18. Kinh Mật Hoàn
(Madhupiṇḍika Sutta)
Mật hoàn có nghĩa là
bánh mật, một loại bánh thơm ngon. Tên kinh không liên hệ gì với nội dung bài
kinh. Một chi tiết cuối bài kinh là khi tôn giả Ananda nghe được ý nghĩa của
những gì được nói Ngài rất hoan hỷ bày tỏ cảm tưởng như một người đang đói lả
được ăn một cái bánh mật thật ngon. Đức Phật nhân đó dạy rằng: vậy cứ gọi là
pháp môn bánh mật.
Bài kinh là một giai thoại có ba phân đoạn. Đầu tiên là một người thuộc
hoàng tộc Thích Ca đến gặp tại Đại Lâm hỏi về một câu về tổng quan giáo pháp
của Đức Phật. Đức Phật hiểu chủ tâm của vị nầy nên trả lời một câu tương đối
khó hiểu. Sau đó Đức Phật thuật lại câu chuyện cho chư tỳ kheo nghe nguyên câu
chuyện rồi Ngài đi vào hương thất. Cuối cùng chư tỳ kheo thỉnh cầu tôn giả
Mahàkaccayana giải thích rộng rãi ý nghĩ lời Phật dạy. Lời giảng rộng của Tôn
giả được Đức Thế Tôn xác nhận là phù hợp với ý của Phật.
091. Một câu hỏi lớn
được trả lời một cách cô đọng
Dandapani Sakka là một hoàng thân dòng Thích Ca. Vị nầy
là em ruột của Vua Thiện Giác, Hoàng Hậu Màyà và Di mẫu Mahàpajàpati Gotamì.
Như vậy trên phương diện huyết thống vị nầy là cậu ruột của Đức Phật. Khi
Devadatta (Đề Bà Đạt Đa), cháu gọi Dandapani bằng chú, chia rẽ Tăng Chúng với
việc đứng ra lập giáo riêng thì Dandapani đứng về phía Devadatta.
Gọi là Dandapani vì vị nầy đi đâu cũng mang theo cây gậy
bọc vàng ròng ở đầu gậy với thái độ của một vương gia quý tộc.
Như vầy tôi nghe
Một thời, Thế Tôn sống giữa các vị dòng họ Sakka (Thích-ca), tại
Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), ở vườn Nigrodārāma.
Rồi Thế Tôn
vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát vào thành Kapilavatthu để khất thực.
Sau khi khất thực ở Kapilavatthu, khi ăn xong, trên đường khất thực
trở về, Thế Tôn đi đến Ðại Lâm để nghỉ trưa. Sau khi vào rừng Ðại
Lâm, Ngài ngồi nghỉ trưa dưới gốc cây Beluvalaṭṭhika.
Có vị Gậy cầm
tay (Daṇḍapāni) Sakka (Thích-ca), kéo bộ khắp nơi, ngao du thiên hạ,
đến tại rừng Ðại Lâm, đi sâu vào ngôi rừng, đến tại Beluvalaṭṭhika
chỗ Thế Tôn ở, khi đến xong nói lên những lời hỏi thăm xã giao
thân hữu, rồi đứng một bên, dựa trên cây gậy, đứng một bên. Gậy
cầm tay Sakka nói với Thế Tôn: "Sa-môn có quan điểm thế nào,
giảng thuyết những gì?"
-- "Này
Hiền giả, theo lời dạy của Ta, trong thế giới với chư Thiên, Māra và
Phạm thiên, với các chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài
Người, không có tranh luận một ai ở đời; các tưởng sẽ không ám
ảnh vị Bà-la-môn sống không bị dục triền phược, không có nghi ngờ
do dự, với mọi hối quá đoạn diệt, không có tham ái đối với hữu và
phi hữu. Này Hiền giả, như vậy là quan điểm của Ta, như vậy là lời
Ta giảng dạy".
Khi nghe nói
vậy, Gậy cầm tay Sakka lắc đầu, liếm lưỡi, với trán nổi lên ba
đường nhăn, chống gậy rồi đi.
Rồi Thế Tôn
vào buổi chiều từ Thiền tịnh độc cư đứng dậy, đi đến vườn
Nigrodha, khi đến xong, ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế
Tôn gọi các Tỷ-kheo:
-- Chư Tỷ-kheo,
ở đây, Ta vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát vào thành Kapilavatthu để
khất thực. Sau khi khất thực ở Kapilavatthu, ăn xong, trên đường khất
thực trở về, Ta đi đến Ðại Lâm để nghỉ trưa. Sau khi vào rừng Ðại
Lâm, Ta ngồi nghỉ trưa dưới gốc cây Beluvalaṭṭhika. Có vị Gậy cầm
tay Sakka kéo bộ khắp nơi, ngao du thiên hạ, đến tại rừng Ðại Lâm,
đi sâu vào ngôi rừng, đến tại Beluvalaṭṭhika chỗ Ta ở, khi đến xong,
nói lên những lời hỏi thăm xã giao thân hữu, rồi đứng một bên,
dựa trên cây gậy. Ðứng một bên, Gậy cầm tay Sakka nói với Ta như
sau: "Sa-môn có quan điểm thế nào, giảng thuyết những gì?"
Chư Tỷ-kheo, được nói vậy, Ta trả lời Gậy cầm tay Sakka: "Này
Hiền giả, theo lời Ta dạy trong thế giới với chư Thiên, Māra, và
Phạm thiên, với các chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài
Người, không có tranh luận một ai ở đời. Các tưởng sẽ không ám
ảnh vị Bà-la-môn sống không bị dục triền phược, không có nghi ngờ
do dự, với mọi hối quá đoạn diệt, không có tham ái đối với hữu và
phi hữu. Này Hiền giả, như vậy là quan điểm của Ta, như vậy là lời
Ta giảng dạy". Khi nghe nói vậy, Gậy cầm tay Sakka lắc đầu, liếm
lưỡi, với trán nổi lên ba đường nhăn, chống gậy rồi đi.
Khi nghe nói
vậy, một Tỷ-kheo bạch Thế Tôn:
-- Nhưng bạch
Thế Tôn, lời dạy ấy là gì mà Thế Tôn, trong thế giới với chư
Thiên, Mara và Phạm thiên, với các chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư
Thiên và loài Người, không có tranh luận một ai ở đời? Các tưởng
sẽ không ám ảnh Thế Tôn, vị đã sống không bị dục triền phược,
không có nghi ngờ do dự, với mọi hối quá đoạn diệt, không có tham
ái đối với hữu và phi hữu?
-- Này Tỷ-kheo,
do bất cứ nhân duyên gì, một số hý luận vọng tưởng ám ảnh một
người. Nếu ở đây không có gì đáng tùy hỷ, đáng đón mừng, đáng
chấp thủ, thời như vậy là sự đoạn tận tham tùy miên, sự đoạn tận
sân tùy miên, sự đoạn tận kiến tùy miên, sự đoạn tận nghi tùy
miên, sự đoạn tận mạn tùy miên, sự đoạn tận hữu tham tùy miên, sự
đoạn tận vô minh tùy miên, sự đoạn tận chấp trượng, chấp kiếm,
đấu tranh, tránh tranh, luận tranh, kháng tranh, ly gián ngữ, vọng ngữ.
Chính ở đây, những ác, bất thiện pháp này đều được tiêu diệt, không
còn dư tàn.
Thế Tôn thuyết
giảng như vậy. Sau khi nói vậy, Thiện Thệ từ chỗ ngồi đứng dậy
bước vào tịnh xá.
092. Một bâc
thánh đại đệ tử quảng diễn lời dạy của Bậc Đạo Sư
Tôn giả
Mahàkaccayàna sanh ở Ujjenī kinh đô xứ
Avanti, một trong bốn quốc độ rộng lớn cổ Ấn thời Đức Phật. Là một người bác
lãm kinh Veda, trước khi xuất gia theo Phật tôn giả đã là quốc sư của vua Candappajjota. Tôn giả là một trong những đại đệ tử của Đức
Phật với sở trường quảng diễn những gì được Phật dạy một cách tóm tắt. Ngài
được biết là có tướng hảo quang minh và là tác giả của tập sách Nettippakarana, một tác phẩm dạy về ngữ
pháp Pàlì còn lưu lại tới ngày nay.
Sau khi Thế Tôn
đi chẳng bao lâu, các Tỷ-kheo ấy suy nghĩ: "Chư Hiền, Thế Tôn
sau khi nói lên lời dạy tóm tắt này cho chúng ta, không giải thích
rộng rãi ý nghĩa, từ chỗ ngồi đứng dậy và đã đi vào tịnh xá:
"Này Tỷ-kheo, do bất cứ nhân duyên gì... không còn dư
tàn". Nay ai có thể giải thích rộng rãi ý nghĩa lời giảng
được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, và không giải thích rõ
ràng ý nghĩa". Rồi những Tỷ-kheo ấy suy nghĩ: "Nay có Tôn
giả Mahākaccāna (Ðại Ca-chiên-diên) là vị được Thế Tôn tán dương
và được các vị đồng phạm hạnh có trí kính trọng. Tôn giả Mahākaccāna
có thể giải thích rộng rãi ý nghĩa lời giảng dạy này được Thế
Tôn nói lên một cách vắn tắt, và không giải thích rõ ràng ý
nghĩa. Vậy chúng ta hãy đi đến chỗ Tôn giả Mahākaccāna ở, sau khi
đến, sẽ hỏi Tôn giả Mahākaccāna ý nghĩa này".
