Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
29. Ðại Kinh Thí Dụ Lõi Cây
(Mahāsāropama Sutta) & 30. Tiểu kinh Thí Dụ Lõi Cây (Cùlasàropama sutta)
Cả hai bải kinh số 29 và 30 đều lấy thí
dụ lõi cây là chủ đề. Bài kinh trước dài hơn nên gọi là đại kinh. Đây là trường
hợp hai bài kinh có cùng nội dung nhưng đươc giảng trong hai duyên sự khác
nhau. Đây là một đặc điểm của Tam Tạng Pàli trong tinh thần nguyên thủy là kết
tập và gìn giữ những gì được Phật dạy chứ không phải là một sáng tác có gạn lọc
và bố cục như những tác phẩm hậu tác.
Trong hai bài kinh nầy Đức Phật dạy có
những phát sanh hay thành tựu trên đường tu tập mang tánh giai đoạn không nên
lấy đó làm cứu cánh. Cung kính, cúng dường chỉ là những gì hoa lá cành chứ
không phải là lõi cây của sa môn quả; thành tựu giới đức chỉ là vỏ ngoài của sa
môn quả; thành tựu thiền định chỉ là vỏ trong của sa môn quả; thành tựu tri
kiến chỉ là giác cây của sa môn quả; bất thối giải thoát mới chính là lõi
cây.
Bài kinh số 29 là pháp thoại hằng ngày
Đức Phật giảng cho chư tỳ kheo Tăng. Bài kinh số 30 được Đức Phật giảng cho
Bà-la-môn Pingalakoccha (một nhân vật được đề cập một lần duy nhất ở bài kinh
nầy trong Tam Tạng Pāli) tại Sāvatthī khi vị nầy nêu những câu hỏi trong số các
vị giáo chủ ngoại đạo đương thời ai là bậc thực tu, thực chứng.
144.
Mục đích đời
sống phạm hạnh với
sơ phát tâm của người xuất gia
Người xuất gia cần ý thức và nhớ rõ về
sơ phát tâm: "Ta bị chìm đắm trong sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não,
bị chìm đắm trong đau khổ, bị chi phối bởi đau khổ. Rất có thể, toàn bộ khổ uẩn
này có thể chấm dứt được". Trong nghi thức thọ sa di thì lời tác bạch nầy
được xác quyết rõ ràng khi thỉnh cầu được trao y ca sa.
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở tại Rājagaha (Vương Xá), núi Gijjhakūṭa
(Linh Thứu), khi Devadatta (Ðề-bà-đạt- đa) từ bỏ (chúng Tăng) ra
đi không bao lâu. Ở đây, nhân việc Devadatta, Thế Tôn cho gọi các Tỷ-kheo và
dạy như sau:
-- Ở đây, này các Tỷ-kheo, có Thiện nam tử do lòng tin xuất
gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: "Ta bị chìm đắm trong
sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị chìm đắm trong đau khổ,
bị chi phối bởi đau khổ. Rất có thể, toàn bộ khổ uẩn này có thể
chấm dứt được". Vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn
kính, danh vọng. Do lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, vị ấy hoan
hỷ, mãn nguyện.
145. Tự mãn đối với những thành tựu
mang tính giai đoạn là chướng ngại lớn
Đây là căn bệnh chung của tất cả chúng
sanh. Có nỗ lực thì có tiến bộ, có thành tựu. Nhưng những gì thành tựu phần lớn
chí là giai đoạn của hành trình - giống như ý nghĩa được đề cập trong kinh trạm
xe – không nên lấy đó để tự mãn. Sự tự mãn khíến hành giả đứng lại, và sau đó,
là thối thất.
Do lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, vị ấy khen mình,
chê người: "Ta được lợi dưỡng như vậy, được danh vọng như
vậy. Còn các Tỷ-kheo khác ít được biết đến, ít có uy quyền".
Vị ấy, vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, trở thành mê say,
tham đắm, phóng dật. Do sống phóng dật, vị ấy bị đau khổ. Chư
Tỷ-kheo, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong
khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây,
người ấy bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, bỏ qua
vỏ ngoài, chặt cành lá, lấy chúng mang đi, tưởng rằng đó là lõi
cây. Một người có mắt thấy vậy bèn nói: "Thật sự người này
không biết lõi cây, không biết giác cây, không biết vỏ trong, không
biết vỏ ngoài, không biết cành lá. Người này muốn được lõi cây,
tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng
thẳng, có lõi cây, người này bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ
qua vỏ trong, bỏ qua vỏ ngoài, chặt cành lá, lấy chúng mang đi,
tưởng rằng đó là lõi cây. Và người này không đạt mục đích mà
lõi cây có thể thành tựu". Cũng vậy, ở đây, này các Tỷ-kheo,
có Thiện nam tử vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia
đình: "Ta bị chìm đắm trong sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu,
não bị chi phối bởi đau khổ. Rất có thể toàn bộ khổ uẩn này có
thể chấm dứt". Vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn
kính, danh vọng. Do lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, vị ấy hoan
hỷ, tự mãn. Do lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, vị ấy khen
mình, chê người: "Ta được lợi dưỡng như vậy, được danh vọng
như vậy, Còn các Tỷ-kheo khác ít được biết đến, ít có uy
quyền". Vị ấy vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, trở thành
mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống phóng dật, vị ấy bị đau khổ.
Chư Tỷ-kheo, Tỷ- kheo ấy được gọi là vị đã nắm lấy cành lá của
phạm hạnh, vì do vậy, vị ấy đã dừng lại (ở đây).
Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, có vị thiện nam tử vì
lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: "Ta bị
chìm đắm trong sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu não, bị chìm đắm
trong đau khổ, bị chi phối bởi đau khổ. Rất có thể toàn bộ khổ uẩn
này có thể chấm dứt". Rồi vị ấy xuất gia như vậy, được lợi
dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính,
danh vọng này khen mình, chê người. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn
kính, danh vọng này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống
không phóng dật, vị ấy thành tựu giới đức. Do thành tựu giới đức
này, vị ấy hoan hỷ, tự mãn. Do thành tựu, giới đức này, vị ấy khen
mình chê người: "Ta là người trì giới, theo thiện pháp. Các
Tỷ-kheo khác phá giới, theo ác pháp". Do thành tựu giới đức
này, vị ấy trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống phóng
dật, vị ấy bị đau khổ. Chư Tỷ-kheo, ví như một người muốn được
lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây
lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác
cây, bỏ qua vỏ trong, chặt vỏ ngoài, lấy chúng mang đi, tưởng đó là
lõi cây. Một người có mắt thấy vậy bèn nói: "Thật sự người
này không biết lõi cây, không biết giác cây, không biết vỏ trong,
không biết vỏ ngoài, không biết cành lá. Người này muốn được lõi
cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn,
đứng thẳng, có lõi cây, người này bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác
cây, bỏ qua vỏ trong, chặt vỏ ngoài, lấy chúng mang đi, tưởng đó là
lõi cây. Và người này không đạt mục đích mà lõi cây có thể
thành tựu". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo vì lòng
tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình... (như trên)... Do
thành tựu giới đức này, vị ấy trở thành mê say, tham đắm, phóng
dật. Do sống phóng dật, vị ấy bị đau khổ. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy
được gọi là vị đã nắm lấy vỏ ngoài của phạm hạnh. Và do vậy, vị
ấy đã dừng lại (ở đây).
Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, có Thiện nam tử vì lòng
tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: "Ta bị chìm
đắm trong vòng sanh, già, chết, sầu, bi, khổ ưu, não, bị chìm đắm
trong đau khổ, bị chi phối bởi đau khổ. Rất có thể toàn bộ khổ uẩn
này có thể chấm dứt được". Rồi vị ấy xuất gia như vậy, được
lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn
kính, danh vọng này, khen mình, chê người. Vị ấy không vì lợi
dưỡng, tôn kính, danh vọng này trở thành mê say, tham đắm, phóng
dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu giới đức. Do thành
tựu giới đức này, vị ấy hoan hỷ, nhưng không tự mãn. Do thành tựu
giới đức này, vị ấy không khen mình, chê người. Do thành tựu giới
đức này, vị ấy không trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống
không phóng dật, vị ấy thành tựu thiền định. Do thành tựu thiền
định này, vị ấy hoan hỷ, tự mãn. Do thành tựu thiền định này, vị
ấy khen mình chê người: "Ta có thiền định nhất tâm. Các
Tỷ-kheo khác không có thiền định, tâm bị phân tán". Do thành
tựu thiền định này, vị ấy trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do
sống phóng dật, vị ấy bị đau khổ. Chư Tỷ-kheo, ví như một người
muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây,
trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi
cây, bỏ qua giác cây, chặt vỏ trong, lấy chúng mang đi, tưởng đó là
lõi cây. Một người có mắt thấy vậy, bèn nói: "Thật sự người
này không biết lõi cây, không biết giác cây, không biết vỏ trong,
không biết vỏ ngoài, không biết cành lá. Người này muốn lõi cây,
tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn có
lõi cây, người này bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, chặt vỏ trong,
mang đi, tưởng đó là lõi cây. Và người này không đạt được mục
đích mà lõi cây có thể thành tựu". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
ở đây Tỷ-kheo vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia
đình... (như trên)... Do thành tựu thiền định này, vị ấy trở thành
mê say, tham đắm, phóng dật. Vì sống phóng dật, vị ấy bị đau khổ.
Chư Tỷ-kheo, như vậy vị ấy được gọi là Tỷ-kheo đã nắm giữ vỏ
trong của phạm hạnh. Và do vậy, vị ấy đã dừng lại (ở đây).
Lại nữa, ở đây, có Thiện nam tử, vì lòng tin xuất gia,
từ bỏ gia đình, sống không gia đình: "Ta bị chìm đắm trong vòng
sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị chìm đắm trong đau khổ,
bị chi phối bởi đau khổ. Rất có thể toàn bộ khổ uẩn này có thể
chấm dứt". Vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính,
danh vọng. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này hoan
hỷ, tự mãn. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này,
khen mình, chê người. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh
vọng này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng
dật, vị ấy thành tựu giới đức. Do thành tựu giới đức, vị ấy hoan
hỷ, nhưng không tự mãn. Vị ấy không vì thành tựu giới đức này
khen mình, chê người. Vị ấy không vì thành tựu giới đức này trở thành
mê say, tham đắm, phóng dật. Do sông không phóng dật, vị ấy thành
tựu Thiền định. Vị ấy do thành tựu Thiền định này nên hoan hỷ
nhưng không tự mãn. Vị ấy không vì thành tựu Thiền định này khen
mình, chê người. Vị ấy không vì thành tựu Thiền định này trở
thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy
thành tựu tri kiến, vị ấy vì tri kiến này, hoan hỷ, tự mãn. Vị ấy
do tri kiến này, khen mình, chê người. "Ta sống, thấy và biết.
Các Tỷ-kheo khác sống, không thấy và không biết". Vị ấy, do tri
kiến này, trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống phóng dật
vị ấy bị đau khổ.
Cụm từ
lābhasakkāra nên được dịch là lợi đắc và cung kính hay lợi danh thay vì chữ lợi
dưỡng như trong bản Việt dịch. Lợi đắc khác với lợi dưỡng. Chữ lợi dưỡng –
kāmasukhallikānuyoga dùng để chỉ cho
khuynh hưởng thụ dục lạc quá nhiều đối lập lại với khổ hạnh. Cả hai đều là cực
đoan trái với con trung đạo. Một tỳ kheo
chân chánh có thể sống với cung kính và lợi đắc nhưng không thể sống với lợi
dưỡng.
146. Chưa dừng lại khi cứu cánh chưa đạt
được
Đức Phật không
dạy rằng sự cung kính, cúng dường, giới đức, thiền định, tri kiến là những thứ
tầm thường không đáng có . Những thứ đó chỉ là giai đoạn trong hành trình không
phải là điểm đến đích thực. Kinh Trạm Xe, Kinh Thánh Cầu là những pháp thoại
chỉ rõ hành trình có những chặng đường phải đi qua. Chưa đạt đến cứu cánh thì
không nên tự mãn:
Chư Tỷ-kheo, ví như một người muốn được lõi cây, tìm
cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng
thẳng, có lõi cây, người bỏ qua lõi cây, chặt giác cây mang đi,
tưởng đó là lõi cây. Một người có mắt thấy vậy bèn nói:
"Thật sự người này không biết lõi cây, không biết giác cây,
không biết vỏ trong, không biết vỏ ngoài, không biết cành lá.
Người này muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trước một cây lớn,
đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi cây, chặt giác cây
và mang đi, tưởng đó là lõi cây. Và người ấy không đạt được mục
đích mà lõi cây có thể thành tựu. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở
đây, có Thiện nam tử, vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống
không gia đình... Vị này, vì tri kiến này nên mê say, tham đắm,
phóng dật. Vì sống phóng dật, vị này bị đau khổ. Chư Tỷ-kheo, như
vậy vị này gọi là đã nắm giữ giác cây của phạm hạnh. Và do vậy,
vị ấy đã dừng lại (ở đây)". Lại nữa, ở đây, này các Tỷ-kheo,
có vị Thiện nam tử, vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống
không gia đình: "Ta bị chìm đắm trong vòng sanh, già, chết, sầu,
bi, khổ, ưu, não, bị chìm đắm trong đau khổ, bị chi phối bởi đau
khổ. Rất có thể toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt". Vị ấy
xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy
không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này hoan hỷ, tự mãn. Vị
ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này khen mình, chê
người. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này trở
thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy
thành tựu giới đức. Do thành tựu giới đức, vị ấy hoan hỷ nhưng
không tự mãn. Vị ấy không vì thành tựu giới đức này khen mình,
chê người. Vị ấy không vì thành tựu giới đức này trở thành mê
say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu
Thiền định, vị ấy do thành tựu Thiền định này, hoan hỷ nhưng không
tự mãn. Vị ấy không do thành tựu Thiền định này khen mình, chê
người. Vị ấy không do thành tựu Thiền định này trở thành mê say,
tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu tri
kiến. Do thành tựu tri kiến này, vị ấy hoan hỷ nhưng không tự mãn.
