Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
23. Kinh Gò Mối (Vammika Sutta) (Tiếp Theo)
Tên kinh lấy từ điểm đầu tiên của ẩn ngữ đó là gò mối ban ngày phun khói, ban đêm chiếu sáng.
117. Cái
then cửa là đồng nghĩa với vô minh; đem then cửa lên là từ bỏ vô minh này
Này Tỷ-kheo,
cái then cửa là đồng nghĩa với vô minh; đem then cửa lên là từ bỏ
vô minh; này kẻ có trí, cầm gươm đào lên là ý nghĩa này.
118. Con
nhái là đồng nghĩa với bực bội khó chịu
Con nhái là hình ảnh của “đụng tới thời nhảy” ở đây chỉ cho phản ứng của hành giả. Một tâm trạng thường có đối với người tu tập là phản ứng đối với sự việc xẩy ra ở chính thân tâm hay hoàn cảnh chung quanh. Thường là phản ứng bực bội do trống vắng dục lạc hay khó chịu khiến tâm bị giao động. Khi chánh niệm đủ mạnh thì chỉ có ghi nhận những hiện tượng sanh diệt hơn là phản ứng.
Này Tỷ-kheo,
con nhái là đồng nghĩa với phẫn nộ hiềm hận; đem con nhái lên là
từ bỏ phẫn nộ hiềm hận; này kẻ có trí cầm gươm đào lên là ý
nghĩa này.
119. Con
đường hai ngã là đồng nghĩa với nghi hoặc
Này Tỷ-kheo,
con đường hai ngã là đồng nghĩa với nghi hoặc; đem con đường hai ngã
lên là từ bỏ nghi hoặc; này kẻ có trí cầm gươm đào lên là ý
nghĩa này.
120. Đồ lọc sữa là đồng nghĩa với năm triền cái: dục tham triền cái, sân triền cái, hôn trầm thụy miên triền cái, trạo cử hối quá triền cái, nghi hoặc triền cái
Đồ lọc là biểu tượng cho “sau hết cái giữ lại là cặn bả”. Năm triền cái là dục tham, sân độc, hôn thuỵ, trạo hối và nghi hoặc là năm thành phẩm tự nhiên của tâm sống dục giới. Tuy là thuộc về thô nhưng lại là những gì tồn đọng cho tới khi năm thiền chi tầm, tứ, hỷ, lạc, định được lớn mạnh đầy đủ. Những pháp triền cái nầy giống như những “bản năng cố hữu” khiến chúng sanh bị giam chân lại trong sự tu tập nội tại.
Này Tỷ-kheo,
đồ lọc sữa là đồng nghĩa với năm triền cái: dục tham triền cái,
sân triền cái, hôn trầm thụy miên triền cái, trạo cử hối quá
triền cái, nghi hoặc triền cái; đem bỏ đồ lọc sữa lên là từ bỏ
năm triền cái; này kẻ có trí cầm gươm đào lên là ý nghĩa này.
121. Con rùa là đồng nghĩa với năm thủ uẩn, tức là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn; đem con rùa lên là từ bỏ năm thủ uẩn này
Con rùa với chiếc mai rùa cứng như chiếc giáp để rút đầu và bốn chân vào khi bị đụng tới đó là ví dụ của năm thủ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức là những gì luôn đi với ái chấp, mạn chấp và kiến chấp. Hành giả cần vượt quan nếp suy nghĩ cố hữu nầy với nhận thức sắc chỉ là sắc, thọ chỉ là thọ, tưởng chỉ là tưởng, hành chỉ là hành, thức chỉ là thức mà không có thái độ: đây là ta, là của ta, là tự ngã của ta.
Này Tỷ-kheo,
con rùa là đồng nghĩa với năm thủ uẩn, tức là sắc thủ uẩn, thọ
thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn; đem con rùa
lên là từ bỏ năm thủ uẩn; này kẻ có trí cầm gươm đào lên là ý
nghĩa này.
122. Con dao phay là đồng nghĩa với năm dục trưởng dưỡng, tức là các sắc do mắt nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn. Các tiếng do tai nhận thức... Các hương do mũi nhận thức... Các vị do lưỡi nhận thức... Các xúc do thân cảm xúc, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn
Chữ asisūnā là con dao chặt thịt vừa sắc bén và có sức nặng để chặt đứ ám chỉ cho khả năng chi phối của ngoại cảnh. Hành giả không phải chỉ có thách thức nội tại (chấp thủ năm uẩn) mà còn phải cẩn trọng với ngoại cảnh. Sự chi phối từ ngoại giới vốn một phần do ở thói quen nhiều đời. Đó là những tấn công bất ngờ mà hành giả chỉ cần xao lãng trong giây phút là có thể bị giao động.
Này Tỷ-kheo,
con dao phay là đồng nghĩa với năm dục trưởng dưỡng, tức là các
sắc do mắt nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích
lòng dục, hấp dẫn. Các tiếng do tai nhận thức... Các hương do mũi
nhận thức... Các vị do lưỡi nhận thức... Các xúc do thân cảm xúc,
khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục hấp dẫn; lấy
con dao phay lên là từ bỏ năm dục trưởng dưỡng; này kẻ có trí,
cầm gươm đào lên là ý nghĩa này.
123. Miếng
thịt là đồng nghĩa với hỷ tham
Miếng thịt đối với nhiều chúng sanh là sự hứa hẹn của ngon ngọt ở đây chỉ cho hai trạng thái mà bất cứ hành giả nào cũng cần cảnh giác là hỷ hay sự hân hoan và tham hay sự dính mắc. Mỗi mỗi sự thành tựu trong hành trình tu tập đều có dấu ấn của hỷ và ái chấp. Muốn chứng nhị thiền phải bỏ sơ thiền, muốn chứng tam thiền phải bỏ nhị thiền… Đó là ý nghĩ tế nhị.
Này Tỷ-kheo,
miếng thịt là đồng nghĩa với hỷ tham; lấy miếng thịt lên là từ bỏ
hỷ tham; này kẻ có trí, cầm gươm đào lên là ý nghĩa này.
124. Con rắn hổ là đồng nghĩa với vị Tỷ-kheo đã diệt trừ các lậu hoặc; hãy để con rắn hổ yên, chớ đụng chạm con rắn hổ
Này Tỷ-kheo,
con rắn hổ là đồng nghĩa với vị Tỷ-kheo đã diệt trừ các lậu hoặc;
hãy để con rắn hổ yên, chớ đụng chạm con rắn hổ, hãy đảnh lễ con
rắn hổ, là ý nghĩa này.
Thế Tôn thuyết
giảng như vậy. Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ Kheo
Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 23 [tóm tắt]
Kinh Gò Mối
(Vammika Sutta)
(M.i, 142)
Tôn giả Kumārakassapa được một thiên nhân
nói lên ví dụ một gò mối được một người có trí lấy gươm đào
lên và lấy lên một số vật dụng và khuyên Tôn giả đến hỏi đức
Phật ý nghĩa ví dụ này. Đức Phật giải thích cho Tôn giả nghe ý
nghĩa ví dụ ấy, nói lên sự tu hành của vị Tỷ- kheo Hữu học, dùng
gươm trí tuệ đào lên một số kiết sử phiền não cần phải quăng bỏ
đi để cuối cùng được giải thoát.