Rồi những
Tỷ-kheo ấy đến chỗ Tôn giả Mahākaccāna ở, sau khi đến, nói lên những
lời chúc tụng, hỏi thăm xã giao với Tôn giả Mahākaccāna rồi ngồi
xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, những Tỷ- kheo ấy thưa
với Tôn giả Mahākaccāna:
-- "Này
Hiền giả, Thế Tôn sau khi nói lên lời dạy tóm tắt này và không
giải thích rõ ràng ý nghĩa, từ chỗ ngồi đứng dậy và đã đi vào
tịnh xá: "Này Tỷ-kheo, do bất cứ nhân duyên gì... không còn dư
tàn".
Này Hiền giả Mahākaccāna,
khi Thế Tôn đi chưa bao lâu, chúng tôi suy nghĩ: "Chư Hiền, Thế
Tôn sau khi nói lên lời dạy vắn tắt này cho chúng ta... đã đi vào
tịnh xá:" Do bất cứ nhân duyên gì... không còn dư tàn". Ai
có thể giải thích rộng rãi ý nghĩa lời giảng dạy mà Thế Tôn nói
lên một cách vắn tắt... không giải thích rõ ràng ý nghĩa?"
Này Hiền giả Mahākaccāna, rồi chúng tôi suy nghĩ: "Nay Tôn giả Mahākaccāna
được Thế Tôn tán thán và được các vị đồng phạm hạnh có trí
kính trọng, Tôn giả Mahākaccāna có thể giải thích rộng rãi ý nghĩa
lời giảng dạy được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt và không
giải thích rõ ràng ý nghĩa. Vậy chúng ta hãy đi đến chỗ Tôn giả Mahākaccāna
ở, sau khi đến, chúng ta hỏi Tôn giả Mahākaccāna ý nghĩa này. Tôn
giả Mahākaccāna sẽ giải thích cho".
-- Chư Hiền,
cũng như một người ưa thích lõi cây, tìm tòi lõi cây, đi khắp
mọi nơi tìm lõi cây, đến một cây to lớn, đứng thẳng và có lõi
cây. Người này bỏ qua rễ, bỏ qua thân cây, nghĩ rằng phải tìm lõi
cây ở nơi cành lá. Cũng vậy là hành động của chư Tôn giả, đứng
trước mặt Thế Tôn, quý vị bỏ qua Thế Tôn, nghĩ rằng phải hỏi tôi
về ý nghĩa này. Chư Hiền, Thế Tôn biết những gì cần phải biết,
thấy những gì cần phải thấy, Ngài đã trở thành vị có mắt, trở
thành vị có trí, trở thành Chánh pháp, trở thành Brahma, vị thuyết
giả, vị diễn giả, vị đem lại mục tiêu, vị trao cho bất tử, vị Pháp
Chủ, Như Lai. Quý vị phải tùy thời hỏi Thế Tôn ý nghĩa này. Những
gì Thế Tôn giải thích cho quý vị, quý vị hãy như vậy thọ trì.
-- Hiền giả Mahākaccāna,
chắc chắn Thế Tôn biết những gì cần phải biết, thấy những gì cần
phải thấy, Ngài đã trở thành vị có mắt, trở thành vị có trí, trở
thành Chánh pháp, trở thành Brahma, vị thuyết giả, vị diễn giả, vị
đem lại mục tiêu, vị trao cho bất tử, vị Pháp Chủ, Như Lai. Chúng
tôi phải tùy thời hỏi Thế Tôn ý nghĩa này. Những gì Thế Tôn giải
thích cho chúng tôi, chúng tôi sẽ như vậy thọ trì. Nhưng Tôn giả
Mahakaccana được Thế Tôn tán thán, được các vị đồng phạm hạnh có
trí kính trọng. Tôn giả Mahākaccāna có thể giải thích rộng rãi ý
nghĩa lời giảng dạy được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt và
không giải thích rõ ràng ý nghĩa. Mong Tôn giả Mahākaccāna hãy giải
thích không có sự gì bất kính.
-- Vậy chư
Hiền hãy nghe và khéo tác ý, tôi sẽ giảng.
-- Thưa vâng,
Hiền giả.
Các Tỷ-kheo ấy
vâng đáp Tôn giả Mahākaccāna. Tôn giả Mahākaccāna giảng như sau:
-- Chư Hiền,
Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt lời dạy này... và đã đi vào
tịnh xá: "Này Tỷ-kheo bất cứ vì nhân duyên gì... không còn dư
tàn". Chư Hiền, với lời dạy được Thế Tôn nói lên một cách
vắn tắt, và không giải thích rõ ràng ý nghĩa. Tôi hiểu ý nghĩa
một cách đầy đủ như sau:
Chư Hiền, do
nhơn con mắt và các sắc pháp, nhãn thức khởi lên. Sự gặp gỡ của
ba pháp này là xúc. Do duyên xúc nên có cảm thọ. Những gì có cảm
thọ thời có tưởng, những gì có tưởng thời có suy tầm, những gì
có suy tầm thì có hý luận. Do hý luận ấy làm nhơn, một số hý
luận vọng tưởng ám ảnh một người, đối với các sắc pháp do con
mắt nhận thức, quá khứ, tương lai và hiện tại.
Chư Hiền, do
nhơn lỗ tai và các tiếng, nhĩ thức khởi lên, do nhơn lỗ mũi và các
hương, tỷ thức khởi lên, do nhơn lưỡi và các vị, thiệt thức khởi
lên, do nhơn thân và xúc, thân thức khởi lên; do nhơn ý và các
pháp, ý thức khởi lên. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên
xúc nên có các cảm thọ. Những gì có cảm thọ thời có tưởng.
Những gì có tưởng thời có suy tầm. Những gì có suy tầm thời có
hý luận. Do hý luận ấy làm nhơn, một số hý luận vọng tưởng ám
ảnh một người, đối với các pháp do ý thức nhận thức, quá khứ,
tương lai, hiện tại.
Chư Hiền, sự
kiện này xảy ra: khi nào có mắt, khi nào có sắc pháp, khi nào có
nhãn thức, thời sự thi thiết của xúc được hiển lộ. Sự kiện này
xảy ra: khi nào có sự thi thiết của xúc thời sự thi thiết của thọ
được hiển lộ. Sự kiện này xảy ra: khi nào có thi thiết của thọ
thời sự thi thiết của tưởng được hiển lộ. Sự kiện này xảy ra: khi
nào có sự thi thiết của tưởng, thời sự thi thiết của suy tầm được
hiển lộ. Sự kiện này xảy ra: khi nào có sự thi thiết của suy tầm
thời sự thi thiết của sự ám ảnh một số hý luận vọng tưởng được
hiển lộ.
Sự kiện này
xảy ra: khi nào có tai, khi nào có các tiếng, khi nào có nhĩ thức...
Sự kiện này xảy ra: khi nào có lỗ mũi, khi nào có các hương, khi
nào có tỷ thức... Sự kiện này xảy ra, khi nào có lưỡi, khi nào có
các vị, khi nào có thiệt thức... Sự kiện này xảy ra: khi nào có
thân, khi nào có các xúc, khi nào có thân thức... Sự kiện này xảy
ra: khi nào có ý, khi nào có các pháp, khi nào có ý thức thời sự
thi thiết của xúc được hiển lộ.
Chư Hiền, sự
kiện này không xảy ra: khi nào không có mắt, khi nào không có các
sắc, khi nào không có nhãn thức, sự thi thiết của xúc được hiển
lộ. Sự kiện này không xảy ra: khi nào không có sự thi thiết của
xúc, sự thi thiết của thọ được hiển lộ. Sự kiện này không xảy ra:
khi nào không có sự thi thiết của thọ, sự thi thiết của tưởng
được hiển lộ. Sự kiện này không xảy ra: khi nào không có sự thi
thiết của tưởng, sự thi thiết của suy tầm được hiển lộ. Sự kiện
này không xảy ra: khi nào không có sự thi thiết của suy tầm, thời
sự thi thiết của sự ám ảnh một số hý luận vọng tưởng được hiển
lộ.
Chư Hiền, sự
kiện này không xảy ra: khi nào không có tai, khi nào không có các
tiếng... khi nào không có mũi, khi nào không có các hương... khi
nào không có lưỡi, khi nào không có các vị... khi nào không có
thân, khi nào không có các xúc ... Sự kiện này không xảy ra: khi
nào không có ý, khi nào không có các pháp, khi nào không có ý
thức, sự thi thiết của xúc được hiển lộ...
Chư Hiền, Thế
Tôn, sau khi nói lên lời dạy một cách vắn tắt... đã đi vào tịnh xá:
"Này Tỷ-kheo, do bất cứ nhân duyên gì... không dư tàn".
Chư Hiền, đối với lời dạy Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt này,
và nghĩa lý không được giải thích một cách rộng rãi, tôi đã hiểu
ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy. Nếu quý vị muốn, hãy đi đến
chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, hãy hỏi ý nghĩa này. Thế Tôn giải đáp
như thế nào, hãy như vậy thọ trì.