Vị ấy không vì thành tựu tri kiến này khen mình, chê người. Vị ấy
không vì thành tựu tri kiến này trở thành mê say, tham đắm, phóng
dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu thời giải thoát. Này
các Tỷ-kheo, sự tình này có thể xảy ra, Tỷ-kheo ấy có thể từ bỏ
thời giải thoát.
Này các Tỷ-kheo, ví như một người muốn được lõi cây,
tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng
thẳng, có lõi cây, người ấy chặt lõi cây, mang đi và biết đó là
lõi cây. Một người có mắt thấy như vậy, có thể nói: "Người
này biết lõi cây, biết giác cây, biết vỏ trong, biết vỏ ngoài,
biết cành lá. Người này muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây.
Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi
cây, người ấy chặt lõi cây, mang đi và tự biết đó là lõi cây. Và
người ấy đạt được mục đích mà lõi cây có thể thực hiện".
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây một Thiện nam tử, vì lòng tin
xuất gia, bỏ gia đình, sống không gia đình: "Ta bị chìm đắm trong
sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị chìm đắm trong khổ đau,
bị chi phối bởi khổ đau. Rất có thể, toàn bộ khổ uẩn này có thể
chấm dứt". Vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính,
danh vọng. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này hoan
hỷ, tự mãn. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này
khen mình, chê người. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh
vọng này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng
dật. Vị ấy thành tựu giới đức. Vị ấy do thành tựu giới đức này
hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy, không do thành tựu giới đức này
khen mình, chê người. Vị ấy không do thành tựu giới đức này trở
thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy
thành tựu Thiền định. Vị ấy do thành tựu thiền định nên hoan hỷ
nhưng không tự mãn. Vị ấy không do thành tựu Thiền định này khen
mình, chê người. Vị ấy không do thành tựu thiền định này trở
thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy
thành tựu tri kiến. Vị ấy vì thành tựu tri kiến này nên hoan hỷ
nhưng không tự mãn. Vị ấy không vì thành tựu tri kiến này khen
mình, chê người. Vị ấy không vì thành tựu tri kiến này trở thành
mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành
tựu được phi thời gian giải thoát. Này chư Tỷ-kheo, sự tình này
không thể xảy ra, Tỷ-kheo ấy có thể từ bỏ phi thời giải thoát này.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, phạm hạnh này không phải vì
lợi ích, lợi dưỡng, danh vọng, không phải vì lợi ích thành tựu
giới đức, không phải vì lợi ích thành tựu thiền định, không phải
vì lợi ích tri kiến. Và này các Tỷ-kheo, tâm giải thoát bất động
chính là mục đích của phạm hạnh này, là lõi cây, là mục tiêu
cuối cùng của phạm hạnh.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ,
tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Thuật ngữ asamayavimokkha trong bản Việt ngữ dịch là “phi thời giải
thoát” có thể bị hiểu lầm là “giải thoát không đúng thời”. Theo
Paṭisambhidāmagga (ii.40) từ vựng samayavimokkha là sự giải thoát nhất thời như
các thiền chứng và asamayavimokkha là sự giải thoát vĩnh viễn không trở lui
trạng thái cũ nên ở đây dịch là bất thối giải thoát chỉ cho sự đoạn tận kiết sử
của đạo quả.
Thuật ngữ samayavimokkha nên dịch là giải thoát có hạn cuộc. Thuật ngữ asamayavimokkha nên dịch là giải thoát không hạn cuộc nghĩa là giải thoát bất thối chuyển
Năm điểm chính trong bài kinh nầy:
1.
Nếu người tu, đặc biệt là hàng xuất gia, trong đời sống
nhận được cung kính và cúng dường mà dừng lại ở đó xem đó là đã có được sa môn
quả thì giống như người đi tìm lõi cây mà chặt cành lá mang về.
3.
Nếu người tu thành tựu được thiền định tam muội (samàdhi)
mà dừng lại ở đó xem đó là đã có được sa môn quả thì giống như người đi tìm lõi
cây mà lấy vỏ trong mang về.
4.
Nếu người tu thành tựu được tri kiến mà dừng lại ở đó
xem đó là đã có được sa môn quả thì giống như người đi tìm lõi cây mà lấy giác
cây mang về.
5.
Nếu người tu thành tựu được tâm giải thoát và tuệ giải
thoát thì có thể dừng lại vì đã thành tựu cứu cánh giống như người đi tìm lõi cây lấy lõi cây đích thực mang về.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ Kheo
Giác Đẳng
-ooOoo-
30. Tiểu Kinh Dụ
Lõi Cây
(Cūḷasāropama Sutta)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú tại Sāvatthī (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm),
vườn ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc). Rồi Bà-la-môn Pingalakoccha đi
đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến nói lên với Thế Tôn những lời hỏi
thăm, chúc tụng xã giao, rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống
một bên, Bà-la-môn Pingalakoccha bạch Thế Tôn:
-- Tôn giả Gotama, có những Sa-môn,
Bà-la-môn này là vị Hội chủ, vị Giáo trưởng, vị Sư trưởng Giáo
hội, có tiếng tốt, có danh vọng, khi Tổ giáo phái, được quần chúng
tôn sùng, như Pūraṇa Kassapa, Makkhali Gosāla, Ajita Kesakambala, Pakudha
Kaccāyana, Sañjaya Belaṭṭhiputta, Nigaṇtha Nātaputta,tất cả những vị này
tự xưng là nhứt thiết trí hay tất cả không phải là nhứt thiết
trí, hay một số là nhứt thiết trí và một số không phải nhứt thiết
trí?
-- Thôi vừa rồi, này Bà-la-môn, hãy
dừng lại ở đây: "Tất cả những vị này tự xưng là nhứt thiết
trí hay tất cả không phải là nhứt thiết trí? Hay một số là nhứt
thiết trí và một số không phải nhứt thiết trí?" Này Bà-
la-môn, Ta sẽ thuyết pháp cho Ông, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ
giảng.
-- Thưa vâng, Tôn giả.
Bà-la-môn Pingalakoccha vâng đáp Thế
Tôn. Thế Tôn thuyết giảng như sau:
-- Này Bà-la-môn, ví như một người
muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây,
trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người bỏ qua lõi cây,
bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, bỏ qua vỏ ngoài, chặt cành lá,
lấy chúng mang đi và tưởng rằng đó là lõi cây. Một người có mắt
thấy vậy bèn nói: "Thật sự người này không biết lõi cây,
không biết giác cây, không biết vỏ trong, không biết vỏ ngoài,
không biết cành lá. Người này muốn được lõi cây, tìm cầu lõi
cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng có
lõi cây, người này bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ
trong, bỏ qua vỏ ngoài, chặt cành lá lấy chúng mang đi, tưởng rằng
đó là lõi cây. Và người này không đạt mục đích mà lõi cây có
thể thành tựu".
Này Bà-la-môn, ví như một người
muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây,
trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi
cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, chặt vỏ ngoài, lấy chúng mang
đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Một người có mắt thấy vậy bèn
nói: "Thật sự người này không biết lõi cây, không biết giác
cây, không biết vỏ trong, không biết vỏ ngoài, không biết cành lá.
Người này muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trước một cây
lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người này bỏ qua lõi cây, bỏ qua
giác cây, bỏ qua vỏ trong, chặt võ ngoài, lấy chúng mang đi, tưởng
rằng đó là lõi cây. Và người này không đạt mục đích mà lõi cây
có thể thành tựu".
Này Bà-la-môn, ví như một người
muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây,
trước một cây lớn đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi
cây, bỏ qua giác cây, chặt vỏ trong, lấy chúng mang đi, tưởng rằng
đó là lõi cây. Một người có mắt thấy vậy bèn nói: "Thật sự
người này không biết lõi cây, không biết giác cây, không biết vỏ
trong, không biết vỏ ngoài, không biết cành lá. Người này muốn
được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một
cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người này bỏ qua lõi cây, bỏ qua
giác cây, chặt vỏ trong mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Và
người này không đạt được mục đích mà lõi cây có thể thành
tựu".
Này Bà-la-môn, ví như một người
muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây,
trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi
cây, chặt giác cây mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Một người
có mắt thấy vậy bèn nói: "Thật sự người này không biết lõi
cây, không biết giác cây, không biết vỏ trong, không biết vỏ ngoài,
không biết cành lá. Người này muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây.
Trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người này bỏ qua lõi
cây, chặt giác cây mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Và người
này không đạt được mục đích mà lõi cây có thể thành tựu".
Này Bà-la-môn, ví như một người
muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây,
trước một cây lớn đứng thẳng, có lõi cây, người ấy chặt lõi
cây, mang đi và biết rằng đó là lõi cây. Một người có mắt thấy vậy,
có thể nói: "Người này biết lõi cây, biết giác cây, biết vỏ
trong, biết vỏ ngoài, biết cành lá. Người này muốn được lõi cây,
tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng
thẳng, có lõi cây, người ấy chặt lõi cây, mang đi và biết rằng đó
là lõi cây. Và người này đạt được mục đích mà lõi cây có thể
thành tựu".
Cũng vậy, này Bà-la-môn, ở đây, có
người do lòng tin xuất gia từ bỏ gia đình sống không gia đình:
"Ta bị chìm đắm trong sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị
chìm đắm trong đau khổ, bị chi phối bởi đau khổ, Rất có thể toàn bộ
khổ uẩn này có thể chấm dứt". Vị ấy xuất gia như vậy, được
lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Do lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng
này, vị ấy hoan hỷ, tự mãn. Do lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này,
vị ấy khen mình, chê người: "Ta được lợi dưỡng như vậy,
được danh vọng như vậy, còn các Tỷ-kheo khác ít được biết đến,
ít có uy quyền". Và vị ấy không phát khởi lòng ao ước và
không cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng
hơn, thù thắng hơn những lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy trở
thành biếng nhác và thụ động. Này Bà-la-môn, ví như một người
muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây,
trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi
cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, bỏ qua vỏ ngoài, chặt cành
lá, lấy chúng mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Và người ấy sẽ
không đạt được mục đích mà lõi cây có thể thành tựu. Này
Bà-la-môn, Ta nói rằng người này giống như ví dụ ấy.
Nhưng ở đây, này Bà-la-môn, có
người vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình:
"Ta bị chìm đắm trong sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị
chìm đắm trong đau khổ, bi chi phối bởi đau khổ. Rất có thể toàn bộ
khổ uẩn này có thể chấm dứt". Rồi vị ấy xuất gia như vậy,
được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không vì lợi dưỡng,
tôn kính, danh vọng này, hoan hỷ, tự mãn. Vị ấy không vì lợi
dưỡng, tôn kính, danh vọng này, khen mình, chê người. Và vị ấy
phát khởi lòng ao ước và cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp
khác cao thượng hơn, thù thắng hơn những lợi dưỡng, tôn kính, danh
vọng. Vị ấy không trở thành biếng nhác và thụ động. Vị ấy thành
tựu giới đức. Vì thành tựu giới đức này, vị ấy hoan hỷ, tự mãn.
Vì thành tựu giới đức này, vị ấy khen mình, chê người: "Ta
trì giới, theo thiện pháp. Các Tỷ-kheo khác phá giới, theo ác
pháp". Và vị ấy không phát khởi lòng ao ước và không cố gắng
tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng
hơn giới đức. Vị ấy trở thành biếng nhác và thụ động. Này
Bà-la-môn, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây.
Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi
cây, người ấy bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, chặt
lấy vỏ ngoài, lấy chúng mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Và
người này sẽ không đạt được mục đích mà lõi cây có thể thành
tựu. Này Bà-la-môn, Ta nói rằng người này giống như ví dụ ấy.
Nhưng ở đây, này Bà-la-môn, có
người vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình:
"Ta bị chìm đắm trong sanh, già, chết, sầu bi, khổ, ưu, não, bị
chìm đắm trong đau khổ, bị chi phối bởi đau khổ. Rất có thể toàn bộ
khổ uẩn này có thể chấm dứt". Rồi vị ấy xuất gia như vậy,
được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy, không vì lợi dưỡng,
tôn kính, danh vọng này, hoan hỷ, tự mãn. Vị ấy không vì lợi
dưỡng, tôn kính, danh vọng này, khen mình, chê người. Và vị ấy
phát khởi lòng ao ước và cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp
khác cao thượng hơn, thù thắng hơn những lợi dưỡng, tôn kính, danh
vọng. Vị ấy không trở thành biếng nhác và thụ động. Vị ấy thành
tựu giới đức. Vì thành tựu giới đức này, vị ấy hoan hỷ nhưng
không tự mãn. Vị ấy không vì thành tựu giới đức này, khen mình,
chê người. Và vị ấy phát khởi lòng ao ước và cố gắng tinh tấn
để chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn giới
đức. Vị ấy không trở thành biếng nhác và thụ động. Vị ấy thành
tựu Thiền định. Do thành tựu Thiền định này, vị ấy hoan hỷ, tự
mãn. Do thành tựu Thiền định này, vị ấy khen mình, chê người:
"Ta có Thiền định, nhứt tâm. Các Tỷ-kheo khác không có Thiền
định, tâm bị phân tán". Và vị ấy không phát khởi lòng ao ước
và không cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng
hơn, thù thắng hơn sự thành tựu Thiền định. Vị ấy trở thành biếng
nhác và thụ động. Này Bà-la-môn, ví như một người muốn được lõi
cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn,
đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây,
chặt vỏ trong, lấy vỏ trong mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Và
người này sẽ không đạt được mục đích mà lõi cây có thể thành
tựu. Này Bà-la-môn, Ta nói rằng người này giống như ví dụ ấy.