Ví dụ ấy như sau: Một gò mối, ban đêm phun
khói, ban ngày chiếu sáng. Có vị Bà-la- môn khuyên người có trí
cầm gươm đào lên, người này đào lên lần lượt lấy lên những vật
như sau: Một then cửa, một con nhái, một con đường hai ngã, một đồ
lọc sữa, một con rùa, một con dao phay, một miếng thịt, một con rắn
hổ. Đến đây, vị Bà-la-môn khuyên để con rắn hổ yên và đảnh lễ con
rắn hổ ấy.
Đức Phật giải thích như sau: Cái gò mối là
đồng nghĩa với thân năm uẩn. Cái gì công việc ban ngày làm, ban
đêm suy nghĩ đến, như vậy là ban đêm phun khói. Cái gì sau khi suy
tư ban đêm, ban ngày đem ra thực hành về thân, lời và ý, như vậy
là ban ngày chói sáng. Vị Bà-la-môn là đồng nghĩa với Như Lai.
Người có trí là đồng nghĩa với bậc Hữu học. Cây gươm là đồng
nghĩa với trí tuệ bậc Thánh. Đào lên đồng nghĩa với tinh tấn. Then
cửa đồng nghĩa với vô minh. Con nhái đồng nghĩa với não loạn phẫn
nộ. Con đường hai ngã đồng nghĩa với nghi hoặc. Đồ lọc sữa đồng
nghĩa với năm triền cái. Con rùa đồng nghĩa với năm thủ uẩn. Con
dao phay đồng nghĩa với năm dục tăng trưởng. Miếng thịt là đồng
nghĩa với hỷ tham. Con rắn hổ đồng nghĩa với vị Tỷ-kheo đã đoạn
tận các lậu hoặc.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 23 [dàn ý]
Kinh Gò Mối
(Vammika Sutta)
(M.i, 142)
A. Duyên khởi:
Một vị thiên đi đến Tôn giả Kumāra
Kassapa, khi Tôn giả này ở tại
Andhavana.
B. Chánh kinh:
I. Vị Thiên nói lên ví dụ một gò mối ban
đêm phun khói, ban ngày chói sáng, và một vị Bà-la-môn nói người có trí, lấy
cây gươm lần lượt đào lên 8 đồ vật và dừng lại khi thấy con rắn hổ. Vị Thiên
nói với Tôn giả Kumārakassapa nên đến Thế Tôn để hỏi ý nghĩa của ví dụ này.
II. Tôn giả Kumārakassapa đi đến Thế Tôn
thuật lại ví dụ ấy và yêu cầu Thế Tôn giải thích.
III. Thế Tôn giải thích vấn đề ấy với các
chi tiết, nói lên tiến trình tu hành của một vị hữu học từ khi hành trì cho đến
khi chứng quả.
C. Kết luận:
Các Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 23 [toát yếu]
Kinh Gò Mối
(Vammika Sutta)
(M.i, 142)
I.
TOÁT YẾU
Vammika Sutta - The ant-hill.
A deity presents a monk with an obscure
riddle, which is unravelled for him by the Buddha.
Gò mối
Một vị trời đặt cho một tỳ kheo một
câu đố bí hiểm, được Phật giải thích.
II.
TÓM TẮT
Một đêm nọ, một vị
trời xuất hiện trước tôn giả Kumāra-kassapa đang ở trong rừng Andha
(người mù), nói lên câu đố như sau. Có gò mối ban đêm phun khói,
ngày chiếu sáng; một bà-la-môn bảo kẻ trí hãy cầm gươm đào lên.
Kẻ trí làm theo lời bà-la-môn, tuần tự đào và lấy lên những vật
sau đây: 1. một then cửa; 2. một con nhái; 3. một cái chĩa [đường hai
ngã]; 4. một cái lọc; 5. một con rùa; 6. một con dao phay; 7. một miếng
thịt. Cuối cùng gặp một con rắn hổ, và đảnh lễ nó. Vị trời bảo
tỳ kheo hãy đến nhờ Phật giải ẩn ngữ trên, vì chỉ có Phật giải
nổi.
Phật giải thích cho tỳ kheo: Gò mối
là thân tứ đại; đêm phun khói là suy nghĩ; ngày chiếu sáng là ban
ngày thực hiện những gì ban đêm đã nghĩ; Bà-la-môn là đức Như Lai
bậc Chánh đẳng giác; kẻ trí là tỳ kheo bực hữu học; cây gươm là
trí tuệ bực thánh. "Đào" là tinh tấn tinh cần. Then cửa là
vô minh, "đem then cửa lên" là từ bỏ vô minh. Con nhái là
phẫn nộ hiềm hận; cái chĩa hai ngã là nghi hoặc; đồ lọc là năm
triền cái; rùa là năm thủ uẩn; dao phay là ngũ dục; miếng thịt là
hỷ tham. "Đào lên" có nghĩa là từ bỏ tất cả thứ ấy. Cuối
cùng con rắn hổ là vị đã diệt lậu hoặc, đáng đảnh lễ.
III.
CHÚ GIẢI
Ca-diếp đồng tử - Kumārakassapa
là con nuôi vua Ba-tư- nặc xứ Kosala, con của một phụ nữ xuất gia
làm ni trong lúc không biết đã mang thai. Vào thời gian thuyết kinh
này, ông còn ở địa vị hữu học; và đã đắc quả A-la-hán sau khi
thiền quán đề tài này. Luận nói vị trời trong kinh này là một vị
Bất hoàn ở cõi Tịnh cư, một trong nhóm năm người cùng tu thiền
trên một đỉnh núi.
IV.
PHÁP SỐ
Ba
nghiệp
Năm
triền cái
Năm
thủ uẩn
Năm
dục trưởng dưỡng
V.
KỆ TỤNG
"Gò
mối đêm phun khói
Và
chiếu sáng ban ngày
Một
vị bà-la-môn
Đi
đến người có trí
Bảo
cầm gươm đào bới
Gặp
ngay then chắn cửa
Lấy
ra rồi đào thêm
Lấy lên một con nhái,
Một
cái chĩa hai ngã,
Một
đồ dùng lọc sữa
Rồi
đến một con rùa
Và
một con dao phay
Cùng
với một miếng thịt
Cuối
cùng gặp rắn hổ
Bà-la-môn
bèn bảo
Kẻ
trí hãy dừng tay."
Hãy
đến xin Phật giải
Một
vị trời bảo vậy
Với
Ca-diếp đồng tử
Lúc
đêm đã gần tàn.
Ca-diếp
đến nơi Phật
Đảnh
lễ xin giải rõ.
