Bài 19
Tâm Si (Mohamulācitta)
Tâm Si - mohacitta - được hiểu là tâm có chất liệu khiến sự nhận
thức mê mờ, không chính xác. Thắng Pháp Abhidhamma nêu rõ sự khác biệt giữa tâm
ly trí (không có trí tuệ) và tâm si (đi với thuộc tánh si ám). Có thể thí dụ tâm
ly trí giống như trong một căn nhà bình thường lúc nào đó không có người tài năng
xuất chúng nhưng vẫn có thể tồn tại bình thường. Còn tâm si giống như trong nhà
có người hay làm việc dại dột có thể tạo nên nhiều thứ bất thường như tai hoạ
chẳng hạn.
Tâm si và thuộc tánh si
Tất cả tâm si đều có thuộc tánh si – và rõ hơn là bốn thuộc tánh
si phần. Thế nhưng vai trò của thuộc tánh si lại có mang tánh cách đặc
biệt hơn tâm si. Nếu so với tâm tham (sự dính mắc với cảnh) hay tâm sân
(sự khó chịu đối với cảnh) thì hai tâm si tương đối trong tình trạng bị động với
thọ xả. Trong lúc thuộc tánh si chính là vô minh (avijjà) có mặt trong tất cả tâm
bất thiện và chi phối tất cả hành động tạo tác thiện ác tạo nên quả luân hồi. Rất
cần thiết để phân rõ sự khác biệt giữa tâm si và thuộc tánh si.
Hai thứ tâm si
Thắng Pháp Abhidhamma nêu hai thứ tâm si:
1. Tâm si nghi hoặc thọ xả (upekkhāsahagataṃ
vicikicchāsampayuttaṃ)
2. Tâm si giao động thọ xả (upekkhāsahagataṃ
uddhaccasampayuttaṃ)
Tâm si nghi hoặc (vicikicchāsampayuttaṃ)
là trạng thái tâm trù trừ (có lẽ chính xác nhất là chữ “lừng khừng” trong cách
nói bình thường. Có thể thí dụ như một người cầm một thực đơn viết bằng ngoại
ngữ bản thân không đọc được. Thay vì cứ chọn một thứ hay đứng dây đi nơi khác tìm
thức ăn mình biết hơn thì cứ ngồi đó lật qua lật lại không biết chọn món nào mặc
dù có đọc thêm 10 phút trong sự lưỡng lự cũng không giúp ích gì.
Phải lưu ý hai điều ở đây.
Thứ nhất nhiều bản dịch Việt gọi là tâm si hoài nghi. Chữ hoài
nghi không nhất nói chính xác ý nghĩa của tâm si nầy và cũng không hẳn là bất
thiện. Nghe một người hay nói dối chuyển thông tin gì đó nên thấy hoài nghi
(hay hồ nghi). Trạng thái đó không gọi là tâm si nghi hoặc mà chỉ là sự không cả
tin đối với điều đáng cân nhắc. Cũng có thể là thứ trí tuệ. Chính vì vậy giáo
trình nầy chọn chữ nghi hoặc.
Thứ hai, nhiều quyển sách và giáo trình định nghĩa tâm si nghi hoặc
là sự hoài nghi Tam Bảo, hoài nghi nghiệp báo, hoài nghi tam thế (…). Định nghĩa
như vậy rất hạn hẹp. Một người không biết gì về Tam Bảo, nghiệp báo, luân hồi nên
chưa bao giờ có hoài nghi gì nhưng không có nghĩa là không có tâm si hoài nghi.
Những nghi hoặc về Tam Bảo, nghiệp báo, luân hồi là tâm si nghi hoặc nhưng tâm
si nghi hoặc không phải chỉ có chừng đó.
Tâm si giao động (uddhaccasampayuttaṃ) là tâm bị nhiễu loạn trước cảnh thí dụ như trong một gia đình thiếu
kiến thức, tiền bạc, thân thế khi gặp chuyện lớn hay nhỏ thường “lao xao” thiếu
sự điềm đạm, vững chãi.
Chữ
uddhacca được Ngài Tịnh Sự dịch là phóng dật; Hoà thượng Minh Châu dịch là trạo
cữ. Từ ngữ phóng dật trong chữ Hán (dù là cổ văn hay kim văn) đều mang ý nghĩa
là ý nghĩa là là sự buông thả, giãi đãi, dễ ngươi (đôi khi cũng gọi là dễ duôi).
Từ ngữ phóng dật được HT Thích Minh Châu dùng để dịch cho thuật ngữ pamāda. Ngài
Tịnh Sự giải thích hai chữ phóng dật và trạo cữ đều dịch theo “nghĩa dụ”: phóng
là ném, dật là tung giống như đống tro bị hòn đá ném vào tung toé tro bụi; trạo
cữ là mái chèo khua động khiến mặt hồ giao động. (Rất tiếc không tìm thấy được định
nghĩa nầy ở trong các sách đã đọc). Cả hai đều chỉ cho sự giao động, một từ ngữ
quen thuộc với phần đông nên chọn chữ nầy.