Phạn ngữ papañca là một danh từ rất khó dịch. Chữ Hán dịch là “điên đảo vọng tưởng” hay hý luận. Trong Anh ngữ người ta thường dịch với những chữ: self-reflexive thinking, reification, proliferation, exaggeration, elaboration, distortion. Cho những lý luận bất tận về quan kiến và giáo thuyết mà “càng nói thì càng xa, càng mất phương hướng” như câu chuyện người đi tìm dê từ ngã tư nầy tới ngã tư khác, càng đi càng nghi hoặc, càng mất phương hướng.
Có thể hiểu với những điểm sau:
a.
Người
ta thường tranh luận về tư tưởng, giáo thuyết không phải vì muốn tìm ra lẽ thật
hay chân lý mà chỉ vì bản năng thích bày tỏ quan điểm
b.
Bản
năng đó xuất phát từ sự gặp gở giữa căn, cảnh và thức
c.
Từ sự
hội tụ giữa căn, cảnh và thức sanh ra cảm thọ, rồi tưởng, rồi suy tầm dẫn đến
điên đảo vọng tưởng.
d.
Tất cả
nhận thức từ xúc, thọ, tưởng, suy tầm đều là phiến diện, hạn hẹp, đối đãi (thi
thiết).
e.
Người
tu Phật cần hiểu tánh tương đối trong sự nhận thức hay quan kiến của mình.
092. Lời xác
chứng của Đấng Pháp Vương
Khi được nghe chư
tỳ kheo thuật lại pháp được tôn giả Mahàkaccayana trình bày, Đức Phật chuẩn thuận
và tôn giả Ananda nói lên lời tán thán.
Rồi những
Tỷ-kheo ấy, hoan hỷ, tùy hỷ lời Tôn giả Mahākaccāna nói, từ chỗ
ngồi đứng dậy, đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến đảnh lễ Ngài và
ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch
Thế Tôn:
-- Bạch Thế
Tôn, Thế Tôn nói lên lời dạy này một cách vắn tắt cho chúng con...
đã vào tịnh xá. "Này Tỷ-kheo, do bất cứ nhân duyên gì... không
còn dư tàn". Khi Thế Tôn đi chẳng bao lâu, chúng con suy nghĩ
như sau: "Chư Hiền, Thế Tôn sau khi nói cho chúng ta lời dạy tóm
tắt này, không giải thích ý nghĩa một cách rộng rãi, từ chỗ ngồi
đứng dậy và đã đi vào tịnh xá: "Này Tỷ-kheo, do bất cứ nhân
duyên gì, một số hý luận vọng tưởng ám ảnh một người, nếu ở
đây không có gì đáng tùy hỷ, đáng đón mừng, đáng chấp thủ, thời
như vậy là sự đoạn tận tham tùy miên, sự đoạn tận sân tùy miên,
sự đoạn tận kiến tùy miên, sự đoạn tận nghi tùy miên, sự đoạn tận
mạn tùy miên, sự đoạn tận hữu tham tùy miên, sự đoạn tận vô minh
tùy miên, sự đoạn tận chấp trượng, chấp kiếm, đấu tranh, tránh
tranh, luận tranh, kháng tranh, ly gián ngữ, vọng ngữ. Chính ở đây,
những ác, bất thiện pháp này đều được tiêu diệt, không còn dư
tàn". Nay ai có thể giải thích rộng rãi ý nghĩa lời giảng dạy
này được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt và không giải thích
rõ ràng ý nghĩa?" Bạch Thế Tôn, và chúng con suy nghĩ: "Nay
có Tôn giả Mahākaccāna là vị được Thế Tôn tán dương và được các
vị đồng phạm hạnh có trí kính trọng. Tôn giả Mahākaccāna có thể
giải thích rộng rãi ý nghĩa lời giảng dạy này được Thế Tôn nói
lên một cách vắn tắt và không giải thích rõ ràng ý nghĩa. Vậy
chúng ta hãy đi đến chỗ Tôn giả Mahākaccāna ở, sau khi đến sẽ hỏi
Tôn giả Mahākaccāna ý nghĩa này". Bạch Thế Tôn, rồi chúng con đi
đến chỗ Tôn giả Mahākaccāna ở, sau khi đến, chúng con hỏi Tôn giả Mahākaccāna
ý nghĩa này. Bạch Thế Tôn, Tôn giả Mahākaccāna đã giải thích ý
nghĩa ấy cho chúng con với những phương pháp này, với những văn cú
này, với những văn tự này.
-- Chư Tỷ-kheo,
Tôn giả Mahākaccāna là bậc Hiền trí. Chư Tỷ-kheo, Tôn giả Mahākaccāna
là bậc Ðại tuệ. Chư Tỷ-kheo, nếu các Người hỏi Ta ý nghĩa này, Ta
cũng trả lời như Mahākaccāna đã trả lời. Như vậy là chính nghĩa
lời dạy ấy, hãy như vậy thọ trì.
Khi nghe nói
vậy, Tôn giả Ānanda bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế
Tôn, như một người bị đói lả và mệt mỏi, tìm được một bánh
mật, cứ mỗi miếng vị ấy được nếm, cứ mỗi miếng vị ấy được thưởng
thức vị ngọt thuần nhất. Bạch Thế Tôn, cũng vậy, Tỷ-kheo có tri
thức biệt tài, cứ mỗi phần suy tư đến ý nghĩa pháp môn này với
trí tuệ, cứ mỗi phần vị ấy được thưởng thức sự hoan hỷ, được
thưởng thức sự thoải mái tâm trí. Bạch Thế Tôn, pháp môn này tên
gọi là gì?
-- Do vậy, này Ānanda,
pháp môn này được gọi là pháp môn bánh mật (Mật hoàn). Hãy như
vậy thọ trì!
Thế Tôn thuyết
giảng như vậy. Tôn giả Ānanda hoan hỷ, tín thọ lời dạy Thế Tôn
-ooOoo-
Kinh số 18 [tóm tắt]
Kinh Mật Hoàn
(Madhupiṇḍika Sutta)
(M.i, 108)
Daṇḍapāni hỏi đức Phật đã thuyết những
gì, đã nói những gì. Đức Phật trả lời, lời Ngài thuyết không đem
lại một luận nào ở đời, và các tưởng không ám ảnh vị Bà- la-môn
(đã đoạn lậu hoặc) sống không bị dục triền phược, với nghi ngờ
đoạn diệt, với hối quá trừ diệt, không tham ái hữu và phi hữu.
Câu trả lời này làm Daṇḍapāni lắc đầu bỏ
đi. Và được các Tỷ-kheo yêu cầu, đức Phật giải thích thêm. Do nhân
duyên gì, các lý luận vọng tưởng (papancasannna) ám ảnh một
người, nếu không có gì đáng hoan hỷ, đón mừng, chấp thủ thời như
vậy là sự đoạn tận bảy tùy miên (tham, sân, kiến, nghi, mạn, hữu
ái, vô minh), sự đoạn tận chấp trượng, chấp kiến, tranh luận, sự
tiêu diệt các ác bất thiện pháp.
Câu giải thích vắn tắt này chưa làm các
Tỷ-kheo thỏa mãn, nên sau đó được Tôn giả Mahakaccāna giải thích
thêm: Do nhân con mắt và sắc pháp, nhãn thức khởi lên; sự gặp gỡ
của ba pháp là xúc; do xúc nên có cảm thọ, có tưởng, có suy tư,
có hý luận, và do vậy có các hý luận vọng tưởng hiện hành đối
với các sắc pháp do con mắt nhận thức thuộc quá khứ, tương lai, hiện
tại. Cũng vậy, đối với năm căn, năm trần còn lại. Có mắt, có
sắc, có nhãn thức, thời có sự thi thiết của xúc; có thi thiết của
xúc thời có thi thiết của thọ; có thi thiết của thọ thời có thi
thiết của tưởng; có thi thiết của tưởng thời có thi thiết của suy
tư; có thi thiết của suy tư thời có thi thiết của sự ám ảnh một
số hý luận vọng tưởng. Cũng vậy, đối với năm căn, năm trần còn
lại. Khi nào không có mắt, không có sắc, không có nhãn thức thời
không có sự thi thiết của xúc... không có sự thi thiết của thọ...
không có sự thi thiết của tưởng... không có sự thi thiết của suy
tư... không có sự thi thiết của hý luận vọng tưởng ám ảnh.
Lời giải thích của Mahākaccāna là bậc đại
tuệ, đã trả lời đúng đắn. Cuối cùng đức Phật đặt tên kinh này là
Pháp Môn Bánh Mật, vì vị Tỷ-kheo tri thức, cứ mỗi lần suy tư đến
pháp môn này được thưởng thức sự hoan hỷ, sự thoải mái tâm trí.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 18 [dàn ý]
Kinh Mật Hoàn
(Madhupiṇḍika Sutta)
(M.i, 108)
A. Duyên khởi:
Daṇḍapāni hỏi Đức Phật, Ngài dạy những gì, quan
điểm của Ngài thế nào. Đức Phật trả lời với bài kinh này.
B. Chánh kinh:
I. Câu trả lời của Đức Phật: Lời dạy của
Đức Phật không đem đến một sự tranh luận bất cứ ở thế giới nào. Vị Bà-la-môn vượt
qua các dục, không còn nghi ngờ, diệt các hối quá, không tham ái đối với hữu và
phi hữu, sẽ không bị các tưởng ám ảnh chi phối.
II. Theo lời yêu cầu các Tỷ-kheo, Thế
Tôn giải thích rộng hơn câu trả lời trên: Nếu do nguyên nhân gì, các hý luận vọng
tưởng khởi lên cho một người, nếu ở đây không có sự hoan hỷ đón mừng, thời như
vậy là sự đoạn tận 7 tuỳ miên, sự chấm dứt tranh luận, ly gián ngữ.
III. Theo lời các Tỷ-kheo yêu cầu, Tôn
giả Mahkaccna giải thích rộng rãi câu trả lời của Đức Phật. Khi nào có sự tiếp
xúc của 6 căn, 6 trần, 6 thức, thời có xúc, có thọ, có tưởng, có suy tư, có hý
luận, vọng tưởng hiện khởi; khi nào không có sự thi thiết của 6 căn, 6 trần, 6
thức, thời không có sự thi thiết của xúc, thọ, tưởng, suy tư, của sự hiện hành
hý luận vọng tưởng.
Do hý luận làm nhân, một số hý luận vọng
tưởng hiện hữu cho một người trong các sắc pháp do nhãn căn nhận thức quá khứ,
vị lai, hiện tại.
IV. Các Tỷ-kheo trình lời giải thích của
Mahākaccāna lên Thế Tôn, và Thế Tôn xác chứng là
đúng sự giải thích của Mahkaccna.
V. Tôn giả Ānanda lấy ví dụ bánh mật để
tán thán vị ngọt của lời giảng của Thế Tôn và lời giải thích của Mahākaccāna và Đức Phật đặt tên cho kinh này là
kinh Mật Hoàn.
C. Kết luận:
Các Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn
dạy.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 18 [dàn ý]
Kinh Mật Hoàn
(Madhupiṇḍika Sutta)
(M.i, 108)
I. Toát yếu
Madhupinkika Sutta - the honey ball.
The Buddha utters a deep but enigmatic statement
about "the source through which perceptions and notions tinged by mental
proliferation beset a man." This statement is elucidated by the venerable
Mahākaccāna, whose explanation is praised by the Buddha.
Viên mật.
Phật thốt lên một lời phát biểu sâu sắc
nhưng khó hiểu về "cái nguồn gốc từ đấy các nhận thức và quan
niệm đầy thiên kiến ám ảnh một con người." Lời phát biểu ấy
được tôn giả Đại Ca- chiên-diên làm sáng tỏ, và sự giải thích
của tôn giả được Phật khen ngợi.
II. Tóm tắt
Gậy cầm tay, một người dòng Sakka, đến hỏi
Phật có quan điểm thế nào, giảng thuyết những gì. Phật dạy, Ngài
giảng cái thuyết "không tranh luận với bất cứ ai, vì các tưởng
(nhận thức) không còn ám ảnh vị bà-la-môn sống không có tham dục,
hoài nghi, trạo hối, không có tham ái đối với hữu hay phi hữu."
Khi nghe vậy, người kia không hiểu, tỏ vẻ
bất mãn bỏ về. Các tỳ kheo xin Phật giải thích, Ngài dạy thêm:
"Nếu một người không có thái độ hoan hỷ, đón mừng, chấp
trước đối với những hý luận vọng tưởng, thì đấy là đoạn tận các
tùy miên tham, sân, nghi, kiến, mạn, hữu tham, đoạn tận đấu tranh
bằng lời, bằng gươm giáo; đoạn tận ly gián ngữ, vọng ngữ. Các bất
thiện ấy được tiêu diệt không có dư tàn".
Tôn giả Ca-chiên-diên triển khai lời dạy vắn tắt của Phật
như sau:
Do xúc - sự gặp gỡ giữa căn, trần, thức - có thọ; do thọ có
tưởng; do tưởng có suy tầm; do suy tầm có hý luận khởi lên. Nhân hý luận ấy,
một số vọng tưởng ám ảnh con người. Nếu không có xúc thì không
có thọ; không có thọ thì không tưởng; không tưởng thì không suy
tầm; không suy tầm thì không hý luận vọng tưởng. Không hý luận
vọng tưởng thì không có đấu tranh, và các ác bất thiện pháp [tham,
sân, si, mạn, nghi, kiến, hữu tham] được tiêu diệt không dư tàn.
III. Chú giải
Gậy cầm tay Dandapāni, có tên
như vậy vì ông ta thường cầm gậy bịt vàng đi khắp nơi với vẻ tự
cao. Ông theo cánh của Đề bà đạt đa, người phá tăng. Câu hỏi của
ông có vẻ khiêu khích, câu trả lời của Phật phần đầu là để đối
lại thái độ khiêu khích ấy.
Bà-la-môn nói trong câu này chỉ A-la-hán, hoặc chính
bản thân Phật.
Hý luận vọng tưởng, papanca - sannā - sankhā, được dịch là "mental proliferation", thiên kiến. Luận
giải nguồn gốc của hý luận vọng tưởng là tham (đối với sắc pháp),
mạn ("tôi là") và kiến (chấp thường), qua đó tâm thức
"trau chuốt" kinh nghiệm bằng cách giảng giải nó theo tiêu
chuẩn "tôi" và "của tôi".
Tóm lại, Kinh này cốt hiển thị vòng sinh tử là 12
xứ - sáu căn tiếp xúc sáu trần. Nếu căn trần đừng ráp lại, thì
hết sinh tử.
IV. Pháp số
Năm pháp: Nguồn gốc hý luận vọng tưởng là Xúc
(căn trần thức gặp gỡ), thọ, tưởng, tầm, hý luận.
Sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
Sáu trần: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Sáu thức:
nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức.
Bảy tùy
miên: tham, sân, kiến, nghi, mạn, hữu tham, vô
minh.
Mười hai xứ: sáu căn và sáu trần. Mười tám giới: 6
căn, 6 trần, 6 thức.
V. Kệ tụng
A. Đoạn trừ tham, sân, nghi, trạo hối
Giáo
lý của Phật dạy
Là không tranh với ai
Vị thánh đệ tử sống
Các tưởng không ám ảnh
Không
bị dục trói buộc
Không
nghi ngờ do dự
Mọi
hối quá đoạn diệt
Không
tham hữu, phi hữu.
B. Không chấp trước
Với hý luận
vọng tưởng
Không đón
mừng, hoan hỷ
Đoạn được
các tùy miên
Tham, sân,
kiến, nghi, mạn
Đoạn tham ưa
các cõi
Và vô minh
tùy miên
Cùng các
bất thiện khác
Tiêu diệt
không dư tàn.
C. Tôn giả Ca-chiên-diên khai diễn
Căn
trần thức gặp gỡ
Sự
gặp gỡ là xúc
Do xúc nên có thọ
Có
thọ nên có tưởng
Tưởng
đưa đến suy tầm
Suy
tầm sinh "hý luận"
Hý
luận sinh vọng tưởng
Ám
ảnh tâm con người.
[Sinh
tử vẫn dài dài
Vì
căn trần xúc đối
Hai
thứ đừng xáp lại
Sẽ
chấm dứt luân hồi.]
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
18. Madhupiṇḍikasuttaṃ [Mūla]
199. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ samayaṃ Bhagavā
sakkesu viharati kapilavatthusmiṃ nigrodhārāme. Atha kho Bhagavā pubbaṇhasamayaṃ
nivāsetvā pattacīvaramādāya kapilavatthuṃ piṇḍāya pāvisi. Kapilavatthusmiṃ piṇḍāya
caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto yena mahāvanaṃ tenupasaṅkami
divāvihārāya. Mahāvanaṃ ajjhogāhetvā beluvalaṭṭhikāya mūle divāvihāraṃ nisīdi.
Daṇḍapāṇipi kho sakko jaṅghāvihāraṃ [jaṅghavihāraṃ (ka.)] anucaṅkamamāno
anuvicaramāno yena mahāvanaṃ tenupasaṅkami. Mahāvanaṃ ajjhogāhetvā yena
beluvalaṭṭhikā yena Bhagavā tenupasaṅkami upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ
sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā daṇḍamolubbha ekamantaṃ aṭṭhāsi.
Ekamantaṃ ṭhito kho daṇḍapāṇi sakko bhagavantaṃ etadavoca : ''kiṃvādī samaṇo
kimakkhāyīti? ''yathāvādī kho, āvuso, sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā
pajāya sadevamanussāya na kenaci loke
viggayha tiṭṭhati, yathā ca pana kāmehi visaṃyuttaṃ viharantaṃ taṃ brāhmaṇaṃ
akathaṃkathiṃ chinnakukkuccaṃ bhavābhave vītataṇhaṃ saññā nānusenti : evaṃvādī
kho ahaṃ, āvuso, evamakkhāyīti. ''Evaṃ vutte daṇḍapāṇi sakko sīsaṃ okampetvā ,
jivhaṃ nillāḷetvā, tivisākhaṃ nalāṭikaṃ
nalāṭe vuṭṭhāpetvā daṇḍamolubbha pakkāmi.
200. Atha kho Bhagavā
sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito yena nigrodhārāmo tenupasaṅkami upasaṅkamitvā
paññatte āsane nisīdi. Nisajja kho Bhagavā bhikkhū āmantesi : ''idhāhaṃ,
bhikkhave, pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya kapilavatthuṃ piṇḍāya
pāvisiṃ. Kapilavatthusmiṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto
yena mahāvanaṃ tenupasaṅkamiṃ divāvihārāya. Mahāvanaṃ ajjhogāhetvā beluvalaṭṭhikāya
mūle divāvihāraṃ nisīdiṃ. Daṇḍapāṇipi kho, bhikkhave, sakko jaṅghāvihāraṃ anucaṅkamamāno
anuvicaramāno yena mahāvanaṃ tenupasaṅkami. Mahāvanaṃ ajjhogāhetvā yena
beluvalaṭṭhikā yenāhaṃ tenupasaṅkami upasaṅkamitvā mayā saddhiṃ sammodi.
Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā daṇḍamolubbha ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho, bhikkhave, daṇḍapāṇi
sakko maṃ etadavoca : 'kiṃvādī samaṇo kimakkhāyīti? ''evaṃ vutte ahaṃ,
bhikkhave, daṇḍapāṇiṃ sakkaṃ etadavocaṃ : yathāvādī kho, āvuso, sadevake loke
samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya na kenaci loke
viggayha tiṭṭhati, yathā ca pana kāmehi visaṃyuttaṃ viharantaṃ taṃ brāhmaṇaṃ
akathaṃkathiṃ chinnakukkuccaṃ bhavābhave vītataṇhaṃ saññā nānusenti : evaṃvādī
kho ahaṃ, āvuso, evamakkhāyīti. ''Evaṃ vutte bhikkhave, daṇḍapāṇi sakko sīsaṃ okampetvā, jivhaṃ nillāḷetvā, tivisākhaṃ nalāṭikaṃ
nalāṭe vuṭṭhāpetvā daṇḍamolubbha pakkāmīti.
201. Evaṃ vutte aññataro bhikkhu
bhagavantaṃ etadavoca : ''kiṃvādī pana, bhante, Bhagavā sadevake loke
samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya na kenaci loke
viggayha tiṭṭhati? kathañca pana, bhante, bhagavantaṃ kāmehi visaṃyuttaṃ
viharantaṃ taṃ brāhmaṇaṃ akathaṃkathiṃ
chinnakukkuccaṃ bhavābhave vītataṇhaṃ saññā nānusentīti? ''yatonidānaṃ,
bhikkhu, purisaṃ papañcasaññāsaṅkhā samudācaranti. Ettha ce natthi
abhinanditabbaṃ abhivaditabbaṃ ajjhositabbaṃ. Esevanto rāgānusayānaṃ, esevanto
paṭighānusayānaṃ, esevanto diṭṭhānusayānaṃ , esevanto vicikicchānusayānaṃ,
esevanto mānānusayānaṃ, esevanto bhavarāgānusayānaṃ, esevanto avijjānusayānaṃ,
esevanto daṇḍādāna-satthādāna-kalaha-viggaha-vivāda-tuvaṃtuvaṃ-pesuñña-musāvādānaṃ.
Etthete pāpakā akusalā dhammā aparisesā nirujjhantīti. Idamavoca Bhagavā.
Idaṃ vatvāna sugato uṭṭhāyāsanā vihāraṃ pāvisi.
202. Atha kho tesaṃ bhikkhūnaṃ
acirapakkantassa bhagavato etadahosi : ''idaṃ kho no, āvuso, Bhagavā saṃkhittena
uddesaṃ uddisitvā, vitthārena atthaṃ avibhajitvā, uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho
: 'yatonidānaṃ, bhikkhu, purisaṃ papañcasaññāsaṅkhā samudācaranti. Ettha ce
natthtththi abhinanditabbaṃ
abhivaditabbaṃ ajjhositabbaṃ. Esevanto rāgānusayānaṃ - pe - etthete
pāpakā akusalā dhammā aparisesā nirujjhantīti . Ko nu kho imassa bhagavatā saṃkhittena
uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ
vibhajeyyāti? atha kho tesaṃ bhikkhūnaṃ etadahosi : ''ayaṃ kho āyasmā
mahākaccāno satthu ceva saṃvaṇṇito sambhāvito ca viññūnaṃ sabrahmacārīnaṃ.
Pahoti cāyasmā mahākaccāno imassa bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa
vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajituṃ. Yaṃnūna mayaṃ
yenāyasmā mahākaccāno tenupasaṅkameyyāma upasaṅkamitvā āyasmantaṃ mahākaccānaṃ
etamatthaṃ paṭipuccheyyāmāti. Atha kho te bhikkhū yenāyasmā mahākaccāno
tenupasaṅkamiṃsu upasaṅkamitvā āyasmatā mahākaccānena saddhiṃ sammodiṃsu.
Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ
nisinnā kho te bhikkhū āyasmantaṃ mahākaccānaṃ etadavocuṃ : ''idaṃ kho no,
āvuso kaccāna, Bhagavā saṃkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ
avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho : 'yatonidānaṃ, bhikkhu, purisaṃ
papañcasaññāsaṅkhā samudācaranti. Ettha ce natthi abhinanditabbaṃ abhivaditabbaṃ
ajjhositabbaṃ. Esevanto rāgānusayānaṃ -
pe - etthete pāpakā akusalā dhammā aparisesā nirujjhantīti. Tesaṃ no, āvuso
kaccāna, amhākaṃ acirapakkantassa bhagavato etadahosi : 'idaṃ kho no, āvuso, Bhagavā
saṃkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ
paviṭṭho : ''yatonidānaṃ, bhikkhu, purisaṃ papañcasaññāsaṅkhā samudācaranti.
Ettha ce natthi abhinanditabbaṃ
abhivaditabbaṃ ajjhositabbaṃ. Esevanto rāgānusayānaṃ - pe - etthete pāpakā
akusalā dhammā aparisesā nirujjhantīti. Ko nu kho imassa bhagavatā saṃkhittena
uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ
vibhajeyyāti? tesaṃ no, āvuso kaccāna, amhākaṃ etadahosi : 'ayaṃ kho āyasmā
mahākaccāno satthu ceva saṃvaṇṇito sambhāvito ca viññūnaṃ sabrahmacārīnaṃ,
pahoti cāyasmā mahākaccāno imassa
bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa
vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajituṃ. Yaṃnūna mayaṃ
yenāyasmā mahākaccāno tenupasaṅkameyyāma upasaṅkamitvā āyasmantaṃ mahākaccānaṃ
etamatthaṃ paṭipuccheyyāmāti. Vibhajatāyasmā mahākaccānoti.
203. ''Seyyathāpi, āvuso, puriso
sāratthiko sāragavesī sārapariyesanaṃ caramāno mahato rukkhassa tiṭṭhato
sāravato atikkammeva mūlaṃ, atikkamma khandhaṃ, sākhāpalāse sāraṃ pariyesitabbaṃ
maññeyya evaṃsampadamidaṃ āyasmantānaṃ satthari sammukhībhūte, taṃ bhagavantaṃ
atisitvā , amhe etamatthaṃ paṭipucchitabbaṃ maññatha. So hāvuso, Bhagavā
jānaṃ jānāti, passaṃ passati, cakkhubhūto ñāṇabhūto dhammabhūto brahmabhūto,
vattā pavattā, atthassa ninnetā, amatassa dātā, dhammassāmī tathāgato. So ceva
panetassa kālo ahosi, yaṃ bhagavantaṃyeva etamatthaṃ paṭipuccheyyātha. Yathā vo
Bhagavā byākareyya tathā naṃ dhāreyyāthāti. ''Addhāvuso kaccāna, Bhagavā
jānaṃ jānāti, passaṃ passati, cakkhubhūto ñāṇabhūto dhammabhūto brahmabhūto,
vattā pavattā, atthassa ninnetā, amatassa dātā, dhammassāmī tathāgato. So ceva
panetassa kālo ahosi, yaṃ bhagavantaṃyeva etamatthaṃ paṭipuccheyyāma. Yathā no Bhagavā
byākareyya tathā naṃ dhāreyyāma. Api cāyasmā mahākaccāno satthu ceva saṃvaṇṇito
sambhāvito ca viññūnaṃ sabrahmacārīnaṃ, pahoti
cāyasmā mahākaccāno imassa bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa
vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajituṃ. Vibhajatāyasmā
mahākaccāno agaruṃ katvāti [agarukatvā (sī.), agarukaritvā (syā. pī.)]. ''Tena
hāvuso, suṇātha, sādhukaṃ manasikarotha, bhāsissāmīti. ''Evamāvusoti kho te
bhikkhū āyasmato mahākaccānassa paccassosuṃ. Āyasmā mahākaccāno etadavoca :
204. ''Yaṃ kho no, āvuso, Bhagavā
saṃkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ
paviṭṭho : 'yatonidānaṃ, bhikkhu, purisaṃ papañcasaññāsaṅkhā samudācaranti .
Ettha ce natthi abhinanditabbaṃ abhivaditabbaṃ ajjhositabbaṃ, esevanto
rāgānusayānaṃ - pe - etthete pāpakā akusalā dhammā aparisesā nirujjhantīti,
imassa kho ahaṃ, āvuso, bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena
atthaṃ avibhattassa evaṃ vitthārena atthaṃ ājānāmi : ''cakkhuñcāvuso, paṭicca
rūpe ca uppajjati cakkhuviññāṇaṃ, tiṇṇaṃ saṅgati phasso, phassapaccayā vedanā, yaṃ vedeti taṃ sañjānāti , yaṃ
sañjānāti taṃ vitakketi, yaṃ vitakketi taṃ papañceti, yaṃ papañceti tatonidānaṃ
purisaṃ papañcasaññāsaṅkhā samudācaranti atītānāgatapaccuppannesu
cakkhuviññeyyesu rūpesu. Sotañcāvuso, paṭicca sadde ca uppajjati sotaviññāṇaṃ -
pe - ghānañcāvuso, paṭicca gandhe ca uppajjati ghānaviññāṇaṃ - pe -
jivhañcāvuso, paṭicca rase ca uppajjati jivhāviññāṇaṃ - pe - kāyañcāvuso, paṭicca
phoṭṭhabbe ca uppajjati kāyaviññāṇaṃ - pe - manañcāvuso, paṭicca dhamme ca uppajjati
manoviññāṇaṃ, tiṇṇaṃ saṅgati phasso, phassapaccayā vedanā, yaṃ vedeti taṃ
sañjānāti, yaṃ sañjānāti taṃ vitakketi, yaṃ vitakketi taṃ papañceti, yaṃ
papañceti tatonidānaṃ purisaṃ papañcasaññāsaṅkhā samudācaranti
atītānāgatapaccuppannesu manoviññeyyesu dhammesu.
''So vatāvuso, cakkhusmiṃ sati rūpe sati cakkhuviññāṇe sati
phassapaññattiṃ paññāpessatīti : ṭhānametaṃ vijjati. Phassapaññattiyā sati
vedanāpaññattiṃ paññāpessatīti : ṭhānametaṃ vijjati. Vedanāpaññattiyā sati
saññāpaññattiṃ paññāpessatīti : ṭhānametaṃ vijjati. Saññāpaññattiyā sati vitakkapaññattiṃ paññāpessatīti : ṭhānametaṃ
vijjati. Vitakkapaññattiyā sati papañcasaññāsaṅkhāsamudācaraṇapaññattiṃ
paññāpessatīti : ṭhānametaṃ vijjati. So vatāvuso, sotasmiṃ sati sadde sati - pe
- ghānasmiṃ sati gandhe sati - pe -
jivhāya sati rase sati - pe - kāyasmiṃ sati phoṭṭhabbe sati - pe - manasmiṃ
sati dhamme sati manoviññāṇe sati phassapaññattiṃ paññāpessatīti : ṭhānametaṃ
vijjati. Phassapaññattiyā sati vedanāpaññattiṃ paññāpessatīti : ṭhānametaṃ
vijjati. Vedanāpaññattiyā sati saññāpaññattiṃ paññāpessatīti : ṭhānametaṃ
vijjati. Saññāpaññattiyā sati vitakkapaññattiṃ paññāpessatīti : ṭhānametaṃ
vijjati. Vitakkapaññattiyā sati papañcasaññāsaṅkhāsamudācaraṇapaññattiṃ
paññāpessatīti : ṭhānametaṃ vijjati.
''So vatāvuso, cakkhusmiṃ asati rūpe asati cakkhuviññāṇe asati
phassapaññattiṃ paññāpessatīti : netaṃ ṭhānaṃ vijjati. Phassapaññattiyā asati
vedanāpaññattiṃ paññāpessatīti : netaṃ ṭhānaṃ vijjati. Vedanāpaññattiyā asati
saññāpaññattiṃ paññāpessatīti : netaṃ ṭhānaṃ vijjati. Saññāpaññattiyā asati
vitakkapaññattiṃ paññāpessatīti : netaṃ ṭhānaṃ vijjati. Vitakkapaññattiyā asati
papañcasaññāsaṅkhāsamudācaraṇapaññattiṃ paññāpessatīti : netaṃ ṭhānaṃ vijjati.
So vatāvuso, sotasmiṃ asati sadde asati
- pe - ghānasmiṃ asati gandhe asati - pe - jivhāya asati rase asati - pe -
kāyasmiṃ asati phoṭṭhabbe asati - pe - manasmiṃ asati dhamme asati manoviññāṇe asati phassapaññattiṃ paññāpessatīti : netaṃ ṭhānaṃ
vijjati. Phassapaññattiyā asati vedanāpaññattiṃ paññāpessatīti : netaṃ ṭhānaṃ
vijjati. Vedanāpaññattiyā asati saññāpaññattiṃ paññāpessatīti : netaṃ ṭhānaṃ
vijjati. Saññāpaññattiyā asati vitakkapaññattiṃ paññāpessatīti : netaṃ ṭhānaṃ
vijjati. Vitakkapaññattiyā asati papañcasaññāsaṅkhāsamudācaraṇapaññattiṃ
paññāpessatīti : netaṃ ṭhānaṃ vijjati. ''Yaṃ kho no, āvuso, Bhagavā saṃkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ
avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho : 'yatonidānaṃ, bhikkhu, purisaṃ
papañcasaññāsaṅkhā samudācaranti ettha ce natthi abhinanditabbaṃ abhivaditabbaṃ
ajjhositabbaṃ esevanto rāgānusayānaṃ - pe - etthete pāpakā akusalā dhammā
aparisesā nirujjhantīti, imassa kho ahaṃ, āvuso, bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena
atthaṃ avibhattassa evaṃ vitthārena atthaṃ ājānāmi. Ākaṅkhamānā ca pana tumhe
āyasmanto bhagavantaṃyeva upasaṅkamitvā etamatthaṃ paṭipuccheyyātha. Yathā no Bhagavā
byākaroti tathā naṃ dhāreyyāthāti.
205. Atha kho te bhikkhū āyasmato
mahākaccānassa bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā uṭṭhāyāsanā yena Bhagavā
tenupasaṅkamiṃsu upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu.
Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ : ''yaṃ kho no, bhante,
Bhagavā saṃkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā
vihāraṃ paviṭṭho : 'yatonidānaṃ, bhikkhu, purisaṃ papañcasaññāsaṅkhā
samudācaranti. Ettha ce natthi abhinanditabbaṃ abhivaditabbaṃ ajjhositabbaṃ.
Esevanto rāgānusayānaṃ - pe - etthete pāpakā akusalā dhammā aparisesā
nirujjhantīti. Tesaṃ no, bhante, amhākaṃ acirapakkantassa bhagavato etadahosi :
'idaṃ kho no, āvuso, Bhagavā saṃkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena
atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho : ''yatonidānaṃ, bhikkhu,
purisaṃ papañcasaññāsaṅkhā samudācaranti. Ettha ce natthi abhinanditabbaṃ
abhivaditabbaṃ ajjhositabbaṃ. Esevanto rāgānusayānaṃ, esevanto paṭighānusayānaṃ,
esevanto diṭṭhānusayānaṃ, esevanto vicikicchānusayānaṃ, esevanto mānānusayānaṃ,
esevanto bhavarāgānusayānaṃ , esevanto avijjānusayānaṃ, esevanto daṇḍādāna-satthādāna-kalaha-viggaha-vivādatuvaṃtuvaṃ-pesuñña-musāvādānaṃ.
Etthete pāpakā akusalā dhammā aparisesā nirujjhantīti. Ko nu kho imassa
bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa
vitthārena atthaṃ vibhajeyyāti? tesaṃ no, bhante, amhākaṃ etadahosi : 'ayaṃ kho
āyasmā mahākaccāno satthu ceva saṃvaṇṇito sambhāvito ca viññūnaṃ sabrahmacārīnaṃ,
pahoti cāyasmā mahākaccāno imassa
bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa
vitthārena atthaṃ vibhajituṃ, yaṃnūna mayaṃ yenāyasmā mahākaccāno tenupasaṅkameyyāma
upasaṅkamitvā āyasmantaṃ mahākaccānaṃ etamatthaṃ paṭipuccheyyāmāti. Atha kho
mayaṃ, bhante, yenāyasmā mahākaccāno tenupasaṅkamimha upasaṅkamitvā āyasmantaṃ mahākaccānaṃ
etamatthaṃ paṭipucchimha. Tesaṃ no, bhante, āyasmatā mahākaccānena imehi
ākārehi imehi padehi imehi byañjanehi attho vibhattoti. ''Paṇḍito, bhikkhave,
mahākaccāno mahāpañño, bhikkhave, mahākaccāno. Maṃ cepi tumhe, bhikkhave,
etamatthaṃ paṭipuccheyyātha, ahampi taṃ evamevaṃ byākareyyaṃ yathā taṃ
mahākaccānena byākataṃ. Eso cevetassa attho. Evañca [evemeva ca (ka.)] naṃ
dhārethāti. Evaṃ vutte āyasmā ānando bhagavantaṃ etadavoca : ''seyyathāpi,
bhante, puriso jighacchādubbalyapareto madhupiṇḍikaṃ adhigaccheyya, so yato
yato sāyeyya, labhetheva sādurasaṃ asecanakaṃ. Evameva kho, bhante, cetaso
bhikkhu dabbajātiko, yato yato imassa dhammapariyāyassa paññāya atthaṃ
upaparikkheyya, labhetheva attamanataṃ, labhetheva cetaso pasādaṃ. Ko nāmo ayaṃ
[ko nāmāyaṃ (syā.)], bhante, dhammapariyāyoti? ''tasmātiha tvaṃ, ānanda, imaṃ
dhammapariyāyaṃ madhupiṇḍikapariyāyo tveva naṃ dhārehīti. Idamavoca Bhagavā. Attamano āyasmā ānando
bhagavato bhāsitaṃ abhinandīti.
Madhupiṇḍikasuttaṃ niṭṭhitaṃ aṭṭhamaṃ.
-ooOoo-
18.
Madhupiṇḍikasuttavaṇṇanā [Atthakathā]
199. Evaṃ me sutanti madhupiṇḍikasuttaṃ.
Tattha mahāvananti himavantena saddhiṃ ekābaddhaṃ aropimaṃ jātivanaṃ, na yathā
vesāliyaṃ ropitāropitamissakaṃ. Divāvihārāyāti divā paṭisallānatthāya. Beluvalaṭṭhikāyāti
taruṇabeluvarukkhassa. Daṇḍapāṇīti na jarādubbalatāya daṇḍahattho. Ayañhi taruṇo
paṭhamavaye ṭhito, daṇḍacittatāya pana suvaṇṇadaṇḍaṃ gahetvā vicarati, tasmā daṇḍapāṇīti
vutto. Jaṅghāvihāranti jaṅghākilamathavinodanatthaṃ jaṅghācāraṃ. Anucaṅkamamāno
anuvicaramānoti ārāmadassana-vanadassana-pabbatadassanādīnaṃ atthāya ito cito
ca vicaramāno. Adhiccanikkhamano kiresa kadāci deva nikkhamitvā evaṃ vicarati.
Daṇḍamolubbhāti daṇḍaṃ olumbhitvā gopālakadārako viya daṇḍaṃ purato ṭhapetvā daṇḍamatthake
dve hatthe patiṭṭhāpetvā piṭṭhipāṇiṃ hanukena uppīḷetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi.
200. Kiṃvādīti kiṃdiṭṭhiko.
Kimakkhāyīti kiṃ katheti. Ayaṃ rājā bhagavantaṃ avanditvā paṭisanthāramattakameva
katvā pañhaṃ pucchati. Tampi na aññātukāmatāya, acittīkārena pucchati. Kasmā?
Devadattassa pakkhiko kiresa. Devadatto attano santikaṃ āgacchamāne tathāgate
bhindati. So kira evaṃ vadeti ‘‘samaṇo gotamo amhākaṃ kulena saddhiṃ verī, na
no kulassa vuddhiṃ icchati. Bhaginīpi me cakkavattiparibhogā, taṃ pahāya
‘nassatesā’ti nikkhamitvā pabbaji. Bhāgineyyopi me cakkavattibījanti ñatvā
amhākaṃ kulassa vaḍḍhiyā atussanto ‘nassateta’nti tampi daharakāleyeva
pabbājesi. Ahaṃ pana tena vinā vattituṃ asakkonto anupabbajito. Evaṃ
pabbajitampi maṃ pabbajitadivasato paṭṭhāya na ujukehi akkhīhi oloketi.
Parisamajjhe bhāsantopi mahāpharasunā paharanto viya āpāyiko devadattotiādīni
bhāsatī’’ti. Evaṃ ayampi rājā devadattena bhinno, tasmā evamakāsi.
Atha bhagavā yathā ayaṃ rājā mayā pañhe pucchite na kathetīti vattuṃ na
labhati, yathā ca bhāsitassa atthaṃ na jānāti, evamassa kathessāmīti
tassānucchavikaṃ kathento yathāvādī khotiādimāha.
Tattha na kenaci loke viggayha tiṭṭhatīti loke kenaci saddhiṃ
viggāhikakathaṃ na karoti na vivadati. Tathāgato hi lokena saddhiṃ na vivadati;
loko pana tathāgatena saddhiṃ aniccanti vutte niccanti vadamāno, dukkhaṃ,
anattā, asubhanti vutte subhanti vadamāno vivadati. Tenevāha ‘‘nāhaṃ,
bhikkhave, lokena vivadāmi, lokova kho, bhikkhave, mayā vivadati, tathā na,
bhikkhave, dhammavādī kenaci lokasmiṃ vivadati, adhammavādīva kho, bhikkhave,
vivadatī’’ti (saṃ. ni. 3.94). Yathāti yena kāraṇena. Kāmehīti vatthukāmehipi
kilesakāmehipi. Taṃ brāhmaṇanti taṃ khīṇāsavaṃ brāhmaṇaṃ. Akathaṃkathinti
nibbicikicchaṃ. Chinnakukkuccanti vippaṭisārakukkuccassa ceva
hatthapādakukkuccassa ca chinnattā chinnakukkuccaṃ. Bhavābhaveti
punappunabbhave, hīnapaṇīte vā bhave, paṇīto hi bhavo vuddhippatto abhavoti
vuccati. Saññāti kilesasaññā. Kilesāyeva vā idha saññānāmena vuttā, tasmā yena
kāraṇena kāmehi visaṃyuttaṃ viharantaṃ taṃ loke ninnāvādiṃ khīṇāsavabrāhmaṇaṃ
kilesasaññā nānusenti, tañca kāraṇaṃ ahaṃ vadāmīti ayamettha attho. Iti bhagavā
attano khīṇāsavabhāvaṃ dīpeti. Nillāḷetvāti nīharitvā kīḷāpetvā. Tivisākhanti
tisākhaṃ. Nalāṭikanti valibhaṅgaṃ nalāṭe tisso rājiyo dassento valibhaṅgaṃ vuṭṭhāpetvāti
attho. Daṇḍamolubbhāti daṇḍaṃ uppīḷetvā. ‘‘Daṇḍamālubbhā’’tipi pāṭho, gahetvā
pakkāmīti attho.
201. Aññataroti nāmena apākaṭo eko
bhikkhu. So kira anusandhikusalo, bhagavatā yathā daṇḍapāṇī na jānāti, tathā
mayā kathitanti vutte kinti nu kho bhagavatā aviññeyyaṃ katvā pañho kathitoti
anusandhiṃ gahetvā dasabalaṃ yācitvā imaṃ pañhaṃ bhikkhusaṅghassa pākaṭaṃ
karissāmīti uṭṭhāyāsanā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā dasanakhasamujjalaṃ añjaliṃ
paggayha kiṃvādī pana, bhante bhagavātiādimāha.
Yatonidānanti bhāvanapuṃsakaṃ etaṃ, yena kāraṇena yasmiṃ kāraṇe satīti
attho. Papañcasaññāsaṅkhāti ettha saṅkhāti koṭṭhāso. Papañcasaññāti taṇhāmānadiṭṭhipapañcasampayuttā
saññā, saññānāmena vā papañcāyeva vuttā. Tasmā papañcakoṭṭhāsāti ayamettha
attho. Samudācarantīti pavattanti. Ettha ce natthi abhinanditabbanti yasmiṃ
dvādasāyatanasaṅkhāte kāraṇe sati papañcasaññāsaṅkhā samudācaranti, ettha
ekāyatanampi ce abhinanditabbaṃ abhivaditabbaṃ ajjhositabbaṃ natthīti attho.
Tattha abhininditabbanti ahaṃ mamanti abhinanditabbaṃ. Abhivaditabbanti ahaṃ
mamāti vattabbaṃ. Ajjhositabbanti ajjhositvā gilitvā pariniṭṭhapetvā
gahetabbayuttaṃ. Etenettha taṇhādīnaṃyeva appavattiṃ katheti. Esevantoti ayaṃ
abhinandanādīnaṃ natthibhāvova rāgānusayādīnaṃ anto. Eseva nayo sabbattha.
Daṇḍādānādīsu pana yāya cetanāya daṇḍaṃ ādiyati, sā daṇḍādānaṃ. Yāya
satthaṃ ādiyati parāmasati, sā satthādānaṃ. Matthakappattaṃ kalahaṃ.
Nānāgāhamattaṃ viggahaṃ. Nānāvādamattaṃ vivādaṃ. Tuvaṃ tuvanti evaṃ pavattaṃ
tuvaṃ tuvaṃ. Piyasuññakaraṇaṃ pesuññaṃ. Ayathāsabhāvaṃ musāvādaṃ karoti, sā
musāvādoti veditabbā. Ettheteti ettha dvādasasu āyatanesu ete kilesā. Kilesā hi
uppajjamānāpi dvādasāyatanāni nissāya uppajjanti, nirujjhamānāpi dvādasasu
āyatanesuyeva nirujjhanti. Evaṃ yatthuppannā, tattheva niruddhā honti.
Svāyamattho samudayasaccapañhena dīpetabbo –
‘‘Sā kho panesā taṇhā kattha uppajjamānā uppajjati, kattha nivisamānā
nivisatī’’ti vatvā – ‘‘yaṃ loke piyarūpaṃ sātarūpaṃ, etthesā taṇhā uppajjamānā
uppajjati, ettha nivisamānā nivisati. Kiñca loke piyarūpaṃ sātarūpaṃ? Cakkhu
loke piyarūpaṃ sātarūpa’’ntiādinā (vibha. 203) nayena dvādasasuyeva āyatanesu
tassā uppatti ca nirodho ca vutto. Yatheva ca taṇhā dvādasasu āyatanesu
uppajjitvā nibbānaṃ āgamma niruddhāpi āyatanesu puna samudācārassa abhāvato
āyatanesuyeva niruddhāti vuttā, evamimepi pāpakā akusalā dhammā āyatanesu
nirujjhantīti veditabbā. Atha vā yvāyaṃ abhinandanādīnaṃ abhāvova
rāgānusayādīnaṃ antoti vutto. Etthete rāgānusayādīnaṃ antoti laddhavohāre
nibbāne pāpakā akusalā dhammā aparisesā nirujjhanti. Yañhi yattha natthi, taṃ
tattha niruddhaṃ nāma hoti, svāyamattho nirodhapañhena dīpetabbo. Vuttañhetaṃ
‘‘dutiyaṃ jhānaṃ samāpannassa vitakkavicārā vacīsaṅkhārā paṭippassaddhā
hontī’’tiādi (paṭi. ma. 1.83).
202. Satthu ceva saṃvaṇṇitoti
satthārā ca pasaṃsito. Viññūnanti idampi karaṇatthe sāmivacanaṃ, paṇḍitehi
sabrahmacārīhi ca sambhāvitoti attho. Pahotīti sakkoti.
203. Atikkammeva mūlaṃ atikkamma
khandhanti sāro nāma mūle vā khandhe vā bhaveyya, tampi atikkamitvāti attho.
Evaṃsampadanti evaṃsampattikaṃ, īdisanti attho. Atisitvāti atikkamitvā. Jānaṃ
jānātīti jānitabbameva jānāti. Passaṃ passatīti passitabbameva passati. Yathā
vā ekacco viparītaṃ gaṇhanto jānantopi na jānāti, passantopi na passati, na evaṃ
bhagavā. Bhagavā pana jānanto jānātiyeva, passanto passatiyeva. Svāyaṃ
dassanapariṇāyakaṭṭhena cakkhubhūto. Viditakaraṇaṭṭhena ñāṇabhūto.
Aviparītasabhāvaṭṭhena pariyattidhammappavattanato vā hadayena cintetvā vācāya
nicchāritadhammamayoti dhammabhūto. Seṭṭhaṭṭhena brahmabhūto. Atha vā cakkhu
viya bhūtoti cakkhubhūtoti evametesu padesu attho veditabbo. Svāyaṃ dhammassa
vattanato vattā. Pavattāpanato pavattā. Atthaṃ nīharitvā dassanasamatthatāya
atthassa ninnetā. Amatādhigamāya paṭipattiṃ dadātīti amatassa dātā. Agaruṃ
katvāti punappunaṃ āyācāpentopi hi garuṃ karoti nāma, attano sāvakapāramīñāṇe ṭhatvā
sinerūpādato vālukaṃ uddharamāno viya dubbiññeyyaṃ katvā kathentopi garuṃ
karotiyeva nāma. Evaṃ akatvā amhe punappunaṃ ayācāpetvā suviññeyyampi no katvā
kathehīti vuttaṃ hoti.
204. Yaṃ kho no āvusoti ettha
kiñcāpi ‘‘yaṃ kho vo’’ti vattabbaṃ siyā, te pana bhikkhū attanā saddhiṃ saṅgaṇhanto
‘‘yaṃ kho no’’ti āha. Yasmā vā uddesova tesaṃ uddiṭṭhova. Bhagavā pana
therassāpi tesampi bhagavāva. Tasmā bhagavāti padaṃ sandhāyapi evamāha, yaṃ kho
amhākaṃ bhagavā tumhākaṃ saṃkhittena uddesaṃ uddisitvāti attho.
Cakkhuñcāvusotiādīsu ayamattho, āvuso, nissayabhāvena cakkhupasādañca
ārammaṇabhāvena catusamuṭṭhānikarūpe ca paṭicca cakkhuviññāṇaṃ nāma uppajjati.
Tiṇṇaṃ saṅgati phassoti tesaṃ tiṇṇaṃ saṅgatiyā phasso nāma uppajjati. Taṃ
phassaṃ paṭicca sahajātādivasena phassapaccayā vedanā uppajjati. Tāya vedanāya
yaṃ ārammaṇaṃ vedeti, tadeva saññā sañjānāti, yaṃ saññā sañjānāti, tadeva
ārammaṇaṃ vitakko vitakketi. Yaṃ vitakko vitakketi, tadevārammaṇaṃ papañco
papañceti. Tatonidānanti etehi cakkhurūpādīhi kāraṇehi. Purisaṃ papañcasaññāsaṅkhā
samudācarantīti taṃ apariññātakāraṇaṃ purisaṃ papañcakoṭṭhāsā abhibhavanti,
tassa pavattantīti attho. Tattha phassavedanāsaññā cakkhuviññāṇena sahajātā
honti. Vitakko cakkhuviññāṇānantarādīsu savitakkacittesu daṭṭhabbo. Papañcasaṅkhā
javanena sahajātā honti. Yadi evaṃ kasmā atītānāgataggahaṇaṃ katanti? Tathā
uppajjanato. Yatheva hi etarahi cakkhudvāriko papañco cakkhuñca rūpe ca
phassavedanāsaññāvitakke ca paṭicca uppanno, evamevaṃ atītānāgatesupi
cakkhuviññeyyesu rūpesu tassuppattiṃ dassento evamāha.
Sotañcāvusotiādīsupi eseva nayo. Chaṭṭhadvāre pana mananti bhavaṅgacittaṃ.
Dhammeti tebhūmakadhammārammaṇaṃ. Manoviññāṇanti āvajjanaṃ vā javanaṃ vā.
Āvajjane gahite phassavedanāsaññāvitakkā āvajjanasahajātā honti. Papañco
javanasahajāto. Javane gahite sahāvajjanakaṃ bhavaṅga mano nāma hoti, tato
phassādayo sabbepi javanena sahajātāva. Manodvāre pana yasmā atītādibhedaṃ
sabbampi ārammaṇaṃ hoti, tasmā atītānāgatapaccuppannesūti idaṃ yuttameva.
Idāni vaṭṭaṃ dassento so vatāvusoti desanaṃ ārabhi. Phassapaññattiṃ
paññapessatīti phasso nāma eko dhammo uppajjatīti evaṃ phassapaññattiṃ
paññapessati, dassessatīti attho. Esa nayo sabbattha. Evaṃ imasmiṃ sati idaṃ
hotīti dvādasāyatanavasena sakalaṃ vaṭṭaṃ dassetvā idāni dvādasāyatanapaṭikkhepavasena
vivaṭṭaṃ dassento so vatāvuso cakkhusmiṃ asatīti desanaṃ ārabhi. Tattha
vuttanayeneva attho veditabbo.
Evaṃ pañhaṃ vissajjetvā idāni sāvakena pañho kathitoti mā nikkaṅkhā
ahuvattha, ayaṃ bhagavā sabbaññutañāṇatulaṃ gahetvā nisinno, icchamānā tameva
upasaṅkamitvā nikkaṅkhā hothāti uyyojento ākaṅkhamānā ca panātiādimāha.
205. Imehi ākārehīti imehi kāraṇehi
papañcuppattiyā pāṭiyekkakāraṇehi ceva vaṭṭavivaṭṭakāraṇehi ca. Imehi padehīti
imehi akkharasampiṇḍanehi. Byañjanehīti pāṭiyekkaakkharehi. Paṇḍitoti paṇḍiccena
samannāgato. Catūhi vā kāraṇehi paṇḍito dhātukusalo āyatanakusalo
paccayākārakusalo kāraṇākāraṇakusaloti. Mahāpaññoti mahante atthe mahante
dhamme mahantā niruttiyo mahantāni paṭibhānāni pariggahaṇasamatthāya
mahāpaññāya samannāgato. Yathā taṃ mahākaccānenāti yathā mahākaccānena byākataṃ,
taṃ sandhāya tanti vuttaṃ. Yathā mahākaccānena byākataṃ, ahampi taṃ evamevaṃ
byākareyyenti attho.
Madhupiṇḍikanti mahantaṃ guḷapūvaṃ baddhasattuguḷakaṃ vā. Asecanakanti
asecitabbakaṃ. Sappiphāṇitamadhusakkarādīsu idaṃ nāmettha mandaṃ idaṃ bahukanti
na vattabbaṃ samayojitarasaṃ. Cetasoti cintakajātiko. Dabbajātikoti paṇḍitasabhāvo.
Ko nāmo ayanti idaṃ thero atibhaddako ayaṃ dhammapariyāyo, dasabalassa
sabbaññutaññāṇenevassa nāmaṃ gaṇhāpessāmīti cintetvā āha. Tasmāti yasmā madhupiṇḍiko
viya madhuro, tasmā madhupiṇḍikapariyāyotveva naṃ dhārehīti vadati. Sesaṃ
sabbattha uttānatthamevāti.
Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Madhupiṇḍikasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
-ooOoo-
No comments:
Post a Comment