Phật
giảng dạy như sau,
Bà-la-môn
là Phật,
Kẻ
trí bậc Hữu học
Gò mối thân tứ đại
Phun khói là suy nghĩ
Chiếu
sáng là hành động,
Đào
bới dụ tinh tấn
Gươm
là thánh trí tuệ
Then
cửa dụ vô minh
Hãy
lấy then cửa lên
Là
"từ bỏ vô minh"
Con
nhái là phẫn hận
Chĩa
hai là nghi hoặc
Đồ
lọc là năm triền
Con
rùa là thủ uẩn
Dao
phay là năm dục
Miếng
thịt là hỷ tham
Đào
lên ngần ấy thứ
Sẽ
gặp cái cuối cùng:
Rắn
hổ vị lậu tận
Để yên đừng động đến
Ấy
việc làm đã xong.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
249. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ samayaṃ Bhagavā
sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Tena kho pana samayena
āyasmā kumārakassapo andhavane viharati. Atha kho aññatarā devatā abhikkantāya
rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ andhavanaṃ obhāsetvā yenāyasmā
kumārakassapo tenupasaṅkami upasaṅkamitvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhitā
kho sā devatā āyasmantaṃ kumārakassapaṃ etadavoca :
''Bhikkhu bhikkhu, ayaṃ vammiko [vammīko (katthaci)
sakkatānurūpaṃ] rattiṃ dhūmāyati, divā pajjalati. Brāhmaṇo evamāha : 'abhikkhaṇa,
sumedha, satthaṃ ādāyāti. Abhikkhaṇanto sumedho satthaṃ ādāya addasa laṅgiṃ 'laṅgī,
bhadanteti. Brāhmaṇo evamāha : 'ukkhipa laṅgiṃ abhikkhaṇa, sumedha, satthaṃ
ādāyāti. Abhikkhaṇanto sumedho satthaṃ ādāya addasa uddhumāyikaṃ. 'Uddhumāyikā,
bhadanteti. Brāhmaṇo evamāha : 'ukkhipa uddhumāyikaṃ abhikkhaṇa, sumedha,
satthaṃ ādāyāti. Abhikkhaṇanto sumedho satthaṃ ādāya addasa dvidhāpathaṃ.
'Dvidhāpatho, bhadanteti. Brāhmaṇo evamāha : 'ukkhipa dvidhāpathaṃ abhikkhaṇa,
sumedha, satthaṃ ādāyāti. Abhikkhaṇanto sumedho satthaṃ ādāya addasa caṅgavāraṃ
[paṅkavāraṃ (syā.), caṅkavāraṃ (ka.)]. 'Caṅgavāro, bhadanteti. Brāhmaṇo evamāha
: 'ukkhipa caṅgavāraṃ abhikkhaṇa,
sumedha, satthaṃ ādāyāti. Abhikkhaṇanto sumedho satthaṃ ādāya addasa kummaṃ.
'Kummo , bhadanteti. Brāhmaṇo evamāha : 'ukkhipa kummaṃ abhikkhaṇa, sumedha,
satthaṃ ādāyāti. Abhikkhaṇanto sumedho satthaṃ ādāya addasa asisūnaṃ. 'Asisūnā,
bhadanteti. Brāhmaṇo evamāha : 'ukkhipa asisūnaṃ abhikkhaṇa, sumedha, satthaṃ
ādāyāti. Abhikkhaṇanto sumedho satthaṃ ādāya addasa maṃsapesiṃ. 'Maṃsapesi,
bhadanteti. Brāhmaṇo evamāha : 'ukkhipa maṃsapesiṃ abhikkhaṇa, sumedha, satthaṃ
ādāyāti. Abhikkhaṇanto sumedho satthaṃ ādāya addasa nāgaṃ. 'Nāgo, bhadanteti.
Brāhmaṇo evamāha : 'tiṭṭhatu nāgo, mā nāgaṃ ghaṭṭesi namo karohi nāgassāti.
''Ime kho tvaṃ, bhikkhu, pañhe
bhagavantaṃ upasaṅkamitvā puccheyyāsi, yathā ca te Bhagavā byākaroti
tathā naṃ dhāreyyāsi. Nāhaṃ taṃ, bhikkhu, passāmi sadevake loke samārake
sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya, yo imesaṃ pañhānaṃ
veyyākaraṇena cittaṃ ārādheyya aññatra tathāgatena vā, tathāgatasāvakena vā,
ito vā pana sutvāti : idamavoca sā devatā. Idaṃ vatvā tatthevantaradhāyi.
250. Atha kho āyasmā
kumārakassapo tassā rattiyā accayena yena Bhagavā tenupasaṅkami upasaṅkamitvā
bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā
kumārakassapo bhagavantaṃ etadavoca :
''imaṃ, bhante, rattiṃ aññatarā devatā abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā
kevalakappaṃ andhavanaṃ obhāsetvā yenāhaṃ
tenupasaṅkami upasaṅkamitvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhitā kho, bhante, sā
devatā maṃ etadavoca : 'bhikkhu bhikkhu, ayaṃ vammiko rattiṃ dhūmāyati, divā
pajjalati. Brāhmaṇo evamāha : 'abhikkhaṇa, sumedha, satthaṃ ādāyāti. Abhikkhaṇanto
sumedho satthaṃ ādāya - pe - ito vā pana sutvāti. Idamavoca, bhante, sā devatā.
Idaṃ vatvā tatthevantaradhāyi. 'Ko nu kho, bhante, vammiko, kā rattiṃ
dhūmāyanā, kā divā pajjalanā, ko brāhmaṇo, ko sumedho, kiṃ satthaṃ, kiṃ
abhikkhaṇaṃ, kā laṅgī, kā uddhumāyikā, ko dvidhāpatho, kiṃ caṅgavāraṃ, ko
kummo, kā asisūnā , kā maṃsapesi, ko nāgoti?
251. '''Vammikoti kho, bhikkhu, imassetaṃ cātumahābhūtikassa
[cātummahābhūtikassa (sī. syā. pī.)] kāyassa adhivacanaṃ,
mātāpettikasambhavassa odanakummāsūpacayassa
aniccucchādana-parimaddanabhedana-viddhaṃsana-dhammassa. ''Yaṃ kho, bhikkhu, divā
kammante [kammantaṃ (ka.)] ārabbha rattiṃ anuvitakketi anuvicāreti : ayaṃ rattiṃ
dhūmāyanā. Yaṃ kho, bhikkhu, rattiṃ anuvitakketvā anuvicāretvā divā kammante
payojeti kāyena vācāya 'manasā [( ) natthi (sī. syā.)] : ayaṃ divā pajjalanā.
'''Brāhmaṇoti kho, bhikkhu,
tathāgatassetaṃ adhivacanaṃ arahato sammāsambuddhassa. 'Sumedhoti kho bhikkhu
sekkhassetaṃ bhikkhuno adhivacanaṃ. '''Satthanti kho, bhikkhu, ariyāyetaṃ
paññāya adhivacanaṃ. 'Abhikkhaṇanti kho, bhikkhu, vīriyārambhassetaṃ adhivacanaṃ.
'''Laṅgīti kho, bhikkhu, avijjāyetaṃ adhivacanaṃ. Ukkhipa laṅgiṃ, pajaha avijjaṃ
abhikkhaṇa, sumedha, satthaṃ ādāyāti ayametassa attho. '''Uddhumāyikāti kho,
bhikkhu, kodhūpāyāsassetaṃ adhivacanaṃ. Ukkhipa uddhumāyikaṃ, pajaha
kodhūpāyāsaṃ abhikkhaṇa, sumedha, satthaṃ ādāyāti ayametassa attho.
'''Dvidhāpathoti kho, bhikkhu,
vicikicchāyetaṃ adhivacanaṃ. Ukkhipa dvidhāpathaṃ, pajaha vicikicchaṃ abhikkhaṇa,
sumedha, satthaṃ ādāyāti ayametassa attho. '''Caṅgavāranti kho, bhikkhu,
pañcannetaṃ nīvaraṇānaṃ adhivacanaṃ, seyyathidaṃ : kāmacchandanīvaraṇassa,
byāpādanīvaraṇassa, thīnamiddhanīvaraṇassa, uddhaccakukkuccanīvaraṇassa,
vicikicchānīvaraṇassa. Ukkhipa caṅgavāraṃ, pajaha pañca nīvaraṇe abhikkhaṇa, sumedha, satthaṃ ādāyāti
ayametassa attho. '''Kummoti kho, bhikkhu, pañcannetaṃ upādānakkhandhānaṃ
adhivacanaṃ, seyyathidaṃ : rūpupādānakkhandhassa, vedanupādānakkhandhassa,
saññupādānakkhandhassa, saṅkhārupādānakkhandhassa, viññāṇupādānakkhandhassa.