Trong cuộc sống hằng ngày có nhiều trường hợp chúng ta thiếu kiến
thức về lãnh vực nào đó khi nghe ai nói tới đề tài liên hệ thì hiểu một cách mơ
hồ cái đó không phải do tâm si hay người như vậy không phải là người u mê. Có
những lúc tâm không có trí tuệ nhưng không phải là tâm si như nước thiếu chất
khoáng nào đó. Tâm si giống như nước bị mờ đục vì pha bùn rất khác với nước
trong mà thiếu chất khoáng (…)
Tâm si
thường được hiểu là sự u mê thiếu trí tuệ. Định nghĩa như thế có thể không đúng
theo Thắng Pháp. Đó là thứ tâm mờ đục vì nghi hoặc hay giao động. Câu chuyện
sau đây, trích từ quyển Cổ Học Tinh Hoa của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc và Từ An Trần
Lê Nhân là một thí dụ nên cẩn trọng với đề tài nầy:
A Lưu là một tên tiểu đồng nhà ông Chu Nguyên Tố. Nó thực là ngây ngô, không được
việc gì cả, mà ông Nguyên Tố vẫn nuôi nó suốt đời.
Lúc
ông bảo nó quét nhà, nó cầm chổi quanh quẩn suốt buổi mà không sạch được một
cái buồng con. Ông giận mắng, thì nó quăng chổi xuống đất, lẩm bẩm nói:
"Ông quét giỏi, thì ông phiền tôi làm gì!"
Khi
ông đi đâu vắng, sai nó chực ngoài cửa, dù khách quen đến, nó cũng không nhớ được
tên ai. Có hỏi, thì nó nói: "Người ấy lùn mà béo. Người ấy gầy mà lắm râu.
Người ấy xinh đẹp. Người ấy tuổi tác và chống gậy..." Ðến lúc nó liệu chừng
không nhớ xuể, thì nó đóng cửa lại, không cho ai vào nữa.
Trong
nhà có chứa một ít đồ cổ như chén, lọ, đỉnh, đôn. Khách đến chơi, nó đem bầy ra
cho xem. Lúc khách về, nó lén đến gõ các thứ ấy, mà nói: "Những cái này có
khi bằng đồng mà sao nó đen xì lại như thế này!" Rồi nó chạy đi lấy cát, lấy
đá, lấy nước để đánh.
Nhà có
cái ghế gãy chân, ông sai đi chặt cành cây có chạc, để chữa lại thì nó cầm búa,
cầm cưa đi khắp vườn. Hết ngày, về, nó chìa hai ngón tay làm hiệu mà nói:
"Cành cây có chạc đều chỉa trở lên cả, không có cành nào mọc chúc xuống đất."
Cả nhà ai cũng phải phì cười.
Trước
sân có vài cây liễu mới trồng. Ông sợ trẻ láng giềng đến nghịch hỏng, sai nó
trông nom giữ gìn, đến lúc nó vào ăn cơm, thì nó nhổ cả cây lên mà cất đi một
chỗ.
Công
việc nó làm, nhiều chuyện đáng bật cười như thế cả.
Ông
Nguyên Tố là một người viết chữ chân tốt mà vẽ lại giỏi lắm. Một hôm, ông hòa
phấn với mực để vẽ, thấy A Lưu đấy, nói đùa với nó rằng: "Mày có vẽ được
không?"
A
Lưu đáp: "Khó gì mà không vẽ đươc." Ông bảo vẽ thì A Lư vẽ nét đậm,
nét nhạt, nét xa, nét gần, như người xưa nay vốn đã biết vẽ. Ông thấy vậy thử
luôn mấy lần, lần nào A Lưu vẽ cũng được như ý cả.
Tự
bấy giờ, ông dùng đến A Lưu luôn không lúc nào là rời ra nữa. Sau A Lưu nổi tiếng
là một nhà danh họa.
Tâm
si là thứ tâm mờ đục nên không nhận rõ sự việc
Có
hai thứ tâm si là tâm si nghi hoặc và tâm si giao động.
Hai
tâm si không có vai trò sâu rộng như thuộc tánh si (tức vô minh)
Tâm
si trong biểu đồ chư pháp:
Bài
học trước là: Tâm Sân
Bài
học tiếp theo sẽ là: Tâm Thiện Đa Nhiệm
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 1. Có nhiều người quan niệm là một tăng sĩ có quan điểm nghi ngờ về Đức Phật là người có tà kiến. Trong Thắng Pháp thì tâm nghi hoặc là tâm si trong lúc tà kiến thuộc tâm tham.Như vậy sự nghi hoặc của một tăng sĩ đối với Tam Bảo có được xem là tà kiến? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 2. Có nhiều người được gọi là trí thức nhưng theo chủ nghĩa hoài nghi như vậy đó là người trí tuệ hay si mê? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 3. Nếu so sánh thì phải chăng tâm si ít tạo nghiệp ác hơn tâm tham và tâm sân? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 4. Phải chăng những tâm nghi hoặc hay trạo cử là thứ phiền não thụ động? - TT Tuệ Siêu
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment