idha pana yojetvā eva vuttoti. Addhānamaggapaṭipannanti addhānasaṅkhātaṃ
maggaṃ paṭipannaṃ, dīghamaggapaṭipannanti attho. Addhānamaggagamanasamayassa hi
vibhaṅge ‘‘addhayojanaṃ gacchissāmīti bhuñjitabba’’ntiādivacanato (pāci. 218)
addhayojanampi addhānamaggo hoti. Bodhimaṇḍato pana gayā tigāvutaṃ.
Sabbābhibhūti sabbaṃ tebhūmakadhammaṃ abhibhavitvā ṭhito. Sabbavidūti
sabbaṃ catubhūmakadhammaṃ avediṃ aññāsiṃ. Sabbesu dhammesu anupalittoti sabbesu
tebhūmakadhammesu kilesalepanena anupalitto. Sabbaṃ jahoti sabbaṃ
tebhūmakadhammaṃ jahitvā ṭhito. Taṇhākkhaye vimuttoti taṇhākkhaye nibbāne
ārammaṇato vimutto. Sayaṃ abhiññāyāti sabbaṃ catubhūmakadhammaṃ attanāva
jānitvā. Kamuddiseyyanti kaṃ aññaṃ ‘‘ayaṃ me ācariyo’’ti uddiseyyaṃ.
Na me ācariyo atthīti lokuttaradhamme mayhaṃ ācariyo nāma natthi. Natthi
me paṭipuggaloti mayhaṃ paṭibhāgapuggalo nāma natthi. Sammāsambuddhoti sahetunā
nayena cattāri saccāni sayaṃ buddho. Sītibhūtoti sabbakilesagginibbāpanena
sītibhūto. Kilesānaṃyeva nibbutattā nibbuto. Kāsinaṃ puranti kāsiraṭṭhe nagaraṃ.
Āhañchaṃ amatadundubhinti dhammacakkapaṭilābhāya amatabheriṃ paharissāmīti
gacchāmi. Arahasi anantajinoti anantajinoti bhavituṃ yutto. Hupeyya pāvusoti,
āvuso, evampi nāma bhaveyya. Pakkāmīti vaṅkahārajanapadaṃ nāma agamāsi.
Tatthekaṃ migaluddakagāmakaṃ nissāya vāsaṃ kappesi. Jeṭṭhakaluddako taṃ
upaṭṭhāsi. Tasmiñca janapade caṇḍā makkhikā honti. Atha naṃ ekāya cāṭiyā
vasāpesuṃ, migaluddako dūre migavaṃ gacchanto ‘‘amhākaṃ arahante mā pamajjī’’ti
chāvaṃ nāma dhītaraṃ āṇāpetvā agamāsi saddhiṃ puttabhātukehi. Sā cassa dhītā
dassanīyā hoti koṭṭhāsasampannā. Dutiyadivase upako gharaṃ āgato taṃ dārikaṃ
sabbaṃ upacāraṃ katvā parivisituṃ upagataṃ disvā rāgena abhibhūto bhuñjitumpi
asakkonto bhājanena bhattaṃ ādāya vasanaṭṭhānaṃ gantvā bhattaṃ ekamante
nikkhipitvā sace chāvaṃ labhāmi, jīvāmi, no ce, marāmīti nirāhāro sayi. Sattame
divase māgaviko āgantvā dhītaraṃ upakassa pavattiṃ pucchi. Sā ‘‘ekadivasameva
āgantvā puna nāgatapubbo’’ti āha. Māgaviko āgataveseneva naṃ upasaṅkamitvā
pucchissāmīti taṃkhaṇaṃyeva gantvā ‘‘kiṃ, bhante, apphāsuka’’nti pāde
parāmasanto pucchi. Upako nitthunanto parivattatiyeva. So ‘‘vadatha bhante, yaṃ
mayā sakkā kātuṃ, taṃ sabbaṃ karissāmī’’ti āha. Upako, ‘‘sace chāvaṃ labhāmi,
jīvāmi, no ce, idheva maraṇaṃ seyyo’’ti āha. Jānāsi pana, bhante, kiñci
sippanti. Na jānāmīti. Na, bhante, kiñci sippaṃ ajānantena sakkā gharāvāsaṃ
adhiṭṭhātunti.
So āha – ‘‘nāhaṃ kiñci sippaṃ jānāmi, apica tumhākaṃ maṃsahārako
bhavissāmi, maṃsañca vikkīṇissāmī’’ti. Māgaviko, ‘‘amhākampi etadeva
ruccatī’’ti uttarasāṭakaṃ datvā gharaṃ ānetvā dhītaraṃ adāsi. Tesaṃ saṃvāsamanvāya
putto vijāyi. Subhaddotissa nāmaṃ akaṃsu. Chāvā tassa rodanakāle ‘‘maṃsahārakassa
putta, migaluddakassa putta mā rodī’’tiādīni vadamānā puttatosanagītena upakaṃ
uppaṇḍesi. Bhadde tvaṃ maṃ anāthoti maññasi. Atthi me anantajino nāma sahāyo.
Tassāhaṃ santike gamissāmīti āha. Chāvā evamayaṃ aṭṭīyatīti ñatvā punappunaṃ
katheti. So ekadivasaṃ anārocetvāva majjhimadesābhimukho pakkāmi.
Bhagavā ca tena samayena sāvatthiyaṃ viharati jetavane mahāvihāre. Atha
kho bhagavā paṭikacceva bhikkhū āṇāpesi – ‘‘yo, bhikkhave, ‘anantajino’ti
pucchamāno āgacchati, tassa maṃ dasseyyāthā’’ti. Upakopi kho ‘‘kuhiṃ anantajino
vasatī’’ti pucchanto anupubbena sāvatthiṃ āgantvā vihāramajjhe ṭhatvā kuhiṃ
anantajinoti pucchi. Taṃ bhikkhū bhagavato santikaṃ nayiṃsu. So bhagavantaṃ
disvā – ‘‘sañjānātha maṃ bhagavā’’ti āha. Āma, upaka, sañjānāmi, kuhiṃ pana tvaṃ
vasitthāti. Vaṅkahārajanapade, bhanteti. Upaka, mahallakosi jāto pabbajituṃ
sakkhissasīti. Pabbajissāmi, bhanteti. Bhagavā pabbājetvā tassa kammaṭṭhānaṃ
adāsi. So kammaṭṭhāne kammaṃ karonto anāgāmiphale patiṭṭhāya kālaṃ katvā
avihesu nibbatto. Nibbattakkhaṇeyeva arahattaṃ pāpuṇīti. Avihesu nibbattamattā
hi satta janā arahattaṃ pāpuṇiṃsu, tesaṃ so aññataro.
Vuttañhetaṃ –
‘‘Avihaṃ upapannāse, vimuttā satta bhikkhavo;
Rāgadosaparikkhīṇā, tiṇṇā loke visattikaṃ.
Upako palagaṇḍo ca, pukkusāti ca te tayo;
Bhaddiyo khaṇḍadevo ca, bahuraggi ca saṅgiyo;
Te hitvā mānusaṃ dehaṃ, dibbayogaṃ upajjhagu’’nti. (saṃ. ni. 1.105);
286. Saṇṭhapesunti katikaṃ akaṃsu. Bāhullikoti cīvarabāhullādīnaṃ
atthāya paṭipanno. Padhānavibbhantoti padhānato vibbhanto bhaṭṭho parihīno.
Āvatto bāhullāyāti cīvarādīnaṃ bahulabhāvatthāya āvatto. Apica kho āsanaṃ ṭhapetabbanti
apica kho panassa uccakule nibbattassa āsanamattaṃ ṭhapetabbanti vadiṃsu.
Nāsakkhiṃsūti buddhānubhāvena buddhatejasā abhibhūtā attano katikāya ṭhātuṃ
nāsakkhiṃsu. Nāmena ca āvusovādena ca samudācarantīti gotamāti, āvusoti ca
vadanti. Āvuso gotama, mayaṃ uruvelāyaṃ padhānakāle tuyhaṃ pattacīvaraṃ gahetvā
vicarimhā, mukhodakaṃ dantakaṭṭhaṃ adamhā, vutthapariveṇaṃ sammajjimhā, pacchā
ko te vattappaṭipattimakāsi, kacci amhesu pakkantesu na cintayitthāti evarūpiṃ
kathaṃ kathentīti attho. Iriyāyāti dukkarairiyāya. Paṭipadāyāti dukkarapaṭipattiyā.
Dukkarakārikāyāti pasatapasata-muggayūsādiāharakaraṇādinā dukkarakaraṇena. Abhijānātha
me noti abhijānātha nu mama. Evarūpaṃ pabhāvitametanti etaṃ evarūpaṃ
vākyabhedanti attho. Api nu ahaṃ uruvelāya padhāne tumhākaṃ saṅgaṇhanatthaṃ
anukkaṇṭhanatthaṃ rattiṃ vā divā vā āgantvā, – ‘‘āvuso, mā vitakkayittha, mayhaṃ
obhāso vā nimittaṃ vā paññāyatī’’ti evarūpaṃ kañci vacanabhedaṃ akāsinti
adhippāyo. Te ekapadeneva satiṃ labhitvā uppannagāravā, ‘‘handa addhā esa
buddho jāto’’ti saddahitvā no hetaṃ, bhanteti āhaṃsu. Asakkhiṃ kho ahaṃ,
bhikkhave, pañcavaggiye bhikkhū saññāpetunti ahaṃ, bhikkhave, pañcavaggiye
bhikkhū buddho ahanti jānāpetuṃ asakkhiṃ. Tadā pana bhagavā uposathadivaseyeva
āgacchi. Attano buddhabhāvaṃ jānāpetvā koṇḍaññattheraṃ kāyasakkhiṃ katvā
dhammacakkappavattanasuttaṃ kathesi. Suttapariyosāne thero aṭṭhārasahi brahmakoṭīhi
saddhiṃ sotāpattiphale patiṭṭhāsi. Sūriye dharamāneyeva desanā niṭṭhāsi.
Bhagavā tattheva vassaṃ upagacchi.
Dvepi sudaṃ, bhikkhave, bhikkhū ovadāmītiādi pāṭipadadivasato paṭṭhāya
piṇḍapātatthāyapi gāmaṃ appavisanadīpanatthaṃ vuttaṃ. Tesañhi bhikkhūnaṃ kammaṭṭhānesu
uppannamalavisodhanatthaṃ bhagavā antovihāreyeva ahosi. Uppanne uppanne kammaṭṭhānamale
tepi bhikkhū bhagavato santikaṃ gantvā pucchanti. Bhagavāpi tesaṃ nisinnaṭṭhānaṃ
gantvā malaṃ vinodeti. Atha nesaṃ bhagavatā evaṃ nīhaṭabhattena ovadiyamānānaṃ
vappatthero pāṭipadadivase sotāpanno ahosi. Bhaddiyatthero dutiyāyaṃ,
mahānāmatthero tatiyāyaṃ, assajitthero catutthiyaṃ. Pakkhassa pana pañcamiyaṃ
sabbeva te ekato sannipātetvā anattalakkhaṇasuttaṃ kathesi, suttapariyosāne
sabbepi arahattaphale patiṭṭhahiṃsu. Tenāha – ‘‘atha kho, bhikkhave,
pañcavaggiyā bhikkhū mayā evaṃ ovadiyamānā…pe… anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ
ajjhagamaṃsu…pe… natthi dāni punabbhavo’’ti. Ettakaṃ kathāmaggaṃ bhagavā yaṃ
pubbe avaca – ‘‘tumhepi mamañceva pañcavaggiyānañca maggaṃ āruḷhā,
ariyapariyesanā tumhākaṃ pariyesanā’’ti imaṃ ekameva anusandhiṃ dassento āhari.
287. Idāni yasmā na agāriyānaṃyeva pañcakāmaguṇapariyesanā hoti,
anagāriyānampi cattāro paccaye appaccavekkhitvā paribhuñjantānaṃ pañcakāmaguṇavasena
anariyapariyesanā hoti, tasmā taṃ dassetuṃ pañcime, bhikkhave, kāmaguṇātiādimāha.
Tattha navarattesu pattacīvarādīsu cakkhuviññeyyā rūpātiādayo cattāro kāmaguṇā
labbhanti. Raso panettha paribhogaraso hoti. Manuññe piṇḍapāte bhesajje ca
pañcapi labbhanti. Senāsanamhi cīvare viya cattāro. Raso pana etthāpi
paribhogarasova. Ye hi keci, bhikkhaveti kasmā ārabhi? Evaṃ pañca kāmaguṇe
dassetvā idāni ye evaṃ vadeyyuṃ, ‘‘pabbajitakālato paṭṭhāya anariyapariyesanā
nāma kuto, ariyapariyesanāva pabbajitāna’’nti, tesaṃ paṭisedhanatthāya ‘‘pabbajitānampi
catūsu paccayesu appaccavekkhaṇaparibhogo anariyapariyesanā evā’’ti dassetuṃ
imaṃ desanaṃ ārabhi. Tattha gadhitāti taṇhāgedhena gadhitā. Mucchitāti taṇhāmucchāya
mucchitā. Ajjhopannāti taṇhāya ajjhogāḷhā. Anādīnavadassāvinoti ādīnavaṃ apassantā.
Anissaraṇapaññāti nissaraṇaṃ vuccati paccavekkhaṇañāṇaṃ. Te tena virahitā.
Idāni tassatthassa sādhakaṃ upamaṃ dassento seyyathāpi,
bhikkhavetiādimāha. Tatrevaṃ opammasaṃsandanaṃ veditabbaṃ – āraññakamago viya
hi samaṇabrāhmaṇā, luddakena araññe ṭhapitapāso viya cattāro paccayā, tassa
luddassa pāsarāsiṃ ajjhottharitvā sayanakālo viya tesaṃ cattāro paccaye
appaccavekkhitvā paribhogakālo. Luddake āgacchante magassa yena kāmaṃ
agamanakālo viya samaṇabrāhmaṇānaṃ mārassa yathākāmakaraṇīyakālo, māravasaṃ upagatabhāvoti
attho. Magassa pana abaddhassa pāsarāsiṃ adhisayitakālo viya samaṇabrāhmaṇānaṃ
catūsu paccayesu paccavekkhaṇaparibhogo, luddake āgacchante magassa yena kāmaṃ
gamanaṃ viya samaṇabrāhmaṇānaṃ māravasaṃ anupagamanaṃ veditabbaṃ. Vissatthoti
nibbhayo nirāsaṅko. Sesaṃ sabbattha uttānatthamevāti.
Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Pāsarāsisuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
Ariyapariyesanātipi etasseva nāmaṃ.
No comments:
Post a Comment