Nhưng ở đây, này Bà-la-môn, có
người vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình:
"Ta bị chìm đắm trong sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị
chìm đắm trong đau khổ, bị chi phối bởi đau khổ. Rất có thể toàn bộ
khổ uẩn này có thể chấm dứt". Rồi vị ấy xuất gia như vậy,
được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy, không vì lợi dưỡng,
tôn kính, danh vọng này, hoan hỷ, tự mãn. Vị ấy, không vì lợi
dưỡng, tôn kính, danh vọng này, khen mình, chê người. Và vị ấy
phát khởi lòng ao ước và cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp
khác cao thượng hơn, thù thắng hơn những lợi dưỡng, tôn kính, danh
vọng. Vị ấy không trở thành biếng nhác và thụ động. Vị ấy thành
tựu giới đức. Do thành tựu giới này, vị ấy hoan hỷ nhưng không tự
mãn. Vị ấy không do thành tựu giới đức này, khen mình, chê người.
Vị ấy phát khởi lòng ao ước và tinh tấn để chứng được các pháp
khác cao thượng hơn, thù thắng hơn sự thành tựu giới đức. Vị ấy
không trở thành biếng nhác và thụ động. Vị ấy thành tựu Thiền
định. Vì thành tựu Thiền định này, vị ấy hoan hỷ nhưng không tự
mãn. Vị ấy không do thành tựu Thiền định này khen mình, chê người.
Vị ấy phát khởi lòng ao ước và cố gắng tinh tấn để chứng được
các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn sự thành tựu Thiền
định. Vị ấy không trở thành biếng nhác và thụ động. Vị ấy thành
tựu tri kiến. Vị ấy, do tri kiến này, hoan hỷ tự mãn. Vị ấy, do tri
kiến này, khen mình, chê người: "Ta sống, thấy và biết. Các
Tỷ-kheo khác sống không thấy và không biết". Và vị ấy không
phát khởi lòng ao ước và không cố gắng tinh tấn để chứng được
các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến. Vị ấy trở
thành biếng nhác và thụ động. Này Bà-la-môn, ví như một người
muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây,
trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi
cây, chặt giác cây mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Và người
này sẽ không đạt được mục đích mà lõi cây có thể thành tựu. Này
Bà-la-môn, Ta nói rằng người này giống ví dụ ấy.
Nhưng ở đây, này Bà-la-môn, có
người vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình:
"Ta bị chìm đắm trong sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị
chìm đắm trong đau khổ, bị chi phối bởi đau khổ. Rất có thể toàn bộ
khổ uẩn này có thể chấm dứt". Do vị ấy xuất gia như vậy,
được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không vì lợi dưỡng,
tôn kính, danh vọng này, hoan hỷ, tự mãn. Vị ấy không vì lợi
dưỡng, tôn kính, danh vọng này, khen mình chê người. Và vị ấy
phát khởi lòng ao ước và cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp
khác cao thượng hơn, thù thắng hơn những lợi dưỡng, tôn kính, danh
vọng. Vị ấy không trở thành biếng nhác và thụ động. Vị ấy thành
tựu giới đức. Do thành tựu giới đức này, vị ấy hoan hỷ nhưng không
tự mãn. Vị ấy không do thành tựu giới đức này, khen mình, chê
người. Và vị ấy phát khởi lòng ao ước và cố gắng tinh tấn để
chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn sự thành
tựu giới đức. Vị ấy không trở thành biếng nhác và thụ động. Vị
ấy thành tựu Thiền định. Do thành tựu Thiền định, vị ấy hoan hỷ
nhưng không tự mãn. Vị ấy không do thành tựu Thiền định, khen mình,
chê người. Vị ấy phát khởi lòng ao ước và tinh tấn, chứng được
các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn sự thành tựu Thiền
định. Vị ấy không trở thành biếng nhác và thụ động. Vị ấy thành
tựu tri kiến. Vị ấy do tri kiến này hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị
ấy không do tri kiến này, khen mình, chê người. Vị ấy phát khởi
lòng ao ước, cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao
thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến. Vị ấy không trở thành biếng
nhác và thụ động.
Và này Bà-la-môn, những pháp gì cao
thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến?
Ở đây, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo ly
dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng
thái hỷ lạc, do ly dục sanh, có tầm có tứ. Này Bà-la-môn, pháp này
cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến.
Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo diệt
tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do
định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh, nhất tâm. Này Bà-la-môn,
pháp này cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến.
Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo ly
hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc
Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Này
Bà-la-môn, pháp này cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến.
Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo xả
lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền
thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này Bà-la-môn,
pháp này cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến.
Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo
vượt lên mọi sắc tưởng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng, Tỷ-kheo
nghĩ rằng: "Hư không là vô biên", chứng và trú Không vô
biên xứ. Này Bà-la-môn, pháp này cao thượng hơn, thù thắng hơn tri
kiến.
Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo
vượt lên mọi Không vô biên xứ, nghĩ rằng: "Thức là vô
biên", chứng và trú Thức vô biên xứ. Này Bà-la-môn, pháp này
cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến.
Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo
vượt lên mọi Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: "Không có vật
gì", chứng và trú Vô sở hữu xứ. Này Bà-la-môn, pháp này cao
thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến.
Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo
vượt mọi Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng Phi phi tưởng xứ.
Này Bà-la-môn, pháp này cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến.
Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo
vượt lên mọi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt thọ
tưởng (định), sau khi thấy với trí tuệ, các lậu hoặc được đoạn
trừ. Này Bà-la-môn, pháp này cao thượng hơn, thù thắng hơn tri
kiến. Này Bà-la-môn, các pháp này cao thượng hơn, thù thắng hơn
tri kiến.
Này Bà-la-môn, ví như một người
muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây,
trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy chặt lõi
cây, lấy và mang đi và tự biết đó là lõi cây. Và người ấy đạt
được mục đích mà lõi cây có thể thành tựu. Này Bà-la-môn, Ta nói
rằng người này giống như ví dụ ấy.
Như vậy, này Bà-la-môn, phạm hạnh
này không phải vì lợi ích, lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng, không
phải vì lợi ích thành tựu giới đức, không phải vì lợi ích thành
tựu Thiền định, không phải vì lợi ích tri kiến. Và này Bà-la-môn,
tâm giải thoát bất động chính là mục đích của phạm hạnh này, là
lõi cây của phạm hạnh, là mục tiêu cuối cùng của phạm hạnh.
Khi nghe nói vậy, Bà-la-môn
Pingalakoccha bạch Thế Tôn:
-- Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama!
Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Tôn giả Gotama, như người dựng
đứng lại những gì quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che
kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng
tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh Pháp đã
được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày. Và nay con xin quy y
Tôn giả Gotama, quy y Pháp, quy y Tỷ-kheo Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận
con làm đệ tử, từ nay trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy
ngưỡng!
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ Kheo
Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 29 [tóm tắt]
Đại Kinh Thí Dụ Lõi Cây
(Mahāsāropama Sutta)
(M.i, 192)
Kinh này đức Phật dạy khi Devadatta mới bỏ
Tăng chúng ra đi không bao lâu.
Đức Phật dạy mục đích của Phạm hạnh không
phải vì lợi dưỡng danh vọng, không phải vì thành tựu giới đức,
không phải vì thành tựu thiền định, không phải vì thành tựu tri
kiến. Tâm giải thoát bất động mới thật chính là mục đích của Phạm
hạnh. Những ai chưa đạt tới mục đích cuối cùng, tự bằng lòng và
dừng lại tại các thành tựu nửa chừng, những vị ấy không đạt được
mục tiêu chính của Phạm hạnh. Cũng như những người đi tìm lõi
cây, lại tự bằng lòng với cành lá, với vỏ ngoài, với vỏ trong,
với giác cây, như vậy không làm sao đạt được lõi cây.
Trước hết là hạng thiện nam tử vì muốn
chinh phục sanh, già, bệnh, chết, nên xuất gia tu hành và nhờ vậy
được lợi dưỡng, cung kính, cúng dường, tự bằng lòng với kết quả
này, trở thành khen mình chê người, mê say, tham đắm, phóng dật. Họ
sống phóng dật nên bị đau khổ. Ví như người đi tìm lõi cây, nhưng
bỏ qua lõi cây, giác cây, vỏ trong, vỏ ngoài, chặt cành lá mang đi
tưởng rằng đó là lõi cây. Vị ấy được gọi là vị đã nắm lấy
cành lá của Phạm hạnh.
Vị
thứ hai xuất gia để giải quyết vấn đề sanh, lão, bệnh, tử, được
lợi dưỡng, cung kính, danh vọng, không khen mình chê người, không
trở thành tham đắm, mê say, phóng dật. Họ sống không phóng dật,
thành tựu được giới đức. Do thành tựu giới đức, trở thành hoan hỷ,
tự mãn, khen mình chê người, trở thành mê say, tham đắm, phóng dật.
Do phóng dật, vị ấy bị đau khổ. Như người đi tìm lõi cây, bỏ qua
lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, chặt vỏ ngoài mang đi
tưởng rằng đó là lõi cây. Hạng Tỷ-kheo này được gọi là hạng
người nắm lấy vỏ ngoài của Phạm hạnh.
Hạng thứ ba xuất gia để giải thoát vấn đề
sanh, lão, bệnh, tử, chấm dứt khổ đau, nhờ xuất gia được lợi
dưỡng, cung kính, danh vọng. Vị ấy không vì lợi dưỡng, cung kính,
danh vọng, không vì thành tựu giới đức, trở thành khen mình chê
người, mê say, tham đắm, phóng dật, nhờ vậy thành tựu thiền định.
Do thành tựu thiền định nên khen mình chê người, mê say, tham đắm,
phóng dật. Do phóng dật nên bị đau khổ. Như một người đi tìm lõi cây,
bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, chặt vỏ trong mang đi tưởng đó là
lõi cây. Hạng Tỷ-kheo này được gọi là vị đã nắm giữ vỏ trong của
Phạm hạnh.
Hạng
thứ tư xuất gia cũng để giải quyết vấn đề sanh, lão, bệnh, tử,
chấm dứt khổ đau, nhờ xuất gia nên được lợi dưỡng, cung kính, danh
vọng. Vị ấy không vì lợi dưỡng, cung kính, danh vọng, không vì
thành tựu giới đức, không vì thành tựu thiền định, trở thành khen
mình chê người, mê say, tham đắm, phóng dật, nhờ vậy thành tựu tri
kiến. Vị ấy vì thành tựu tri kiến này hoan hỷ, tự mãn, khen mình
chê người, trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do phóng dật nên
bị đau khổ. Như một người đi tìm lõi cây, bỏ qua lõi cây, chặt
giác cây mang đi tưởng rằng đó là lõi cây. Tỷ-kheo này được gọi
là vị đã nắm giữ giác cây của Phạm hạnh.
Hạng thứ năm xuất gia cũng để giải quyết
vấn đề sanh, lão, bệnh, tử, chấm dứt khổ đau, nhờ xuất gia nên
được lợi dưỡng, cung kính, danh vọng. Vị ấy không vì lợi dưỡng,
cung kính, danh vọng, không vì thành tựu giới đức, không vì thành
tựu thiền định, không vì thành tựu tri kiến trở thành khen mình chê
người, mê say, tham đắm, phóng dật. Vì không phóng dật, vị ấy
thành tựu thời giải thoát (bốn thiền bốn không). Này các Tỷ-kheo,
sự tình này có thể xảy ra, vị Tỷ-kheo từ bỏ thời giải thoát. Ví
như một người đi tìm lõi cây, bỏ qua cành lá, bỏ qua vỏ ngoài, vỏ
trong, bỏ qua giác cây, chặt lấy lõi cây mang đi và tự biết đó là
lõi cây và người ấy đạt được mục đích mà lõi cây có thể thực
hiện. Cũng vậy, một Tỷ-kheo xuất gia để giải quyết vấn đề sanh,
lão, bệnh, tử, chấm dứt khổ đau. Vị ấy thành tựu lợi dưỡng, thành
tựu giới đức, thành tựu thiền định, thành tựu tri kiến, thành tựu
thời giải thoát, thành tựu phi thời giải thoát (bốn đạo bốn quả).
Sự tình này không xảy ra, vị Tỷ-kheo ấy có thể từ bỏ phi thời
giải thoát.
Như vậy, Phạm hạnh này không phải vì mục
đích lợi dưỡng, cung kính danh vọng, không phải vì thành tựu giới
đức, không phải vì thành tựu thiền định, không phải vì thành tựu
tri kiến. Tâm giải thoát bất động này chính là mục đích của Phạm
hạnh, là lõi cây, là mục tiêu cuối cùng của Phạm hạnh.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 29 [dàn ý]
Đại Kinh Thí Dụ Lõi Cây
(Mahāsāropama Sutta)
(M.i, 192)
A. Duyên khởi:
Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo và thuyết giảng.
B. Chánh kinh:
Thế Tôn đề cập đến 5 hạng người tu phạm
hạnh.
II. Tu Phạm hạnh vỏ ngoài: Tiếp đến Thế Tôn đề cập
đến hạng xuất gia, thành tựu giới đức rồi tự mãn, ví như người đi tìm lõi cây
chỉ mang vỏ ngoài về.
III. Tu Phạm hạnh vỏ trong: Thành tựu thiền
định rồi tự mãn, ví như người đi tìm lõi cây chỉ mang về vỏ trong.
IV. Tu Phạm hạnh giác cây: Thế Tôn đề cập đến hạng
xuất gia, thành tựu tri kiến rồi tự mãn, ví như người đi tìm lõi cây chỉ mang về
giác cây phạm hạnh.