Ukkhipa kummaṃ, pajaha pañcupādānakkhandhe abhikkhaṇa, sumedha, satthaṃ ādāyāti
ayametassa attho. '''Asisūnāti kho, bhikkhu, pañcannetaṃ kāmaguṇānaṃ adhivacanaṃ
: cakkhuviññeyyānaṃ rūpānaṃ iṭṭhānaṃ kantānaṃ manāpānaṃ piyarūpānaṃ kāmūpasaṃhitānaṃ
rajanīyānaṃ, sotaviññeyyānaṃ saddānaṃ - pe - ghānaviññeyyānaṃ gandhānaṃ - pe -
jivhāviññeyyānaṃ rasānaṃ - pe - kāyaviññeyyānaṃ
phoṭṭhabbānaṃ iṭṭhānaṃ kantānaṃ manāpānaṃ piyarūpānaṃ kāmūpasaṃhitānaṃ rajanīyānaṃ. Ukkhipa asisūnaṃ, pajaha pañca
kāmaguṇe abhikkhaṇa, sumedha, satthaṃ ādāyāti ayametassa attho. '''Maṃsapesīti
kho, bhikkhu, nandīrāgassetaṃ adhivacanaṃ. Ukkhipa maṃsapesiṃ, pajaha nandīrāgaṃ
abhikkhaṇa, sumedha, satthaṃ ādāyāti ayametassa attho. '''Nāgoti kho, bhikkhu,
khīṇāsavassetaṃ bhikkhuno adhivacanaṃ. Tiṭṭhatu nāgo, mā nāgaṃ ghaṭṭesi namo
karohi nāgassāti ayametassa atthoti. Idamavoca Bhagavā. Attamano āyasmā
kumārakassapo bhagavato bhāsitaṃ abhinandīti.
Vammikasuttaṃ niṭṭhitaṃ tatiyaṃ.
-ooOoo-
23.
Vammikasuttavaṇṇanā [Atthakathā]
249. Evaṃ me sutanti
vammikasuttaṃ. Tattha āyasmāti piyavacanametaṃ. Kumārakassapoti tassa nāmaṃ.
Kumārakāle pabbajitattā pana bhagavatā, ‘‘kassapaṃ pakkosatha, idaṃ phalaṃ vā
khādanīyaṃ vā kassapassa dethā’’ti vutte, katarassa kassapassāti
kumārakassapassāti evaṃ gahitanāmattā tato paṭṭhāya vuḍḍhakālepi
‘‘kumārakassapo’’ tveva vuccati. Apica raññā posāvanikaputtattāpi taṃ
‘‘kumārakassapo’’ti sañjāniṃsu. Ayaṃ panassa pubbayogato paṭṭhāya āvibhāvakathā
–
Thero kira padumuttarassa
bhagavato kāle seṭṭhiputto ahosi. Athekadivasaṃ bhagavantaṃ citrakathiṃ ekaṃ
attano sāvakaṃ ṭhānantare ṭhapentaṃ disvā bhagavato sattāhaṃ dānaṃ datvā,
‘‘ahampi bhagavā anāgate ekassa buddhassa ayaṃ thero viya citrakathī sāvako
bhaveyya’’nti patthanaṃ katvā puññāni karonto kassapassa bhagavato sāsane
pabbajitvā visesaṃ nibbattetuṃ nāsakkhi.
Tadā kira parinibbutassa
bhagavato sāsane osakkante pañca bhikkhū nisseṇiṃ bandhitvā pabbataṃ abhiruyha
samaṇadhammaṃ akaṃsu. Saṅghatthero tatiyadivase arahattaṃ patto. Anuthero
catutthadivase anāgāmī ahosi. Itare tayo visesaṃ nibbattetuṃ asakkontā devaloke
nibbattiṃsu. Tesaṃ ekaṃ buddhantaraṃ devesu ca manussesu ca sampattiṃ
anubhontānaṃ eko takkasilāyaṃ rājakule nibbattitvā pukkusāti nāma rājā hutvā
bhagavantaṃ uddissa pabbajitvā rājagahaṃ gacchanto kumbhakārasālāyaṃ bhagavato
dhammadesanaṃ sutvā anāgāmiphalaṃ patto. Eko ekasmiṃ samuddapaṭṭane kulaghare
nibbattitvā nāvaṃ āruyha bhinnanāvo dārucīrāni nivāsetvā lābhasampattiṃ patto,
‘‘ahaṃ arahā’’ti cittaṃ uppādetvā, ‘‘na tvaṃ arahā, gaccha satthāraṃ pañhaṃ
pucchā’’ti atthakāmāya devatāya codito tathā katvā arahattaphalaṃ patto.
Eko rājagahe ekissā
kuladārikāya kucchimhi uppanno. Sā ca paṭhamaṃ mātāpitaro yācitvā pabbajjaṃ
alabhamānā kulagharaṃ gatā gabbhasaṇṭhitampi ajānantī sāmikaṃ ārādhetvā tena
anuññātā bhikkhunīsu pabbajitā. Tassā gabbhininimittaṃ disvā bhikkhuniyo
devadattaṃ pucchiṃsu, so ‘‘assamaṇī’’ti āha. Dasabalaṃ pucchiṃsu, satthā
upālittheraṃ paṭicchāpesi. Thero sāvatthinagaravāsīni kulāni visākhañca upāsikaṃ
pakkosāpetvā sodhento, – ‘‘pure laddho gabbho, pabbajjā arogā’’ti āha. Satthā
‘‘suvinicchitaṃ adhikaraṇa’’nti therassa sādhukāraṃ adāsi. Sā bhikkhunī suvaṇṇabimbasadisaṃ
puttaṃ vijāyi, taṃ gahetvā rājā pasenadi kosalo posāpesi. ‘‘Kassapo’’ti cassa
nāmaṃ katvā aparabhāge alaṅkaritvā satthu santikaṃ netvā pabbājesi. Iti rañño
posāvanikaputtattāpi taṃ ‘‘kumārakassapo’’ti sañjāniṃsūti.
Andhavaneti evaṃnāmake vane.
Taṃ kira vanaṃ dvinnaṃ buddhānaṃ kāle avijahitanāmaṃ andhavanaṃtveva paññāyati.
Tatrāyaṃ paññattivibhāvanā – appāyukabuddhānañhi sarīradhātu na ekagghanā hoti.
Adhiṭṭhānānubhāvena vippakiriyati. Teneva amhākampi bhagavā, – ‘‘ahaṃ na ciraṭṭhitiko,
appakehi sattehi ahaṃ diṭṭho, yehi na diṭṭho, teva bahutarā, te me dhātuyo
ādāya tattha tattha pūjentā saggaparāyaṇā bhavissantī’’ti parinibbānakāle,
‘‘attano sarīraṃ vippakiriyatū’’ti adhiṭṭhāsi. Dīghāyukabuddhānaṃ pana suvaṇṇakkhandho
viya ekagghanaṃ dhātusarīraṃ tiṭṭhati.