V. Tu phạm hạnh lõi cây: Thế Tôn đề cập đến loại
người xuất gia thành tựu thời giải thoát và phi thời giải thoát, ví như người
đi tìm lõi cây chặt lõi cây và mang về.
VI. Mục đích hành trì phạm hạnh là đạt cho được
tâm giải thoát bất động.
C. Kết luận:
Các Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn
dạy.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 29 [toát yếu]
Đại Kinh Thí Dụ Lõi Cây
(Mahāsāropama Sutta)
(M.i, 192)
(Đại Kinh & Tiểu Kinh)
I. TOÁT
YẾU
Mahāsāropama, Cūlasāropama Sutta - the greater
and shorter discourse on the simile of the heartwood.
These two discourses emphasize that the proper goal
of the holy life is the unshakable deliverance of the mind, to which all other
benefits are subsidiary.
Đại kinh và Tiểu kinh Thí dụ lõi cây
Cả hai kinh này nhấn mạnh rằng mục đích
chính của đời sống phạm hạnh là tâm giải thoát bất động, đối với
mục đích này thì tất cả những lợi lạc khác chỉ là cặn bã.
II. TÓM
TẮT
Hai bản kinh cùng có nội dung như sau. Người
ta có thể vì thấy khổ sinh tử nên phát tâm xuất gia tìm cách chấm
dứt toàn bộ khổ uẩn này, như người vào rừng tìm lõi cây.
Nhưng có người, sau khi xuất gia, vì danh dự
lợi dưỡng và sự tôn kính của người đời, đâm ra tự mãn, tham đắm,
tự cho đã đạt mục đích. Người này ví như kẻ thay vì tìm lõi cây,
lại đem về cành lá.
Có người xuất gia dù được danh dự lợi
dưỡng cung kính cũng không phóng dật, sống có giới hạnh. Do thành
tựu giới đức, vị ấy khen mình chê người, trở nên phóng dật: như
người tìm lõi cây mà chỉ đem về vỏ ngoài.
Hạng thứ ba là người sau khi thành tựu
giới, tập thiền định, do thành tựu thiền định, đâm ra tự mãn, khen
mình chê người, trở nên phóng dật. Vị này giống như người đi
rừng cốt lấy lõi cây nhưng chỉ đem về vỏ trong.
Hạng thứ tư không vì thành tựu thiền định mà phóng dật, nên
có được tri kiến, và do tri kiến nên khen mình chê người: hạng này
như người đi rừng chỉ đem về giác cây.
Hạng thứ năm nhờ có tri kiến nhưng không phóng dật, mà thành
tựu giải thoát tạm thời và giải thoát vĩnh viễn. Tâm giải thoát
bất động này chính là lõi cây, là mục tiêu của đời sống
phạm hạnh.
III. CHÚ GIẢI
Tri kiến theo Luận giải là thiên nhãn, khả năng thấy
được những sắc vi tế mà mắt thường không thể trông thấy.
"Thành tựu thiền định" là điều kiện để đạt tri
kiến; tri kiến là căn bản để đắc 4 thiền 4 định và chứng diệt thọ
tưởng - - gọi là thời giải thoát, và lậu tận, gọi là phi
thời giải thoát.
Thời giải thoát, samayavimokkha: Giải thoát
tạm thời, là bốn thiền, bốn định vô sắc và diệt định.
Phi thời giải thoát, asamayavimokkha, là bốn đạo bốn quả và Niết-bàn.
Tâm giải thoát bất động là quả vị
A-la-hán. Như vậy, "phi thời giải thoát" có nghĩa rộng hơn
là tâm "giải thoát bất động", được xem là mục đích duy
nhất của đời sống phạm hạnh.
IV. PHÁP SỐ
Bốn thiền,
Bốn định.
V. KỆ TỤNG
Nhân
Đề bà đạt đa
Bỏ tăng đoàn của Phật
Lập
riêng chúng xuất gia
Thế
Tôn dạy đại chúng:
Kẻ
từ bỏ gia đình
Muốn thoát khổ sinh tử
Như
người tìm lõi cây
Khó
đạt mục đích mình.
Hoặc
tự mãn lợi danh
Mà
trở thành phóng dật
Như
lá cành vụn vặt
Lầm
tưởng là lõi cây.
Hoặc
khi thành tựu Giới
Tự
xem không ai bằng
Như
kẻ kiếm lõi cây
Chỉ đem về lớp vỏ.
Có
người tiến tu lên
Khiến
tâm được định tĩnh
Lại
khen mình chê người
Không
đạt được cốt lõi.
Có
người nhờ định tâm
Đạt
tri kiến sáng suốt
Hoan
hỷ sinh kiêu căng
Lõi
cây chưa tìm được.
Không
tự mãn tri kiến
Chứng
bốn thiền, bốn không
Đạt
tạm thời giải thoát
Vị ấy còn mất mát.
Không
tham đắm tri kiến
Tâm
giải thoát bất động
Đây
chính thực lõi cây
Mục
đích phạm hạnh này.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
29.
Mahāsāropamasuttaṃ [Mūla]
307. Evaṃ me sutaṃ :
ekaṃ samayaṃ Bhagavā rājagahe viharati gijjhakūṭe pabbate acirapakkante
devadatte. Tatra kho Bhagavā devadattaṃ ārabbha bhikkhū āmantesi :
''idha, bhikkhave, ekacco kulaputto saddhā agārasmā anagāriyaṃ pabbajito hoti :
'otiṇṇomhi jātiyā jarāya maraṇena sokehi paridevehi dukkhehi domanassehi
upāyāsehi, dukkhotiṇṇo dukkhapareto, appeva nāma imassa kevalassa
dukkhakkhandhassa antakiriyā paññāyethāti. So evaṃ pabbajito samāno
lābhasakkārasilokaṃ abhinibbatteti. So tena lābhasakkārasilokena attamano hoti
paripuṇṇasaṅkappo. So tena lābhasakkārasilokena attānukkaṃseti paraṃ vambheti :
'ahamasmi lābhasakkārasilokavā [lābhī silokavā (sī. pī.), lābhī sakkāra
silokavā (syā.)], ime panaññe bhikkhū appaññātā appesakkhāti. So tena
lābhasakkārasilokena majjati pamajjati pamādaṃ āpajjati, pamatto samāno dukkhaṃ
viharati. ''Seyyathāpi, bhikkhave, puriso sāratthiko sāragavesī sārapariyesanaṃ
caramāno mahato rukkhassa tiṭṭhato sāravato atikkammeva sāraṃ atikkamma phegguṃ
atikkamma tacaṃ atikkamma papaṭikaṃ, sākhāpalāsaṃ chetvā ādāya pakkameyya 'sāranti
maññamāno. Tamenaṃ cakkhumā puriso disvā evaṃ vadeyya : 'na vatāyaṃ bhavaṃ
puriso aññāsi sāraṃ, na aññāsi phegguṃ,
na aññāsi tacaṃ, na aññāsi papaṭikaṃ, na aññāsi sākhāpalāsaṃ. Tathā hayaṃ
[tathāpāyaṃ (ka.)] bhavaṃ puriso sāratthiko sāragavesī sārapariyesanaṃ caramāno
mahato rukkhassa tiṭṭhato sāravato atikkammeva sāraṃ atikkamma phegguṃ
atikkamma tacaṃ atikkamma papaṭikaṃ, sākhāpalāsaṃ chetvā ādāya pakkanto
'sāranti maññamāno. Yañcassa sārena sārakaraṇīyaṃ tañcassa atthaṃ
nānubhavissatīti. Evameva kho, bhikkhave, idhekacco kulaputto saddhā agārasmā
anagāriyaṃ pabbajito hoti : otiṇṇomhi jātiyā jarāya maraṇena sokehi paridevehi
dukkhehi domanassehi upāyāsehi, dukkhotiṇṇo dukkhapareto , appeva nāma imassa
kevalassa antakiriyā paññāyethāti. So evaṃ pabbajito samāno lābhasakkārasilokaṃ abhinibbatteti. So
tena lābhasakkārasilokena attamano hoti paripuṇṇasaṅkappo. So tena
lābhasakkārasilokena attānukkaṃseti, paraṃ vambheti 'ahamasmi lābhasakkārasilokavā, ime panaññe
bhikkhū appaññātā appesakkhāti. So tena lābhasakkārasilokena majjati pamajjati
pamādaṃ āpajjati, pamatto samāno dukkhaṃ viharati. Ayaṃ vuccati, bhikkhave,
bhikkhu sākhāpalāsaṃ aggahesi brahmacariyassa tena ca vosānaṃ āpādi.
308. ''Idha pana, bhikkhave, ekacco kulaputto saddhā agārasmā
anagāriyaṃ pabbajito hoti : 'otiṇṇomhi jātiyā jarāya maraṇena sokehi paridevehi dukkhehi domanassehi upāyāsehi,
dukkhotiṇṇo dukkhapareto, appeva nāma imassa kevalassa dukkhakkhandhassa
antakiriyā paññāyethāti. So evaṃ pabbajito samāno lābhasakkārasilokaṃ
abhinibbatteti. So tena lābhasakkārasilokena na attamano hoti na paripuṇṇasaṅkappo.
So tena lābhasakkārasilokena na attānukkaṃseti, na paraṃ vambheti. So tena
lābhasakkārasilokena na majjati nappamajjati na pamādaṃ āpajjati. Appamatto
samāno sīlasampadaṃ ārādheti. So tāya sīlasampadāya attamano hoti paripuṇṇasaṅkappo.
So tāya sīlasampadāya attānukkaṃseti, paraṃ vambheti : 'ahamasmi sīlavā kalyāṇadhammo,
ime panaññe bhikkhū dussīlā pāpadhammāti. So tāya sīlasampadāya majjati
pamajjati pamādaṃ āpajjati, pamatto samāno dukkhaṃ viharati. ''Seyyathāpi,
bhikkhave, puriso sāratthiko sāragavesī sārapariyesanaṃ caramāno mahato
rukkhassa tiṭṭhato sāravato atikkammeva sāraṃ atikkamma phegguṃ atikkamma tacaṃ,
papaṭikaṃ chetvā ādāya pakkameyya 'sāranti maññamāno. Tamenaṃ cakkhumā puriso
disvā evaṃ vadeyya : 'na vatāyaṃ bhavaṃ puriso aññāsi sāraṃ, na aññāsi phegguṃ,
na aññāsi tacaṃ, na aññāsi papaṭikaṃ, na aññāsi sākhāpalāsaṃ. Tathā hayaṃ bhavaṃ
puriso sāratthiko sāragavesī sārapariyesanaṃ caramāno mahato rukkhassa tiṭṭhato
sāravato atikkammeva sāraṃ atikkamma
phegguṃ atikkamma tacaṃ, papaṭikaṃ
chetvā ādāya pakkanto 'sāranti maññamāno yañcassa sārena sārakaraṇīyaṃ tañcassa
atthaṃ nānubhavissatīti. ''Evameva kho,
bhikkhave, idhekacco kulaputto saddhā agārasmā anagāriyaṃ pabbajito hoti : 'otiṇṇomhi
jātiyā jarāya maraṇena sokehi paridevehi dukkhehi domanassehi upāyāsehi,
dukkhotiṇṇo dukkhapareto, appeva nāma imassa kevalassa dukkhakkhandhassa
antakiriyā paññāyethāti. So evaṃ pabbajito samāno lābhasakkārasilokaṃ
abhinibbatteti. So tena lābhasakkārasilokena na attamano hoti na paripuṇṇasaṅkappo.
So tena lābhasakkārasilokena na attānukkaṃseti, na paraṃ vambheti. So tena
lābhasakkārasilokena na majjati nappamajjati na pamādaṃ āpajjati. Appamatto
samāno sīlasampadaṃ ārādheti. So tāya sīlasampadāya attamano hoti paripuṇṇasaṅkappo.
So tāya sīlasampadāya attānukkaṃseti, paraṃ vambheti : 'ahamasmi sīlavā kalyāṇadhammo,
ime panaññe bhikkhū dussīlā pāpadhammāti. So tāya sīlasampadāya majjati
pamajjati pamādaṃ āpajjati, pamatto samāno dukkhaṃ viharati. Ayaṃ vuccati, bhikkhave, bhikkhu papaṭikaṃ
aggahesi brahmacariyassa tena ca vosānaṃ āpādi.
309. ''Idha pana, bhikkhave, ekacco kulaputto saddhā agārasmā
anagāriyaṃ pabbajito hoti : 'otiṇṇomhi jātiyā jarāya maraṇena sokehi paridevehi dukkhehi domanassehi upāyāsehi,
dukkhotiṇṇo dukkhapareto, appeva nāma imassa kevalassa dukkhakkhandhassa
antakiriyā paññāyethāti. So evaṃ pabbajito samāno lābhasakkārasilokaṃ
abhinibbatteti. So tena lābhasakkārasilokena na attamano hoti na paripuṇṇasaṅkappo.
So tena lābhasakkārasilokena na attānukkaṃseti, na paraṃ vambheti. So tena
lābhasakkārasilokena na majjati nappamajjati na pamādaṃ āpajjati, appamatto
samāno sīlasampadaṃ ārādheti. So tāya sīlasampadāya attamano hoti no ca kho
paripuṇṇasaṅkappo. So tāya sīlasampadāya na attānukkaṃseti, na paraṃ vambheti.
So tāya sīlasampadāya na majjati nappamajjati na pamādaṃ āpajjati. Appamatto
samāno samādhisampadaṃ ārādheti . So tāya samādhisampadāya attamano hoti paripuṇṇasaṅkappo.
So tāya samādhisampadāya attānukkaṃseti, paraṃ vambheti : 'ahamasmi samāhito
ekaggacitto, ime panaññe bhikkhū asamāhitā vibbhantacittāti. So tāya
samādhisampadāya majjati pamajjati pamādaṃ āpajjati, pamatto samāno dukkhaṃ
viharati. ''Seyyathāpi , bhikkhave, puriso sāratthiko sāragavesī sārapariyesanaṃ
caramāno mahato rukkhassa tiṭṭhato sāravato atikkammeva sāraṃ atikkamma phegguṃ
tacaṃ chetvā ādāya pakkameyya 'sāranti maññamāno. Tamenaṃ cakkhumā puriso disvā
evaṃ vadeyya 'na vatāyaṃ bhavaṃ puriso aññāsi sāraṃ , na aññāsi phegguṃ, na
aññāsi tacaṃ, na aññāsi papaṭikaṃ, na aññāsi sākhāpalāsaṃ. Tathā hayaṃ bhavaṃ
puriso sāratthiko sāragavesī sārapariyesanaṃ caramāno mahato rukkhassa tiṭṭhato
sāravato atikkammeva sāraṃ atikkamma phegguṃ tacaṃ chetvā ādāya pakkanto
'sāranti maññamāno. Yañcassa sārena sārakaraṇīyaṃ tañcassa atthaṃ
nānubhavissatīti. ''Evameva kho, bhikkhave, idhekacco kulaputto saddhā agārasmā
anagāriyaṃ pabbajito hoti : 'otiṇṇomhi jātiyā jarāya maraṇena sokehi paridevehi
dukkhehi domanassehi upāyāsehi, dukkhotiṇṇo dukkhapareto, appeva nāma imassa
kevalassa dukkhakkhandhassa antakiriyā paññāyethāti. So evaṃ pabbajito samāno
lābhasakkārasilokaṃ abhinibbatteti. So tena lābhasakkārasilokena na attamano
hoti na paripuṇṇasaṅkappo. So tena lābhasakkārasilokena na attānukkaṃseti, na
paraṃ vambheti. So tena lābhasakkārasilokena na majjati nappamajjati na pamādaṃ
āpajjati, appamatto samāno sīlasampadaṃ ārādheti. So tāya sīlasampadāya
attamano hoti no ca kho paripuṇṇasaṅkappo. So tāya sīlasampadāya na attānukkaṃseti,
na paraṃ vambheti. So tāya sīlasampadāya na majjati nappamajjati na pamādaṃ
āpajjati, appamatto samāno samādhisampadaṃ ārādheti. So tāya samādhisampadāya
attamano hoti paripuṇṇasaṅkappo. So tāya samādhisampadāya attānukkaṃseti, paraṃ
vambheti : 'ahamasmi samāhito
ekaggacitto, ime panaññe bhikkhū asamāhitā vibbhantacittāti. So tāya samādhisampadāya majjati pamajjati pamādaṃ
āpajjati, pamatto samāno dukkhaṃ viharati. Ayaṃ vuccati , bhikkhave, bhikkhu
tacaṃ aggahesi brahmacariyassa tena ca vosānaṃ āpādi.
310. ''Idha pana, bhikkhave, ekacco kulaputto saddhā agārasmā
anagāriyaṃ pabbajito hoti : 'otiṇṇomhi jātiyā jarāya maraṇena sokehi paridevehi
dukkhehi domanassehi upāyāsehi, dukkhotiṇṇo dukkhapareto, appeva nāma imassa
kevalassa dukkhakkhandhassa antakiriyā
paññāyethāti. So evaṃ pabbajito samāno lābhasakkārasilokaṃ abhinibbatteti. So
tena lābhasakkārasilokena na attamano hoti na paripuṇṇasaṅkappo. So tena
lābhasakkārasilokena na attānukkaṃseti, na paraṃ vambheti. So tena lābhasakkārasilokena
na majjati nappamajjati na pamādaṃ āpajjati. Appamatto samāno sīlasampadaṃ
ārādheti. So tāya sīlasampadāya attamano hoti, no ca kho paripuṇṇasaṅkappo. So
tāya sīlasampadāya na attānukkaṃseti, na paraṃ vambheti. So tāya sīlasampadāya
na majjati nappamajjati na pamādaṃ āpajjati, appamatto samāno samādhisampadaṃ
ārādheti. So tāya samādhisampadāya attamano hoti, no ca kho paripuṇṇasaṅkappo.
So tāya samādhisampadāya na attānukkaṃseti, na paraṃ vambheti. So tāya
samādhisampadāya na majjati nappamajjati
na pamādaṃ āpajjati appamatto samāno ñāṇadassanaṃ ārādheti. So tena ñāṇadassanena
attamano hoti paripuṇṇasaṅkappo. So tena ñāṇadassanena attānukkaṃseti, paraṃ
vambheti : 'ahamasmi jānaṃ passaṃ viharāmi. Ime panaññe bhikkhū ajānaṃ apassaṃ
viharantīti. So tena ñāṇadassanena majjati pamajjati pamādaṃ āpajjati, pamatto
samāno dukkhaṃ viharati.
''Seyyathāpi, bhikkhave, puriso sāratthiko sāragavesī sārapariyesanaṃ
caramāno mahato rukkhassa tiṭṭhato sāravato atikkammeva sāraṃ phegguṃ chetvā
ādāya pakkameyya 'sāranti maññamāno. Tamenaṃ cakkhumā puriso disvā evaṃ vadeyya
: 'na vatāyaṃ bhavaṃ puriso aññāsi sāraṃ na aññāsi phegguṃ na aññāsi tacaṃ na
aññāsi papaṭikaṃ na aññāsi sākhāpalāsaṃ. Tathā hayaṃ bhavaṃ puriso sāratthiko
sāragavesī sārapariyesanaṃ caramāno mahato rukkhassa tiṭṭhato sāravato atikkammeva sāraṃ phegguṃ
chetvā ādāya pakkanto 'sāranti maññamāno. Yañcassa sārena sārakaraṇīyaṃ
tañcassa atthaṃ nānubhavissatīti. Evameva
kho, bhikkhave, idhekacco kulaputto saddhā agārasmā anagāriyaṃ pabbajito
hoti : 'otiṇṇomhi jātiyā jarāya maraṇena sokehi paridevehi dukkhehi domanassehi
upāyāsehi, dukkhotiṇṇo dukkhapareto, appeva nāma imassa kevalassa
dukkhakkhandhassa antakiriyā paññāyethāti. So evaṃ pabbajito samāno
lābhasakkārasilokaṃ abhinibbatteti. So tena lābhasakkārasilokena na attamano hoti na paripuṇṇasaṅkappo. So
tena lābhasakkārasilokena na attānukkaṃseti, na paraṃ vambheti. So tena lābhasakkārasilokena na majjati
nappamajjati na pamādaṃ āpajjati, appamatto samāno sīlasampadaṃ ārādheti. So
tāya sīlasampadāya attamano hoti, no ca kho paripuṇṇasaṅkappo. So tāya
sīlasampadāya na attānukkaṃseti, na paraṃ vambheti. So tāya sīlasampadāya na
majjati nappamajjati na pamādaṃ āpajjati, appamatto samāno samādhisampadaṃ
ārādheti. So tāya samādhisampadāya attamano hoti, no ca kho paripuṇṇasaṅkappo.
So tāya samādhisampadāya na attānukkaṃseti, na paraṃ vambheti. So tāya
samādhisampadāya na majjati nappamajjati na pamādaṃ āpajjati, appamatto samāno
ñāṇadassanaṃ ārādheti. So tena ñāṇadassanena attamano hoti paripuṇṇasaṅkappo.
So tena ñāṇadassanena attānukkaṃseti, paraṃ vambheti : 'ahamasmi jānaṃ passaṃ
viharāmi, ime panaññe bhikkhū ajānaṃ apassaṃ viharantīti. So tena ñāṇadassanena
majjati pamajjati pamādaṃ āpajjati, pamatto samāno dukkhaṃ viharati. Ayaṃ
vuccati, bhikkhave, bhikkhu phegguṃ aggahesi brahmacariyassa tena ca vosānaṃ
āpādi.
311. ''Idha pana, bhikkhave, ekacco kulaputto saddhā agārasmā
anagāriyaṃ pabbajito hoti : 'otiṇṇomhi jātiyā jarāya maraṇena sokehi paridevehi dukkhehi domanassehi upāyāsehi,
dukkhotiṇṇo dukkhapareto, appeva nāma imassa kevalassa dukkhakkhandhassa
antakiriyā paññāyethāti. So evaṃ pabbajito samāno lābhasakkārasilokaṃ
abhinibbatteti. So tena lābhasakkārasilokena na attamano hoti , na paripuṇṇasaṅkappo.
So tena lābhasakkārasilokena na attānukkaṃseti, na paraṃ vambheti. So tena
lābhasakkārasilokena na majjati nappamajjati na pamādaṃ āpajjati, appamatto
samāno sīlasampadaṃ ārādheti. So tāya sīlasampadāya attamano hoti, no ca kho
paripuṇṇasaṅkappo. So tāya sīlasampadāya na attānukkaṃseti, na paraṃ vambheti.
So tāya sīlasampadāya na majjati nappamajjati na pamādaṃ āpajjati, appamatto
samāno samādhisampadaṃ ārādheti. So tāya samādhisampadāya attamano hoti, no ca
kho paripuṇṇasaṅkappo. So tāya samādhisampadāya na attānukkaṃseti, na paraṃ
vambheti. So tāya samādhisampadāya na majjati nappamajjati na pamādaṃ āpajjati,
appamatto samāno ñāṇadassanaṃ ārādheti. So tena ñāṇadassanena attamano hoti, no
ca kho paripuṇṇasaṅkappo. So tena ñāṇadassanena na attānukkaṃseti, na paraṃ
vambheti. So tena ñāṇadassanena na majjati nappamajjati na pamādaṃ āpajjati,
appamatto samāno asamayavimokkhaṃ
ārādheti. Aṭṭhānametaṃ [aṭṭhānaṃ kho panetaṃ (ka.)], bhikkhave,
anavakāso yaṃ so bhikkhu tāya asamayavimuttiyā parihāyetha. ''Seyyathāpi ,
bhikkhave, puriso sāratthiko sāragavesī sārapariyesanaṃ caramāno mahato
rukkhassa tiṭṭhato sāravato sāraññeva chetvā ādāya pakkameyya 'sāranti
jānamāno. Tamenaṃ cakkhumā puriso disvā evaṃ vadeyya : 'aññāsi vatāyaṃ bhavaṃ
puriso sāraṃ, aññāsi phegguṃ, aññāsi tacaṃ, aññāsi papaṭikaṃ, aññāsi
sākhāpalāsaṃ. Tathā hayaṃ bhavaṃ puriso sāratthiko sāragavesī sārapariyesanaṃ
caramāno mahato rukkhassa tiṭṭhato
sāravato sāraññeva chetvā ādāya pakkanto 'sāranti jānamāno. Yañcassa sārena
sārakaraṇīyaṃ tañcassa atthaṃ anubhavissatīti. ''Evameva kho, bhikkhave,
idhekacco kulaputto saddhā agārasmā anagāriyaṃ pabbajito hoti : 'otiṇṇomhi
jātiyā jarāya maraṇena sokehi paridevehi dukkhehi domanassehi upāyāsehi,
dukkhotiṇṇo dukkhapareto, appeva nāma imassa kevalassa dukkhakkhandhassa
antakiriyā paññāyethāti. So evaṃ
pabbajito samāno lābhasakkārasilokaṃ abhinibbatteti. So tena
lābhasakkārasilokena na attamano hoti, na paripuṇṇasaṅkappo. So tena
lābhasakkārasilokena na attānukkaṃseti, na paraṃ vambheti. So tena
lābhasakkārasilokena na majjati nappamajjati na pamādaṃ āpajjati, appamatto
samāno sīlasampadaṃ ārādheti. So tāya sīlasampadāya attamano hoti, no ca kho
paripuṇṇasaṅkappo. So tāya sīlasampadāya na attānukkaṃseti, na paraṃ vambheti.
So tāya sīlasampadāya na majjati nappamajjati
na pamādaṃ āpajjati, appamatto samāno samādhisampadaṃ ārādheti. So tāya
samādhisampadāya attamano hoti, no ca kho paripuṇṇasaṅkappo. So tāya
samādhisampadāya na attānukkaṃseti, na paraṃ vambheti. So tāya samādhisampadāya
na majjati nappamajjati na pamādaṃ āpajjati, appamatto samāno ñāṇadassanaṃ
ārādheti. So tena ñāṇadassanena attamano hoti, no ca kho paripuṇṇasaṅkappo. So
tena ñāṇadassanena na attānukkaṃseti, na paraṃ vambheti. So tena ñāṇadassanena
na majjati nappamajjati na pamādaṃ āpajjati, appamatto samāno asamayavimokkhaṃ ārādheti. Aṭṭhānametaṃ, bhikkhave, anavakāso
yaṃ so bhikkhu tāya asamayavimuttiyā parihāyetha.
''Iti kho, bhikkhave, nayidaṃ brahmacariyaṃ lābhasakkārasilokānisaṃsaṃ,
na sīlasampadānisaṃsaṃ, na samādhisampadānisaṃsaṃ, na ñāṇadassanānisaṃsaṃ. Yā
ca kho ayaṃ, bhikkhave, akuppā cetovimutti : etadatthamidaṃ, bhikkhave,
brahmacariyaṃ, etaṃ sāraṃ etaṃ pariyosānanti. Idamavoca Bhagavā.
Attamanā te bhikkhū bhagavato bhāsitaṃ abhinandunti.
Mahāsāropamasuttaṃ niṭṭhitaṃ
navamaṃ.
-ooOoo-
29.
Mahāsāropamasuttavaṇṇanā [Atthakathā]
307. Evaṃ me sutanti mahāsāropamasuttaṃ. Tattha acirapakkanteti saṅghaṃ
bhinditvā ruhiruppādakammaṃ katvā nacirapakkante saliṅgeneva pāṭiyekke jāte.