Kassapassāpi bhagavato tatheva
aṭṭhāsi. Tato mahājanā sannipatitvā, ‘‘dhātuyo ekagghanā na sakkā viyojetuṃ, kiṃ
karissāmā’’ti sammantayitvā ekagghanameva cetiyaṃ karissāma, kittakaṃ pana hotu
tanti āhaṃsu. Eke sattayojaniyanti āhaṃsu. Etaṃ atimahantaṃ, anāgate jaggituṃ
na sakkā, chayojanaṃ hotu, pañcayojanaṃ… catuyojanaṃ… tiyojanaṃ… dviyojanaṃ…
ekayojanaṃ hotūti sanniṭṭhānaṃ katvā iṭṭhakā kīdisā hontūti bāhirante iṭṭhakā
rattasuvaṇṇamayā ekagghanā satasahassagghanikā hontu, abbhantarimante
paññāsasahassagghanikā. Haritālamanosilāhi mattikākiccaṃ kayiratu, telena
udakakiccanti niṭṭhaṃ gantvā cattāri mukhāni catudhā vibhajiṃsu. Rājā ekaṃ
mukhaṃ gaṇhi, rājaputto pathavindarakumāro ekaṃ, amaccānaṃ jeṭṭhako hutvā
senāpati ekaṃ, janapadānaṃ jeṭṭhako hutvā seṭṭhi ekaṃ.
Tattha dhanasampannatāya
rājāpi suvaṇṇaṃ nīharāpetvā attanā gahitamukhe kammaṃ ārabhi, uparājāpi,
senāpatipi. Seṭṭhinā gahitamukhe pana kammaṃ olīyati. Tato yasorato nāma eko upāsako
tepiṭako bhāṇako anāgāmī ariyasāvako, so kammaṃ olīyatīti ñatvā pañca sakaṭasatāni
yojāpetvā janapadaṃ gantvā ‘‘kassapasammāsambuddho vīsativassasahassāni ṭhatvā
parinibbuto. Tassa yojanikaṃ ratanacetiyaṃ kayirati, yo yaṃ dātuṃ ussahati suvaṇṇaṃ
vā hiraññaṃ vā sattaratanaṃ vā haritālaṃ vā manosilaṃ vā, so taṃ detū’’ti
samādapesi. Manussā attano attano thāmena hiraññasuvaṇṇādīni adaṃsu. Asakkontā
telataṇḍulādīni dentiyeva. Upāsako telataṇḍulādīni kammakārānaṃ
bhattavetanatthaṃ pahiṇāti, avasesehi suvaṇṇaṃ cetāpetvā pahiṇāti, evaṃ
sakalajambudīpaṃ acari.
Cetiye kammaṃ niṭṭhitanti
cetiyaṭṭhānato paṇṇaṃ pahiṇiṃsu – ‘‘niṭṭhitaṃ kammaṃ ācariyo āgantvā cetiyaṃ
vandatū’’ti. Sopi paṇṇaṃ pahiṇi – ‘‘mayā sakalajambudīpo samādapito, yaṃ atthi,
taṃ gahetvā kammaṃ niṭṭhāpentū’’ti. Dvepi paṇṇāni antarāmagge samāgamiṃsu.
Ācariyassa paṇṇato pana cetiyaṭṭhānato paṇṇaṃ paṭhamataraṃ ācariyassa hatthaṃ
agamāsi. So paṇṇaṃ vācetvā cetiyaṃ vandissāmīti ekakova nikkhami. Antarāmagge aṭaviyaṃ
pañca corasatāni uṭṭhahiṃsu. Tatrekacce taṃ disvā iminā sakalajambudīpato
hiraññasuvaṇṇaṃ sampiṇḍitaṃ, nidhikumbhī no pavaṭṭamānā āgatāti avasesānaṃ
ārocetvā taṃ aggahesuṃ. Kasmā tātā, maṃ gaṇhathāti? Tayā sakalajambudīpato
sabbaṃ hiraññasuvaṇṇaṃ sampiṇḍitaṃ, amhākampi thokaṃ thokaṃ dehīti. Kiṃ tumhe
na jānātha, kassapo bhagavā parinibbuto, tassa yojanikaṃ ratanacetiyaṃ
kayirati, tadatthāya mayā samādapitaṃ, no attano atthāya. Taṃ taṃ laddhaladdhaṭṭhānato
tattheva pesitaṃ, mayhaṃ pana nivatthasāṭakamattaṃ ṭhapetvā aññaṃ vittaṃ kākaṇikampi
natthīti.
Eke, ‘‘evametaṃ vissajetha
ācariya’’nti āhaṃsu. Eke, ‘‘ayaṃ rājapūjito amaccapūjito, amhesu kañcideva
nagaravīthiyaṃ disvā rājarājamahāmattādīnaṃ ārocetvā anayavyasanaṃ pāpuṇāpeyyā’’ti
āhaṃsu. Upāsako, ‘‘tātā, nāhaṃ evaṃ karissāmī’’ti āha. Tañca kho tesu
kāruññena, na attano jīvitanikantiyā. Atha tesu gahetabbo vissajjetabboti
vivadantesu gahetabboti laddhikā eva bahutarā hutvā jīvitā voropayiṃsu.
Tesaṃ balavaguṇe ariyasāvake
aparādhena nibbutadīpasikhā viya akkhīni antaradhāyiṃsu. Te, ‘‘kahaṃ bho cakkhu,
kahaṃ bho cakkhū’’ti vippalapantā ekacce ñātakehi gehaṃ nītā. Ekacce noñātakā
anāthāti tattheva aṭaviyaṃ rukkhamūle paṇṇasālāyaṃ vasiṃsu. Aṭaviṃ āgatamanussā
kāruññena tesaṃ taṇḍulaṃ vā puṭabhattaṃ vā paribbayaṃ vā denti. Dārupaṇṇādīnaṃ
atthāya gantvā āgatā manussā kuhiṃ gatatthāti vutte andhavanaṃ gatamhāti
vadanti. Evaṃ dvinnampi buddhānaṃ kāle taṃ vanaṃ andhavanaṃtveva paññāyati.
Kassapabuddhakāle panetaṃ chaḍḍitajanapade aṭavi ahosi. Amhākaṃ bhagavato kāle
sāvatthiyā avidūre jetavanassa piṭṭhibhāge pavivekakāmānaṃ kulaputtānaṃ vasanaṭṭhānaṃ
padhānagharaṃ ahosi, tattha āyasmā kumārakassapo tena samayena sekhapaṭipadaṃ
pūrayamāno viharati. Tena vuttaṃ ‘‘andhavane viharatī’’ti.
Aññatarā devatāti
nāmagottavasena apākaṭā ekā devatāti attho. ‘‘Abhijānāti no, bhante, bhagavā
ahuñātaññatarassa mahesakkhassa saṃkhittena taṇhāsaṅkhayavimuttiṃ bhāsitā’’ti
(ma. ni. 1.365) ettha pana abhiññāto sakkopi devarājā aññataroti vutto.