Idha, bhikkhave, ekacco kulaputtoti kiñcāpi asukakulaputtoti na
niyāmito, devadattaṃyeva pana sandhāya idaṃ vuttanti veditabbaṃ. So hi
asambhinnāya mahāsammatapaveṇiyā okkākavaṃse jātattā jātikulaputto. Otiṇṇoti
yassa jāti anto anupaviṭṭhā, so jātiyā otiṇṇo nāma. Jarādīsupi eseva nayo.
Lābhasakkārādīsupi lābhoti cattāro paccayā. Sakkāroti tesaṃyeva sukatabhāvo.
Silokoti vaṇṇabhaṇanaṃ. Abhinibbattetīti uppādeti. Apaññātāti dvinnaṃ janānaṃ ṭhitaṭṭhāne
na paññāyanti, ghāsacchādanamattampi na labhanti. Appesakkhāti appaparivārā,
purato vā pacchato vā gacchantaṃ na labhanti.
Sārena sārakaraṇīyanti rukkhasārena kattabbaṃ akkhacakkayuganaṅgalādikaṃ
yaṃkiñci. Sākhāpalāsaṃ aggahesi brahmacariyassāti maggaphalasārassa
sāsanabrahmacariyassa cattāro paccayā sākhāpalāsaṃ nāma, taṃ aggahesi. Tena ca
vosānaṃ āpādīti teneva ca alamettāvatā sāro me pattoti vosānaṃ āpanno.
310. Ñāṇadassanaṃ ārādhetīti devadatto pañcābhiñño, dibbacakkhu ca
pañcannaṃ abhiññānaṃ matthake ṭhitaṃ, taṃ imasmiṃ sutte ‘‘ñāṇadassana’’nti
vuttaṃ. Ajānaṃ apassaṃ viharantīti kiñci sukhumaṃ rūpaṃ ajānantā antamaso paṃsupisācakampi
apassantā viharanti.
311. Asamayavimokkhaṃ ārādhetīti, ‘‘katamo asamayavimokkho? Cattāro ca ariyamaggā
cattāri ca sāmaññaphalāni, nibbānañca, ayaṃ asamayavimokkho’’ti (paṭi. ma.
1.213) evaṃ vutte navalokuttaradhamme ārādheti sampādeti paṭilabhati.
Lokiyasamāpattiyo hi appitappitakkhaṇeyeva paccanīkadhammehi vimuccanti, tasmā,
‘‘katamo samayavimokkho? Cattāri ca jhānāni catasso ca arūpāvacarasamāpattiyo,
ayaṃ samayavimokkho’’ti evaṃ samayavimokkhoti vuttā. Lokuttaradhammā pana
kālena kālaṃ vimuccanti, sakiṃ vimuttāni hi maggaphalāni vimuttāneva honti.
Nibbānaṃ sabbakilesehi accantaṃ vimuttamevāti ime nava dhammā asamayavimokkhoti
vuttā.
Akuppā cetovimuttīti arahattaphalavimutti. Ayamattho etassāti etadatthaṃ,
arahattaphalatthamidaṃ brahmacariyaṃ. Ayaṃ etassa atthoti vuttaṃ hoti. Etaṃ
sāranti etaṃ arahattaphalaṃ brahmacariyassa sāraṃ. Etaṃ pariyosānanti etaṃ
arahattaphalaṃ brahmacariyassa pariyosānaṃ, esā koṭi, na ito paraṃ pattabbaṃ
atthīti yathānusandhināva desanaṃ niṭṭhapesīti.
Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Mahāsāropamasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
-ooOoo-
Kinh số 30 [tóm tắt]
Tiểu Kinh Thí Dụ Lõi Cây
(Cūḷasāropama Sutta)
(M.i, 128)
Pingalokaccha hỏi đức Phật về nhất
thiết trí của sáu ngoại đạo sư, và đức Phật thuyết giảng kinh này.
Trước hết đức Phật đề cập đến năm hạng người đi tìm lõi cây. Có
người chặt lấy cành lá rồi mang đi tưởng rằng lõi cây; có người
chặt lấy vỏ ngoài rồi mang đi tưởng rằng lõi cây; có người chặt
lấy võ trong rồi mang đi tưởng rằng lõi cây; có người chặt lấy
giác cây rồi mang đi tưởng rằng lõi cây; có người chặt lấy lõi
cây mang đi biết rằng đó là lõi cây, và người ấy đạt được mục
đích mà lõi cây có thể thành tựu.
Cũng vậy, có năm hạng người tu
hành Phạm hạnh. Hạng người đầu dừng lại ở lợi dưỡng, cung kính,
danh vọng; hạng thứ hai dừng lại ở thành tựu giới đức; hạng thứ ba
dừng lại ở thành tựu thiền định; hạng thứ tư dừng ở tri kiến;
hạng thứ năm không dừng ở tri kiến, hoan hỷ nhưng không tự mãn,
không do tri kiến này khen mình chê người, phát khởi ý muốn đạt
được các pháp cao thượng hơn các pháp cao thượng này là bốn
thiền bốn không, diệt thọ tưởng định, sau khi thấy với trí tuệ các
lậu hoặc được đoạn trừ. Ví như một người đi tìm lõi cây, người
ấy đạt được mục đích mà lõi cây có thể thành tựu. Như vậy Phạm
hạnh này không phải vì mục đích lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng,
không phải vì mục đích thành tựu giới đức, thiền định, tri kiến.
Chính tâm giải thoát bất động là mục đích của Phạm hạnh.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 30 [dàn ý]
Tiểu Kinh Thí Dụ Lõi Cây
(Cūḷasāropama Sutta)
(M.i, 128)
A.
Duyên khởi
Bà-la-môn Pingalakoccha đến hỏi Đức Phật về
nhứt thiết trí của 6 ngoại đạo sư. Đức Phật khuyên để một bên vấn đề ấy và thuyết
giảng kinh này.
B.
Chánh kinh:
I. Có
5 hạng người đi tìm lõi cây:
1. Hạng
chặt cành lá đem về.
2. Hạng
chặt vỏ ngoài đem về.
3. Hạng
chặt vỏ trong đem về.
4. Hạng
chặt giác cây đem về.
5. Hạng
chặt lõi cây đem về.
II. Có 5 hạng người xuất gia tương
đương với 5 hạng người đi tìm lõi cây ở trên:
1. Hạng
tự mãn với lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng.
2. Hạng
tự mãn với giới đức.
3. Hạng
tự mãn với thiền định.
4. Hạng
tự mãn với thành tựu tri kiến.
5. Hạng thành tựu 4 thiền, 4 không,
diệt thọ tưởng định và đoạn tận các lậu hoặc.
III. Mục đích của Phạm hạnh không phải
vì lợi ích lợi dưỡng tôn kính danh vọng, thành tựu giới đức, thành tựu thiền định,
thành tựu tri kiến. Mục đích phạm hạnh là tâm giải thoát bất động.
C.
Kết luận:
Lời
tán thán của Bà-la-môn Pingalakoccha xin quy y Thế Tôn.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 29 [toát yếu]
Đại Kinh Thí Dụ Lõi Cây
(Mahāsāropama Sutta)
(M.i, 192)
(Đại Kinh & Tiểu Kinh)
I. TOÁT
YẾU
Mahāsāropama, Cūlasāropama Sutta - the greater
and shorter discourse on the simile of the heartwood.
These two discourses emphasize that the proper goal
of the holy life is the unshakable deliverance of the mind, to which all other
benefits are subsidiary.
Đại kinh và Tiểu kinh Thí dụ lõi cây
Cả hai kinh này nhấn mạnh rằng mục đích
chính của đời sống phạm hạnh là tâm giải thoát bất động, đối với
mục đích này thì tất cả những lợi lạc khác chỉ là cặn bã.
II. TÓM
TẮT
Hai bản kinh cùng có nội dung như sau. Người
ta có thể vì thấy khổ sinh tử nên phát tâm xuất gia tìm cách chấm
dứt toàn bộ khổ uẩn này, như người vào rừng tìm lõi cây.
Nhưng có người, sau khi xuất gia, vì danh dự
lợi dưỡng và sự tôn kính của người đời, đâm ra tự mãn, tham đắm,
tự cho đã đạt mục đích. Người này ví như kẻ thay vì tìm lõi cây,
lại đem về cành lá.
Có người xuất gia dù được danh dự lợi
dưỡng cung kính cũng không phóng dật, sống có giới hạnh. Do thành
tựu giới đức, vị ấy khen mình chê người, trở nên phóng dật: như
người tìm lõi cây mà chỉ đem về vỏ ngoài.
Hạng thứ ba là người sau khi thành tựu
giới, tập thiền định, do thành tựu thiền định, đâm ra tự mãn, khen
mình chê người, trở nên phóng dật. Vị này giống như người đi
rừng cốt lấy lõi cây nhưng chỉ đem về vỏ trong.
Hạng thứ tư không vì thành tựu thiền định mà phóng dật, nên
có được tri kiến, và do tri kiến nên khen mình chê người: hạng này
như người đi rừng chỉ đem về giác cây.
Hạng thứ năm nhờ có tri kiến nhưng không phóng dật, mà thành
tựu giải thoát tạm thời và giải thoát vĩnh viễn. Tâm giải thoát
bất động này chính là lõi cây, là mục tiêu của đời sống
phạm hạnh.
III. CHÚ GIẢI
Tri kiến theo Luận giải là thiên nhãn, khả năng thấy
được những sắc vi tế mà mắt thường không thể trông thấy.
"Thành tựu thiền định" là điều kiện để đạt tri
kiến; tri kiến là căn bản để đắc 4 thiền 4 định và chứng diệt thọ
tưởng - - gọi là thời giải thoát, và lậu tận, gọi là phi
thời giải thoát.
Thời giải thoát, samayavimokkha: Giải thoát
tạm thời, là bốn thiền, bốn định vô sắc và diệt định.
Phi thời giải thoát, asamayavimokkha, là bốn đạo bốn quả và Niết-bàn.
Tâm giải thoát bất động là quả vị
A-la-hán. Như vậy, "phi thời giải thoát" có nghĩa rộng hơn là
tâm "giải thoát bất động", được xem là mục đích duy nhất
của đời sống phạm hạnh.
IV. PHÁP SỐ
Bốn thiền,
Bốn định.
V. KỆ TỤNG
Nhân
Đề bà đạt đa
Bỏ tăng đoàn của Phật
Lập
riêng chúng xuất gia
Thế
Tôn dạy đại chúng:
Kẻ
từ bỏ gia đình
Muốn thoát khổ sinh tử
Như
người tìm lõi cây
Khó
đạt mục đích mình.
Hoặc
tự mãn lợi danh
Mà
trở thành phóng dật
Như
lá cành vụn vặt
Lầm
tưởng là lõi cây.
Hoặc
khi thành tựu Giới
Tự
xem không ai bằng
Như
kẻ kiếm lõi cây
Chỉ đem về lớp vỏ.
Có
người tiến tu lên
Khiến
tâm được định tĩnh
Lại
khen mình chê người
Không
đạt được cốt lõi.
Có
người nhờ định tâm
Đạt
tri kiến sáng suốt
Hoan
hỷ sinh kiêu căng
Lõi
cây chưa tìm được.
Không
tự mãn tri kiến
Chứng
bốn thiền, bốn không
Đạt
tạm thời giải thoát
Vị ấy còn mất mát.
Không
tham đắm tri kiến
Tâm
giải thoát bất động
Đây
chính thực lõi cây
Mục
đích phạm hạnh này.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
30. Cūḷasāropamasuttaṃ [Mūla]
312. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ samayaṃ Bhagavā
sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Atha kho piṅgalakoccho
brāhmaṇo yena Bhagavā tenupasaṅkami
upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ
vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho piṅgalakoccho brāhmaṇo
bhagavantaṃ etadavoca : ''yeme, bho gotama, samaṇabrāhmaṇā saṅghino gaṇino gaṇācariyā
ñātā yasassino titthakarā sādhusammatā, bahujanassa, seyyathidaṃ : pūraṇo
kassapo, makkhali gosālo, ajito kesakambalo, pakudho kaccāyano, sañcayo
[sañjayo (sī. syā. pī. ka.)] belaṭṭhaputto, nigaṇṭho nāṭaputto, sabbete sakāya
paṭiññāya abbhaññaṃsu sabbeva nābbhaññaṃsu, udāhu ekacce abbhaññaṃsu ekacce
nābbhaññaṃsūti? ''alaṃ, brāhmaṇa, tiṭṭhatetaṃ : sabbete sakāya paṭiññāya
abbhaññaṃsu sabbeva nābbhaññaṃsu, udāhu ekacce abbhaññaṃsu ekacce nābbhaññaṃsūti.
Dhammaṃ te, brāhmaṇa, desessāmi, taṃ suṇāhi, sādhukaṃ manasi karohi,
bhāsissāmīti. ''Evaṃ, bhoti kho piṅgalakoccho brāhmaṇo bhagavato paccassosi.
Bhagavā etadavoca :
313. ''Seyyathāpi,
brāhmaṇa, puriso sāratthiko sāragavesī sārapariyesanaṃ caramāno mahato
rukkhassa tiṭṭhato sāravato atikkammeva sāraṃ atikkamma phegguṃ atikkamma tacaṃ atikkamma papaṭikaṃ, sākhāpalāsaṃ chetvā
ādāya pakkameyya 'sāranti maññamāno. Tamenaṃ cakkhumā puriso disvā evaṃ vadeyya
: 'na vatāyaṃ bhavaṃ puriso aññāsi sāraṃ, na aññāsi phegguṃ, na aññāsi tacaṃ,
na aññāsi papaṭikaṃ, na aññāsi sākhāpalāsaṃ. Tathā hayaṃ bhavaṃ puriso
sāratthiko sāragavesī sārapariyesanaṃ caramāno mahato rukkhassa tiṭṭhato sāravato
atikkammeva sāraṃ atikkamma phegguṃ atikkamma tacaṃ atikkamma papaṭikaṃ,
sākhāpalāsaṃ chetvā ādāya pakkanto 'sāranti maññamāno. Yañcassa sārena sārakaraṇīyaṃ
tañcassa atthaṃ nānubhavissatīti.