Devatāti ca idaṃ devānampi devadhītānampi sādhāraṇavacanaṃ. Imasmiṃ panatthe
devo adhippeto. Abhikkantāya rattiyāti ettha abhikkantasaddo
khayasundarābhirūpaabbhanumodanādīsu dissati. Tattha – ‘‘abhikkantā, bhante,
ratti, nikkhanto paṭhamo yāmo, ciranisinno bhikkhusaṅgho, uddisatu, bhante,
bhagavā bhikkhūnaṃ pātimokkha’’nti evamādīsu (a. ni. 8.20) khaye dissati. ‘‘Ayaṃ
imesaṃ catunnaṃ puggalānaṃ abhikkantataro ca paṇītataro cā’’ti (a. ni. 4.100)
evamādīsu sundare.
‘‘Ko me vandati pādāni,
iddhiyā yasasā jalaṃ;
Abhikkantena vaṇṇena, sabbā
obhāsayaṃ disā’’ti. (vi. va. 857) –
Evamādīsu abhirūpe.
‘‘Abhikkantaṃ, bho gotamā’’ti evamādīsu (pārā. 15) abbhanumodane. Idha pana
khaye. Tena abhikkantāya rattiyāti parikkhīṇāya rattiyāti vuttaṃ hoti. Tatthāyaṃ
devaputto majjhimayāmasamanantare āgatoti veditabbo. Abhikkantavaṇṇāti idha
abhikkantasaddo abhirūpe. Vaṇṇasaddo pana chavi-thuti-kulavaggakāraṇa-saṇṭhānapamāṇarūpāyatanādīsu
dissati. Tattha, ‘‘suvaṇṇavaṇṇosi bhagavā’’ti evamādīsu chaviyā. ‘‘Kadā saññūḷhā
pana te gahapati samaṇassa gotamassa vaṇṇā’’ti (ma. ni. 2.77) evamādīsu thutiyaṃ.
‘‘Cattārome, bho gotama, vaṇṇā’’ti evamādīsu (dī. ni. 3.115) kulavagge. ‘‘Atha
kena nu vaṇṇena, gandhathenoti vuccatī’’ti evamādīsu (saṃ. ni. 1.234) kāraṇe.
‘‘Mahantaṃ hatthirājavaṇṇaṃ abhinimminitvā’’ti evamādīsu (saṃ. ni. 1.138) saṇṭhāne.
‘‘Tayo pattassa vaṇṇā’’ti evamādīsu (pārā. 602) pamāṇe. ‘‘Vaṇṇo gandho raso
ojā’’ti evamādīsu rūpāyatane. So idha chaviyaṃ daṭṭhabbo. Tena abhikkantavaṇṇāti
abhirūpachaviiṭṭhavaṇṇā, manāpavaṇṇāti vuttaṃ hoti. Devatā hi manussalokaṃ
āgacchamānā pakativaṇṇaṃ pakatiiddhiṃ pajahitvā oḷārikaṃ attabhāvaṃ katvā
atirekavaṇṇaṃ atirekaiddhiṃ māpetvā naṭasamajjādīni gacchantā manussā viya
abhisaṅkhatena kāyena āgacchanti. Ayampi devaputto tatheva āgato. Tena vuttaṃ
‘‘abhikkantavaṇṇā’’ti.
Kevalakappanti ettha
kevalasaddo anavasesa-yebhūyya-abyāmissānatirekadaḷhattha-visaṃyogādianekattho.
Tathā hissa, ‘‘kevalaparipuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariya’’nti (pārā. 1)
evamādīsu anavasesattamattho. ‘‘Kevalakappā ca aṅgamagadhā pahūtaṃ khādanīyaṃ
bhojanīyaṃ ādāya upasaṅkamissantī’’ti evamādīsu yebhuyyatā. ‘‘Kevalassa
dukkhakkhandhassa samudayo hotī’’ti (vibha. 225) evamādīsu abyāmissatā.
‘‘Kevalaṃ saddhāmattakaṃ nūna ayamāyasmā’’ti (mahāva. 244) evamādīsu
anatirekatā. ‘‘Āyasmato anuruddhassa bāhiyo nāma saddhivihāriko kevalakappaṃ saṅghabhedāya
ṭhito’’ti (a. ni. 4.243) evamādīsu daḷhatthatā. ‘‘Kevalī vusitavā
uttamapurisoti vuccatī’’ti (saṃ. ni. 3.57) evamādīsu visaṃyogo. Idha panassa
anavasesattamatthoti adhippeto.
Kappasaddo panāyaṃ
abhisaddahana-vohāra-kāla-paññatti- chedana-vikappa-lesa-samantabhāvādi-anekattho.
Tathā hissa, ‘‘okappaniyametaṃ bhoto gotamassa, yathā taṃ arahato
sammāsambuddhassā’’ti (ma. ni. 1.387) evamādīsu abhisaddahanamattho.
‘‘Anujānāmi, bhikkhave, pañcahi samaṇakappehi phalaṃ paribhuñjitu’’nti (cūḷava.
250) evamādīsu vohāro. ‘‘Yena sudaṃ niccakappaṃ viharāmī’’ti evamādīsu (ma. ni.
1.387) kālo. ‘‘Iccāyasmā kappo’’ti (saṃ. ni. 3.124) evamādīsu paññatti. ‘‘Alaṅkatā
kappitakesamassū’’ti (saṃ. ni. 4.365) evamādīsu chedanaṃ. ‘‘Kappati dvaṅgulakappo’’ti
(cūḷava. 446) evamādīsu vikappo. ‘‘Atthi kappo nipajjitu’’nti (a. ni. 8.80)
evamādīsu leso. ‘‘Kevalakappaṃ veḷuvanaṃ obhāsetvā’’ti (saṃ. ni. 1.94)
evamādīsu samantabhāvo. Idha panassa samantabhāvo attho adhippeto. Tasmā
kevalakappaṃ andhavananti ettha anavasesaṃ samantato andhavananti evamattho daṭṭhabbo.
Obhāsetvāti vatthālaṅkārasarīrasamuṭṭhitāya
ābhāya pharitvā, candimā viya ca sūriyo viya ca ekobhāsaṃ ekapajjotaṃ karitvāti
attho. Ekamantaṃ aṭṭhāsīti ekasmiṃ ante, ekasmiṃ okāse aṭṭhāsi. Etadavocāti etaṃ
‘‘bhikkhu bhikkhū’’tiādivacanamavoca. Kasmā panāyaṃ avanditvā samaṇavohāreneva
kathetīti? Samaṇasaññāsamudācāreneva. Evaṃ kirassa ahosi – ‘‘ayaṃ antarā
kāmāvacare vasi. Ahaṃ pana asmi tato kālato paṭṭhāya brahmacārī’’ti samaṇasaññāvassa
samudācarati, tasmā avanditvā samaṇavohāreneva katheti. Pubbasahāyo kireso
devaputto therassa. Kuto paṭṭhāyāti? Kassapasammāsambuddhakālato paṭṭhāya. Yo
hi pubbayoge āgatesu pañcasu sahāyesu anuthero catutthadivase anāgāmī ahosīti
vutto, ayaṃ so. Tadā kira tesu saṅghattherassa arahatteneva saddhiṃ abhiññā
āgamiṃsu. So, ‘‘mayhaṃ kiccaṃ matthakaṃ patta’’nti vehāsaṃ uppatitvā
anotattadahe mukhaṃ dhovitvā uttarakuruto piṇḍapātaṃ ādāya āgantvā, ‘‘imaṃ,
āvuso, piṇḍapātaṃ bhuñjitvā appamattā samaṇadhammaṃ karothā’’ti āha. Itare āhaṃsu
– ‘‘na, āvuso, amhākaṃ evaṃ katikā atthi – ‘yo paṭhamaṃ visesaṃ nibbattetvā piṇḍapātaṃ
āharati, tenābhataṃ bhuñjitvā sesehi samaṇadhammo kātabbo’ti. Tumhe attano
upanissayena kiccaṃ matthakaṃ pāpayittha. Mayampi sace no upanissayo
bhavissati, kiccaṃ matthakaṃ pāpessāma. Papañco esa amhākaṃ, gacchatha
tumhe’’ti. So yathāphāsukaṃ gantvā āyupariyosāne parinibbāyi.