314. ''Seyyathāpi vā
pana, brāhmaṇa, puriso sāratthiko sāragavesī sārapariyesanaṃ caramāno mahato rukkhassa tiṭṭhato sāravato
atikkammeva sāraṃ atikkamma phegguṃ atikkamma tacaṃ , papaṭikaṃ chetvā
ādāya pakkameyya 'sāranti maññamāno.
Tamenaṃ cakkhumā puriso disvā evaṃ vadeyya : 'na vatāyaṃ bhavaṃ puriso aññāsi
sāraṃ, na aññāsi phegguṃ, na aññāsi tacaṃ, na aññāsi papaṭikaṃ, na aññāsi
sākhāpalāsaṃ. Tathā hayaṃ bhavaṃ puriso sāratthiko sāragavesī sārapariyesanaṃ
caramāno mahato rukkhassa tiṭṭhato sāravato atikkammeva sāraṃ atikkamma phegguṃ
atikkamma tacaṃ papaṭikaṃ chetvā ādāya pakkanto 'sāranti maññamāno. Yañcassa
sārena sārakaraṇīyaṃ tañcassa atthaṃ nānubhavissatīti.
315. ''Seyyathāpi vā
pana, brāhmaṇa, puriso sāratthiko sāragavesī sārapariyesanaṃ caramāno mahato
rukkhassa tiṭṭhato sāravato atikkammeva
sāraṃ atikkamma phegguṃ, tacaṃ chetvā ādāya pakkameyya 'sāranti maññamāno.
Tamenaṃ cakkhumā puriso disvā evaṃ vadeyya : 'na vatāyaṃ bhavaṃ puriso aññāsi
sāraṃ, na aññāsi phegguṃ, na aññāsi tacaṃ, na aññāsi papaṭikaṃ, na aññāsi
sākhāpalāsaṃ. Tathā hayaṃ bhavaṃ puriso sāratthiko sāragavesī sārapariyesanaṃ
caramāno mahato rukkhassa tiṭṭhato sāravato atikkammeva sāraṃ atikkamma phegguṃ,
tacaṃ chetvā ādāya pakkanto 'sāranti maññamāno. Yañcassa sārena sārakaraṇīyaṃ
tañcassa atthaṃ nānubhavissatīti.
316. ''Seyyathāpi vā
pana, brāhmaṇa, puriso sāratthiko sāragavesī sārapariyesanaṃ caramāno mahato
rukkhassa tiṭṭhato sāravato atikkammeva sāraṃ, phegguṃ chetvā ādāya pakkameyya
'sāranti maññamāno. Tamenaṃ cakkhumā puriso disvā evaṃ vadeyya : 'na vatāyaṃ
bhavaṃ puriso aññāsi sāraṃ, na aññāsi phegguṃ, na aññāsi tacaṃ, na aññāsi papaṭikaṃ,
na aññāsi sākhāpalāsaṃ. Tathā hayaṃ bhavaṃ puriso sāratthiko sāragavesī
sārapariyesanaṃ caramāno mahato rukkhassa tiṭṭhato sāravato atikkammeva sāraṃ,
phegguṃ chetvā ādāya pakkanto 'sāranti maññamāno. Yañcassa sārena sārakaraṇīyaṃ
tañcassa atthaṃ nānubhavissatīti.
317. ''Seyyathāpi vā
pana, brāhmaṇa, puriso sāratthiko sāragavesī sārapariyesanaṃ caramāno mahato rukkhassa tiṭṭhato sāravato
sāraññeva chetvā ādāya pakkameyya
'sāranti jānamāno. Tamenaṃ cakkhumā puriso disvā evaṃ vadeyya : 'aññāsi vatāyaṃ
bhavaṃ puriso sāraṃ, aññāsi phegguṃ, aññāsi tacaṃ, aññāsi papaṭikaṃ, aññāsi
sākhāpalāsaṃ. Tathā hayaṃ bhavaṃ puriso sāratthiko sāragavesī sārapariyesanaṃ
caramāno mahato rukkhassa tiṭṭhato sāravato sāraññeva chetvā ādāya pakkanto 'sāranti jānamāno. Yañcassa sārena
sārakaraṇīyaṃ tañcassa atthaṃ anubhavissatīti.
318. ''Evameva kho,
brāhmaṇa, idhekacco puggalo saddhā agārasmā anagāriyaṃ pabbajito hoti : 'otiṇṇomhi
jātiyā jarāya maraṇena sokehi paridevehi dukkhehi domanassehi upāyāsehi,
dukkhotiṇṇo dukkhapareto, appeva nāma imassa kevalassa dukkhakkhandhassa
antakiriyā paññāyethāti. So evaṃ pabbajito samāno lābhasakkārasilokaṃ
abhinibbatteti. So tena lābhasakkārasilokena attamano hoti paripuṇṇasaṅkappo.
So tena lābhasakkārasilokena attānukkaṃseti, paraṃ vambheti : 'ahamasmi lābhasakkārasilokavā,
ime panaññe bhikkhū appaññātā appesakkhāti. Lābhasakkārasilokena ca ye aññe
dhammā uttaritarā ca paṇītatarā ca tesaṃ dhammānaṃ sacchikiriyāya na chandaṃ
janeti, na vāyamati, olīnavuttiko ca hoti sāthaliko. Seyyathāpi so, brāhmaṇa,
puriso sāratthiko sāragavesī sārapariyesanaṃ caramāno mahato rukkhassa tiṭṭhato
sāravato atikkammeva sāraṃ atikkamma phegguṃ atikkamma tacaṃ atikkamma papaṭikaṃ,
sākhāpalāsaṃ chetvā ādāya pakkanto
'sāranti maññamāno. Yañcassa sārena sārakaraṇīyaṃ tañcassa atthaṃ
nānubhavissati. Tathūpamāhaṃ, brāhmaṇa, imaṃ puggalaṃ vadāmi.
319. ''Idha pana,
brāhmaṇa, ekacco puggalo saddhā agārasmā anagāriyaṃ pabbajito hoti : 'otiṇṇomhi
jātiyā jarāya maraṇena sokehi paridevehi dukkhehi domanassehi upāyāsehi,
dukkhotiṇṇo dukkhapareto, appeva nāma imassa kevalassa dukkhakkhandhassa
antakiriyā paññāyethāti. So evaṃ pabbajito samāno lābhasakkārasilokaṃ
abhinibbatteti. So tena lābhasakkārasilokena na
attamano hoti na paripuṇṇasaṅkappo. So tena lābhasakkārasilokena na
attānukkaṃseti, na paraṃ vambheti. Lābhasakkārasilokena ca ye aññe dhammā
uttaritarā ca paṇītatarā ca tesaṃ dhammānaṃ sacchikiriyāya chandaṃ janeti,
vāyamati , anolīnavuttiko ca hoti asāthaliko. So sīlasampadaṃ ārādheti. So tāya
sīlasampadāya attamano hoti, paripuṇṇasaṅkappo. So tāya sīlasampadāya attānukkaṃseti,
paraṃ vambheti : 'ahamasmi sīlavā kalyāṇadhammo, ime panaññe bhikkhū dussīlā
pāpadhammāti. Sīlasampadāya ca ye aññe dhammā uttaritarā ca paṇītatarā ca tesaṃ
dhammānaṃ sacchikiriyāya na chandaṃ
janeti, na vāyamati, olīnavuttiko ca hoti sāthaliko. Seyyathāpi so, brāhmaṇa,
puriso sāratthiko sāragavesī
sārapariyesanaṃ caramāno mahato rukkhassa tiṭṭhato sāravato atikkammeva
sāraṃ atikkamma phegguṃ atikkamma tacaṃ, papaṭikaṃ chetvā ādāya pakkanto
'sāranti maññamāno. Yañcassa sārena sārakaraṇīyaṃ, tañcassa atthaṃ
nānubhavissati. Tathūpamāhaṃ, brāhmaṇa, imaṃ puggalaṃ vadāmi.
320. ''Idha pana,
brāhmaṇa, ekacco puggalo saddhā agārasmā anagāriyaṃ pabbajito hoti : 'otiṇṇomhi
jātiyā jarāya maraṇena sokehi paridevehi dukkhehi domanassehi upāyāsehi,
dukkhotiṇṇo dukkhapareto, appeva nāma imassa kevalassa dukkhakkhandhassa
antakiriyā paññāyethāti. So evaṃ pabbajito samāno lābhasakkārasilokaṃ
abhinibbatteti. So tena lābhasakkārasilokena na attamano hoti, na paripuṇṇasaṅkappo.
So tena lābhasakkārasilokena na attānukkaṃseti, na paraṃ vambheti.
Lābhasakkārasilokena ca ye aññe dhammā uttaritarā ca paṇītatarā ca tesaṃ
dhammānaṃ sacchikiriyāya chandaṃ janeti, vāyamati, anolīnavuttiko ca hoti
asāthaliko. So sīlasampadaṃ ārādheti. So tāya sīlasampadāya attamano hoti no ca
kho paripuṇṇasaṅkappo. So tāya sīlasampadāya na attānukkaṃseti, na paraṃ
vambheti. Sīlasampadāya ca ye aññe dhammā uttaritarā ca paṇītatarā ca tesaṃ
dhammānaṃ sacchikiriyāya chandaṃ janeti, vāyamati, anolīnavuttiko ca hoti
asāthaliko . So samādhisampadaṃ ārādheti. So tāya samādhisampadāya attamano
hoti, paripuṇṇasaṅkappo. So tāya samādhisampadāya attānukkaṃseti, paraṃ
vambheti : 'ahamasmi samāhito ekaggacitto, ime panaññe bhikkhū asamāhitā vibbhantacittāti. Samādhisampadāya
ca ye aññe dhammā uttaritarā ca paṇītatarā ca, tesaṃ dhammānaṃ sacchikiriyāya
na chandaṃ janeti, na vāyamati, olīnavuttiko ca hoti sāthaliko. Seyyathāpi so,
brāhmaṇa, puriso sāratthiko sāragavesī sārapariyesanaṃ caramāno mahato
rukkhassa tiṭṭhato sāravato atikkammeva sāraṃ atikkamma phegguṃ, tacaṃ chetvā
ādāya pakkanto 'sāranti maññamāno. Yañcassa
sārena sārakaraṇīyaṃ tañcassa atthaṃ nānubhavissati. Tathūpamāhaṃ,
brāhmaṇa, imaṃ puggalaṃ vadāmi.
321. ''Idha pana,
brāhmaṇa, ekacco puggalo saddhā agārasmā anagāriyaṃ pabbajito hoti : 'otiṇṇomhi
jātiyā jarāya maraṇena - pe - antakiriyā
paññāyethāti. So evaṃ pabbajito samāno lābhasakkārasilokaṃ abhinibbatteti. So
tena lābhasakkārasilokena na attamano hoti na paripuṇṇasaṅkappo. So tena
lābhasakkārasilokena na attānukkaṃseti, na paraṃ vambheti. Lābhasakkārasilokena
ca ye aññe dhammā uttaritarā ca paṇītatarā ca tesaṃ dhammānaṃ sacchikiriyāya
chandaṃ janeti, vāyamati, anolīnavuttiko ca hoti asāthaliko. So sīlasampadaṃ
ārādheti. So tāya sīlasampadāya attamano hoti, no ca kho paripuṇṇasaṅkappo. So
tāya sīlasampadāya na attānukkaṃseti, na paraṃ vambheti. Sīlasampadāya ca ye
aññe dhammā uttaritarā ca paṇītatarā ca tesaṃ dhammānaṃ sacchikiriyāya chandaṃ
janeti, vāyamati, anolīnavuttiko ca hoti asāthaliko. So samādhisampadaṃ
ārādheti. So tāya samādhisampadāya attamano hoti, no ca kho paripuṇṇasaṅkappo.
So tāya samādhisampadāya na attānukkaṃseti, na paraṃ vambheti. Samādhisampadāya
ca ye aññe dhammā uttaritarā ca paṇītatarā ca tesaṃ dhammānaṃ sacchikiriyāya chandaṃ janeti, vāyamati,
anolīnavuttiko ca hoti asāthaliko. So ñāṇadassanaṃ ārādheti. So tena ñāṇadassanena
attamano hoti, paripuṇṇasaṅkappo . So tena ñāṇadassanena attānukkaṃseti, paraṃ
vambheti : 'ahamasmi jānaṃ passaṃ viharāmi, ime panaññe bhikkhū ajānaṃ apassaṃ viharantīti.
ñĀṇadassanena ca ye aññe dhammā uttaritarā ca paṇītatarā ca tesaṃ dhammānaṃ
sacchikiriyāya na chandaṃ janeti, na vāyamati, olīnavuttiko ca hoti sāthaliko.
Seyyathāpi so, brāhmaṇa, puriso sāratthiko sāragavesī sārapariyesanaṃ caramāno
mahato rukkhassa tiṭṭhato sāravato atikkammeva sāraṃ, phegguṃ chetvā ādāya
pakkanto 'sāranti maññamāno. Yañcassa sārena sārakaraṇīyaṃ tañcassa atthaṃ
nānubhavissati. Tathūpamāhaṃ, brāhmaṇa, imaṃ puggalaṃ vadāmi.