Punadivase anuthero
anāgāmiphalaṃ sacchakāsi, tassa abhiññāyo āgamiṃsu. Sopi tatheva piṇḍapātaṃ
āharitvā tehi paṭikkhitto yathāphāsukaṃ gantvā āyupariyosāne suddhāvāse nibbatti.
So suddhāvāse ṭhatvā te sahāye olokento, eko tadāva parinibbuto, eko adhunā
bhagavato santike ariyabhūmiṃ patto, eko lābhasakkāraṃ nissāya, ‘‘ahaṃ
arahā’’ti cittaṃ uppādetvā suppārakapaṭṭane vasatīti disvā taṃ upasaṅkamitvā,
‘‘na tvaṃ arahā, na arahattamaggaṃ paṭipanno, gaccha bhagavantaṃ upasaṅkamitvā
dhammaṃ suṇāhī’’ti uyyojesi. Sopi antaraghare bhagavantaṃ ovādaṃ yācitvā,
‘‘tasmā tiha te bāhiya evaṃ sikkhitabbaṃ diṭṭhe diṭṭhamattaṃ hotū’’ti (udā. 10)
bhagavatā saṃkhittena ovadito ariyabhūmiṃ sampāpuṇi.
Tato añño eko atthi, so
kuhinti olokento andhavane sekkhapaṭipadaṃ pūrayamāno viharatīti disvā cintesi
– ‘‘sahāyakassa santike gamissāmīti, gacchantena pana tucchahatthena agantvā
kiñci paṇṇākāraṃ gahetvā gantuṃ vaṭṭati, sahāyo kho pana me nirāmiso pabbatamatthake
vasanto mayā ākāse ṭhatvā dinnaṃ piṇḍapātampi aparibhuñjitvā samaṇadhammaṃ
akāsi, idāni āmisapaṇṇākāraṃ kiṃ gaṇhissati? Dhammapaṇṇākāraṃ gahetvā
gamissāmī’’ti brahmaloke ṭhitova ratanāvaḷiṃ ganthento viya pannarasa pañhe
vibhajitvā taṃ dhammapaṇṇākāraṃ ādāya āgantvā sahāyassa avidūre ṭhatvā attano
samaṇasaññāsamudācāravasena taṃ anabhivādetvāva, ‘‘bhikkhu bhikkhū’’ti ālapitvā
ayaṃ vammikotiādimāha. Tattha turitālapanavasena bhikkhu bhikkhūti āmeḍitaṃ
veditabbaṃ. Yathā vā ekaneva tilakena nalāṭaṃ na sobhati, taṃ parivāretvā
aññesupi dinnesu phullitamaṇḍitaṃ viya sobhati, evaṃ ekeneva padena vacanaṃ na
sobhati, parivārikapadena saddhiṃ phullitamaṇḍitaṃ viya sobhatīti taṃ
parivārikapadavasena vacanaṃ phullitamaṇḍitaṃ viya karontopi evamāha.
Ayaṃ vammikoti purato ṭhito
vammiko nāma natthi, desanāvasena pana purato ṭhitaṃ dassento viya ayanti āha.
Laṅginti satthaṃ ādāya khaṇanto palighaṃ addasa. Ukkhipa laṅgiṃ abhikkhaṇa
sumedhāti tāta, paṇḍita, laṅgī nāma rattiṃ dhūmāyati divā pajjalati. Ukkhipeta paraṃ
parato khaṇāti. Evaṃ sabbapadesu attho daṭṭhabbo. Uddhumāyikanti maṇḍūkaṃ. Caṅkavāranti
khāraparissāvanaṃ. Kummanti kacchapaṃ. Asisūnanti maṃsacchedakaṃ asiñceva
adhikuṭṭanañca. Maṃsapesinti nisadapotappamāṇaṃ allamaṃsapiṇḍaṃ. Nāganti
sumanapupphakalāpasadisaṃ mahāphaṇaṃ tividhasovatthikaparikkhittaṃ ahināgaṃ
addasa. Mā nāgaṃ ghaṭṭesīti daṇḍakakoṭiyā vā vallikoṭiyā vā paṃsucuṇṇaṃ vā pana
khipamāno mā nāgaṃ ghaṭṭayi. Namo karohi nāgassāti uparivātato apagamma
suddhavatthaṃ nivāsetvā nāgassa namakkāraṃ karohi. Nāgena adhisayitaṃ dhanaṃ
nāma yāva sattamā kulaparivaṭṭā khādato na khīyati, nāgo te adhisayitaṃ dhanaṃ
dassati, tasmā namo karohi nāgassāti. Ito vā pana sutvāti yathā dukkhakkhandhe
itoti sāsane nissakaṃ, na tathā idha. Idha pana devaputte nissakkaṃ, tasmā ito
vā panāti mama vā pana santikā sutvāti ayamettha attho.
251. Cātummahābhūtikassāti
catumahābhūtamayassa. Kāyassetaṃ adhivacananti sarīrassa nāmaṃ. Yatheva hi
bāhirako vammiko, vamatīti vantakoti vantussayoti vantasinehasambandhoti catūhi
kāraṇehi vammikoti vuccati. So hi ahimaṅgusaundūragharagoḷikādayo nānappakāre
pāṇake vamatīti vammiko. Upacikāhi vantakoti vammiko. Upacikāhi vamitvā mukhatuṇḍakena
ukkhittapaṃsucuṇṇena kaṭippamāṇenapi porisappamāṇenapi ussitoti vammiko.
Upacikāhi vantakheḷasinehena ābaddhatāya sattasattāhaṃ deve vassantepi na
vippakiriyati, nidāghepi tato paṃsumuṭṭhiṃ gahetvā tasmiṃ muṭṭhinā pīḷiyamāne
sineho nikkhamati, evaṃ vantasinehena sambaddhoti vammiko. Evamayaṃ kāyopi,
‘‘akkhimhā akkhigūthako’’tiādinā nayena nānappakārakaṃ asucikalimalaṃ vamatīti
vammiko. Buddhapaccekabuddhakhīṇāsavā imasmiṃ attabhāve nikantipariyādānena
attabhāvaṃ chaḍḍetvā gatāti ariyehi vantakotipi vammiko. Yehi cāyaṃ tīhi aṭṭhisatehi
ussito nhārusambaddho maṃsāvalepano allacammapariyonaddho chavirañjito satte
vañceti, taṃ sabbaṃ ariyehi vantamevāti vantussayotipi vammiko. ‘‘Taṇhā janeti
purisaṃ, cittamassa vidhāvatī’’ti (saṃ. ni. 1.55) evaṃ taṇhāya janitattā
ariyehi vanteneva taṇhāsinehena sambaddho ayanti vantasinehena sambaddhotipi
vammiko. Yathā ca vammikassa anto nānappakārā pāṇakā tattheva jāyanti,
uccārapassāvaṃ karonti, gilānā sayanti, matā patanti. Iti so tesaṃ sūtigharaṃ
vaccakuṭi gilānasālā susānañca hoti. Evaṃ khattiyamahāsālādīnampi kāyo ayaṃ
gopitarakkhito maṇḍitappasādhito mahānubhāvānaṃ kāyoti acintetvā chavinissitā
pāṇā cammanissitā pāṇā maṃsanissitā pāṇā nhārunissitā pāṇā aṭṭhinissitā pāṇā aṭṭhimiñjanissitā
pāṇāti evaṃ kulagaṇanāya asītimattāni kimikulasahassāni antokāyasmiṃyeva
jāyanti, uccārapassāvaṃ karonti, gelaññena āturitāni sayanti, matāni patanti,
iti ayampi tesaṃ pāṇānaṃ sūtigharaṃ vaccakuṭi gilānasālā susānañca hotīti
‘‘vammiko’’ tveva saṅkhaṃ gato. Tenāha bhagavā – ‘‘vammikoti kho, bhikkhu,
imassa cātumahābhūtikassa kāyassetaṃ adhivacana’’nti.