322. ''Idha pana,
brāhmaṇa, ekacco puggalo saddhā agārasmā anagāriyaṃ pabbajito hoti : 'otiṇṇomhi
jātiyā jarāya maraṇena sokehi paridevehi dukkhehi domanassehi upāyāsehi ,
dukkhotiṇṇo dukkhapareto , appeva nāma imassa kevalassa dukkhakkhandhassa
antakiriyā paññāyethāti. So evaṃ pabbajito samāno lābhasakkārasilokaṃ abhinibbatteti. So tena
lābhasakkārasilokena na attamano hoti, na paripuṇṇasaṅkappo. So tena
lābhasakkārasilokena na attānukkaṃseti, na paraṃ vambheti. Lābhasakkārasilokena
ca ye aññe dhammā uttaritarā ca paṇītatarā ca tesaṃ dhammānaṃ sacchikiriyāya
chandaṃ janeti, vāyamati, anolīnavuttiko ca hoti asāthaliko. So sīlasampadaṃ
ārādheti. So tāya sīlasampadāya attamano hoti, no ca kho paripuṇṇasaṅkappo. So
tāya sīlasampadāya na attānukkaṃseti, na paraṃ vambheti. Sīlasampadāya ca ye
aññe dhammā uttaritarā ca paṇītatarā ca tesaṃ dhammānaṃ sacchikiriyāya chandaṃ
janeti, vāyamati, anolīnavuttiko ca hoti asāthaliko. So samādhisampadaṃ
ārādheti. So tāya samādhisampadāya attamano hoti, no ca kho paripuṇṇasaṅkappo.
So tāya samādhisampadāya na attānukkaṃseti, na paraṃ vambheti. Samādhisampadāya
ca ye aññe dhammā uttaritarā ca paṇītatarā ca tesaṃ dhammānaṃ sacchikiriyāya
chandaṃ janeti, vāyamati, anolīnavuttiko ca hoti asāthaliko. So ñāṇadassanaṃ
ārādheti. So tena ñāṇadassanena attamano hoti, no ca kho paripuṇṇasaṅkappo. So
tena ñāṇadassanena na attānukkaṃseti, na
paraṃ vambheti. ñĀṇadassanena ca ye aññe dhammā uttaritarā ca paṇītatarā ca tesaṃ dhammānaṃ sacchikiriyāya chandaṃ
janeti, vāyamati, anolīnavuttiko ca hoti asāthaliko.
323. ''Katame ca,
brāhmaṇa, dhammā ñāṇadassanena uttaritarā ca paṇītatarā ca? idha, brāhmaṇa,
bhikkhu vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ
vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. Ayampi kho, brāhmaṇa,
dhammo ñāṇadassanena uttaritaro ca paṇītataro ca. ''Puna caparaṃ, brāhmaṇa,
bhikkhu vitakkavicārānaṃ vūpasamā ajjhattaṃ sampasādanaṃ cetaso ekodibhāvaṃ
avitakkaṃ avicāraṃ samādhijaṃ pītisukhaṃ dutiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharati.
Ayampi kho, brāhmaṇa, dhammo ñāṇadassanena uttaritaro ca paṇītataro ca. ''Puna
caparaṃ, brāhmaṇa, bhikkhu pītiyā ca virāgā upekkhako ca viharati, sato ca
sampajāno sukhañca kāyena paṭisaṃvedeti,
yaṃ taṃ ariyā ācikkhanti : 'upekkhako satimā sukhavihārīti tatiyaṃ jhānaṃ
upasampajja viharati. Ayampi kho , brāhmaṇa, dhammo ñāṇadassanena uttaritaro ca
paṇītataro ca. ''Puna caparaṃ, brāhmaṇa, bhikkhu sukhassa ca pahānā dukkhassa
ca pahānā pubbeva somanassadomanassānaṃ atthaṅgamā adukkhamasukhaṃ
upekkhāsatipārisuddhiṃ catutthaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. Ayampi kho,
brāhmaṇa, dhammo ñāṇadassanena uttaritaro ca paṇītataro ca.
''Puna caparaṃ, brāhmaṇa,
bhikkhu sabbaso rūpasaññānaṃ samatikkamā paṭighasaññānaṃ atthaṅgamā
nānattasaññānaṃ amanasikārā 'ananto ākāsoti ākāsānañcāyatanaṃ upasampajja
viharati. Ayampi kho, brāhmaṇa, dhammo ñāṇadassanena uttaritaro ca paṇītataro
ca. ''Puna caparaṃ, brāhmaṇa, bhikkhu sabbaso ākāsānañcāyatanaṃ samatikkamma
'anantaṃ viññāṇanti viññāṇañcāyatanaṃ upasampajja viharati. Ayampi kho, brāhmaṇa,
dhammo ñāṇadassanena uttaritaro ca paṇītataro ca. ''Puna caparaṃ, brāhmaṇa,
bhikkhu sabbaso viññāṇañcāyatanaṃ samatikkamma 'natthi kiñcīti ākiñcaññāyatanaṃ
upasampajja viharati. Ayampi kho, brāhmaṇa, dhammo ñāṇadassanena uttaritaro ca
paṇītataro ca. ''Puna caparaṃ, brāhmaṇa,
bhikkhu sabbaso ākiñcaññāyatanaṃ samatikkamma nevasaññānāsaññāyatanaṃ
upasampajja viharati. Ayampi kho, brāhmaṇa, dhammo ñāṇadassanena uttaritaro
ca paṇītataro ca. ''Puna caparaṃ, brāhmaṇa,
bhikkhu sabbaso nevasaññānāsaññāyatanaṃ samatikkamma saññāvedayitanirodhaṃ
upasampajja viharati, paññāya cassa disvā āsavā parikkhīṇā honti. Ayampi kho,
brāhmaṇa, dhammo ñāṇadassanena uttaritaro ca paṇītataro ca. Ime kho, brāhmaṇa,
dhammā ñāṇadassanena uttaritarā ca paṇītatarā ca.
324. ''Seyyathāpi so, brāhmaṇa, puriso sāratthiko sāragavesī
sārapariyesanaṃ caramāno mahato rukkhassa tiṭṭhato sāravato sāraṃyeva chetvā
ādāya pakkanto 'sāranti jānamāno. Yañcassa sārena sārakaraṇīyaṃ tañcassa atthaṃ
anubhavissati. Tathūpamāhaṃ, brāhmaṇa, imaṃ puggalaṃ vadāmi. ''Iti kho, brāhmaṇa,
nayidaṃ brahmacariyaṃ lābhasakkārasilokānisaṃsaṃ, na sīlasampadānisaṃsaṃ, na
samādhisampadānisaṃsaṃ, na ñāṇadassanānisaṃsaṃ. Yā ca kho ayaṃ , brāhmaṇa,
akuppā cetovimutti : etadatthamidaṃ, brāhmaṇa, brahmacariyaṃ, etaṃ sāraṃ etaṃ
pariyosānanti. Evaṃ vutte, piṅgalakoccho brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca :
''abhikkantaṃ, bho gotama, abhikkantaṃ, bho gotama - pe - upāsakaṃ maṃ bhavaṃ
gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gatanti.
Cūḷasāropamasuttaṃ niṭṭhitaṃ
dasamaṃ.
Opammavaggo niṭṭhito tatiyo.
Tassuddānaṃ :
Moḷiyaphaggunariṭṭhañca nāmo, andhavane kathipuṇṇaṃ nivāpo.
Rāsikaṇerumahāgajanāmo,
sārūpamo [sāravaro (syā.), sāravano (ka.)] puna piṅgalakoccho..
-ooOoo-
30. Cūḷasāropamasuttavaṇṇanā
[Atthakathā]
312. Evaṃ me sutanti cūḷasāropamasuttaṃ.
Tattha piṅgalakocchoti so brāhmaṇo piṅgaladhātuko. Kocchoti panassa nāmaṃ,
tasmā ‘‘piṅgalakoccho’’ti vuccati. Saṅghinotiādīsu pabbajitasamūhasaṅkhāto saṅgho
etesaṃ atthīti saṅghino. Sveva gaṇo etesaṃ atthīti gaṇino. Ācārasikkhāpanavasena
tassa gaṇassa ācariyāti gaṇācariyā. Ñātāti paññātā pākaṭā. ‘‘Appicchā santuṭṭhā,
appicchatāya vatthampi na nivāsentī’’tiādinā nayena samuggato yaso etesaṃ
atthīti yasassino. Titthakarāti laddhikarā. Sādhusammatāti ime sādhu sundarā
sappurisāti evaṃ sammatā. Bahujanassāti assutavato andhabālaputhujjanassa.
Idāni te dassento seyyathidaṃ pūraṇotiādimāha. Tattha pūraṇoti tassa satthupaṭiññassa
nāmaṃ. Kassapoti gottaṃ. So kira aññatarassa kulassa ekūnadāsasataṃ pūrayamāno
jāto, tenassa ‘‘pūraṇo’’ti nāmaṃ akaṃsu. Maṅgaladāsattā cassa ‘‘dukkaṭa’’nti
vattā natthi, akataṃ vā na katanti. ‘‘So kimahamettha vasāmī’’ti palāyi.
Athassa corā vatthāni acchindiṃsu. So paṇṇena vā tiṇena vā paṭicchādetumpi
ajānanto jātarūpeneva ekaṃ gāmaṃ pāvisi. Manussā taṃ disvā, ‘‘ayaṃ samaṇo arahā
appiccho, natthi iminā sadiso’’ti pūvabhattādīni gahetvā upasaṅkamanti. So
‘‘mayhaṃ sāṭakaṃ anivatthabhāvena idaṃ uppanna’’nti tato paṭṭhāya sāṭakaṃ
labhitvāpi na nivāsesi, tadeva pabbajjaṃ aggahesi. Tassa santike aññepi
pañcasatā manussā pabbajiṃsu, taṃ sandhāyāha ‘‘pūraṇo kassapo’’ti.
Makkhalīti tassa nāmaṃ.
Gosālāya jātattā gosāloti dutiyaṃ nāmaṃ. Taṃ kira sakaddamāya bhūmiyā telaghaṭaṃ
gahetvā gacchantaṃ, ‘‘tāta, mā khalī’’ti sāmiko āha. So pamādena khalitvā
patitvā sāmikassa bhayena palāyituṃ āraddho. Sāmiko upadhāvitvā sāṭakakaṇṇe
aggahesi. Sopi sāṭakaṃ chaḍḍetvā acelako hutvā palāyi, sesaṃ pūraṇasadisameva.
Ajitoti tassa nāmaṃ.
Kesakambalaṃ dhāretīti kesakambalo. Iti nāmadvayaṃ saṃsanditvā ‘‘ajito
kesakambalo’’ti vuccati. Tattha kesakambalo nāma manussakesehi katakambalo,
tato paṭikiṭṭhataraṃ vatthaṃ nāma natthi. Yathāha – ‘‘seyyathāpi, bhikkhave,
yāni kānici tantāvutānaṃ vatthānaṃ, kesakambalo tesaṃ paṭikiṭṭho akkhāyati,
kesakambalo, bhikkhave, sīte sīto uṇhe uṇho dubbaṇṇo duggandho dukkhasamphasso’’ti
(a. ni. 3.138).
Pakudhoti tassa nāmaṃ.
Kaccāyanoti gottaṃ. Iti nāmagottaṃ saṃsanditvā, ‘‘pakudho kaccāyano’’ti
vuccati. Sītudakapaṭikkhittako esa, vaccaṃ katvāpi udakakiccaṃ na karoti, uṇhodakaṃ
vā kañjiyaṃ vā labhitvā karoti, nadiṃ vā maggodakaṃ vā atikkamma, ‘‘sīlaṃ me
bhinna’’nti vālikathūpaṃ katvā sīlaṃ adhiṭṭhāya gacchati, evarūpo
nissirikaladdhiko esa.
Sañjayoti tassa nāmaṃ. Belaṭṭhassa
puttoti belaṭṭhaputto. Amhākaṃ gaṇṭhanakileso palibujjhanakileso natthi,
kilesagaṇṭharahitā mayanti evaṃ vāditāya laddhanāmavasena nigaṇṭho. Nāṭassa
puttoti nāṭaputto. Abbhaññaṃsūti yathā tesaṃ paṭiññā, tatheva jāniṃsu. Idaṃ
vuttaṃ hoti – sace nesaṃ sā paṭiññā niyyānikā sabbe abbhaññaṃsu. No ce, na
abbhaññaṃsu. Tasmā kiṃ tesaṃ paṭiññā niyyānikā na niyyānikāti, ayametassa
pañhassa attho. Atha bhagavā nesaṃ aniyyānikabhāvakathanena atthābhāvato alanti
paṭikkhipitvā upamāya atthaṃ pavedento dhammameva desetuṃ, dhammaṃ, te brāhmaṇa,
desessāmīti āha.
320. Tattha sacchikiriyāyāti
sacchikaraṇatthaṃ. Na chandaṃ janetīti kattukamyatāchandaṃ na janayati. Na
vāyamatīti vāyāmaṃ parakkamaṃ na karoti. Olīnavuttiko ca hotīti līnajjhāsayo
hoti. Sāthalikoti sithilaggāhī, sāsanaṃ sithilaṃ katvā gaṇhāti, daḷhaṃ na gaṇhāti.
323. Idha, brāhmaṇa bhikkhu,
vivicceva kāmehīti kathaṃ ime paṭhamajjhānādidhammā ñāṇadassanena uttaritarā
jātāti? Nirodhapādakattā. Heṭṭhā paṭhamajjhānādidhammā hi vipassanāpādakā, idha
nirodhapādakā, tasmā uttaritarā jātāti veditabbā. Iti bhagavā idampi suttaṃ
yathānusandhināva niṭṭhapesi. Desanāvasāne brāhmaṇo saraṇesu patiṭṭhitoti.
Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Cūḷasāropamasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tatiyavaggavaṇṇanā niṭṭhitā.
-ooOoo-
No comments:
Post a Comment