Mātāpettikasambhavassāti
mātito ca pitito ca nibbattena mātāpettikena sukkasoṇitena sambhūtassa.
Odanakummāsūpacayassāti odanena ceva kummāsena ca upacitassa vaḍḍhitassa.
Aniccucchādanaparimaddanabhedanaviddhaṃsanadhammassāti ettha ayaṃ kāyo hutvā
abhāvaṭṭhena aniccadhammo. Duggandhavighātatthāya tanuvilepanena
ucchādanadhammo. Aṅgapaccaṅgābādhavinodanatthāya khuddakasambāhanena
parimaddanadhammo. Daharakāle vā ūrūsu sayāpetvā gabbhavāsena dussaṇṭhitānaṃ
tesaṃ tesaṃ aṅgānaṃ saṇṭhānasampādanatthaṃ añchanapīḷanādivasena
parimaddanadhammo. Evaṃ pariharatopi ca bhedanaviddhaṃsanadhammo bhijjati ceva
vikirati ca, evaṃ sabhāvoti attho. Tattha
mātāpettikasambhavaodanakummāsūpacayaucchādanaparimaddanapadehi samudayo
kathito, aniccabhedaviddhaṃsanapadehi atthaṅgamo. Evaṃ sattahipi padehi
cātumahābhūtikassa kāyassa uccāvacabhāvo vaḍḍhiparihāni samudayatthaṅgamo
kathitoti veditabbo.
Divā kammanteti divā
kattabbakammante. Dhūmāyanāti ettha ayaṃ dhūmasaddo kodhe taṇhāya vitakke
pañcasu kāmaguṇesu dhammadesanāya pakatidhūmeti imesu atthesu vattati. ‘‘Kodho
dhūmo bhasmanimosavajja’’nti (saṃ. ni. 1.165) ettha hi kodhe vattati.
‘‘Icchādhūmāyitā sattā’’ti ettha taṇhāya. ‘‘Tena kho pana samayena aññataro
bhikkhu bhagavato avidūre dhūmāyanto nisinno hotī’’ti ettha vitakke.
‘‘Paṅko ca kāmā palipo ca
kāmā,
Bhayañca metaṃ timūlaṃ pavuttaṃ;
Rajo ca dhūmo ca mayā
pakāsitā;
Hitvā tuvaṃ pabbaja
brahmadattā’’ti. (jā. 1.6.14) –
Ettha pañcakāmaguṇesu. ‘‘Dhūmaṃ
kattā hotī’’ti (ma. ni. 1.349) ettha dhammadesanāya. ‘‘Dhajo rathassa paññāṇaṃ,
dhūmo paññāṇamaggino’’ti (saṃ. ni. 1.72) ettha pakatidhūme. Idha panāyaṃ
vitakke adhippeto. Tenāha ‘‘ayaṃ rattiṃ dhūmāyanā’’ti.
Tathāgatassetaṃ adhivacananti
tathāgato hi sattannaṃ dhammānaṃ bāhitattā brāhmaṇo nāma. Yathāha – ‘‘sattannaṃ
kho, bhikkhu, dhammānaṃ bāhitattā brāhmaṇo. Katamesaṃ sattannaṃ? Rāgo bāhito
hoti, doso… moho… māno… sakkāyadiṭṭhi… vicikicchā… sīlabbataparāmāso bāhito
hoti. Imesaṃ bhikkhu sattannaṃ dhammānaṃ bāhitattā brāhmaṇo’’ti (cūḷani.
mettagūmāṇavapucchāniddesa 28). Sumedhoti sundarapañño. Sekkhassāti ettha
sikkhatīti sekkho. Yathāha – ‘‘sikkhatīti kho, bhikkhu, tasmā sekkhoti vuccati.
Kiñca sikkhati? Adhisīlampi sikkhati, adhicittampi sikkhati, adhipaññampi
sikkhatī’’ti (a. ni. 3.86).
Paññāya adhivacananti
lokiyalokuttarāya paññāya etaṃ adhivacanaṃ, na āvudhasatthassa.
Vīriyārambhassāti kāyikacetasikavīriyassa. Taṃ paññāgatikameva hoti. Lokiyāya
paññāya lokiyaṃ, lokuttarāya paññāya lokuttaraṃ. Ettha panāyaṃ atthadīpanā –
Eko kira jānapado brāhmaṇo
pātova māṇavakehi saddhiṃ gāmato nikkhamma divasaṃ araññe mante vācetvā sāyaṃ
gāmaṃ āgacchati. Antarāmagge ca eko vammiko atthi. So rattiṃ dhūmāyati, divā
pajjalati. Brāhmaṇo antevāsiṃ sumedhaṃ māṇavaṃ āha – ‘‘tāta, ayaṃ vammiko rattiṃ
dhūmāyati, divā pajjalati, vikāramassa passissāma, bhinditvā naṃ cattāro koṭṭhāse
katvā khipāhī’’ti. So sādhūti kudālaṃ gahetvā samehi pādehi pathaviyaṃ patiṭṭhāya
tathā akāsi. Tatra ācariyabrāhmaṇo viya bhagavā. Sumedhamāṇavako viya sekkho
bhikkhu. Vammiko viya kāyo. ‘‘Tāta, ayaṃ vammiko rattiṃ dhūmāyati, divā
pajjalati, vikāramassa passissāma, bhinditvā naṃ cattāro koṭṭhāse katvā
khipāhī’’ti brāhmaṇena vuttakālo viya, ‘‘bhikkhu cātumahābhūtikaṃ kāyaṃ cattāro
koṭṭhāse katvā pariggaṇhāhī’’ti bhagavatā vuttakālo. Tassa sādhūti kudālaṃ
gahetvā tathākaraṇaṃ viya sekkhassa bhikkhuno, ‘‘yo vīsatiyā koṭṭhāsesu
thaddhabhāvo, ayaṃ pathavīdhātu. Yo dvādasasu koṭṭhāsesu ābandhanabhāvo, ayaṃ
āpodhātu. Yo catūsu koṭṭhāsesu paripācanabhāvo, ayaṃ tejodhātu. Yo chasu koṭṭhāsesu
vitthambhanabhāvo, ayaṃ vāyodhātū’’ti evaṃ catudhātuvavatthānavasena
kāyapariggaho veditabbo.
Laṅgīti kho, bhikkhūti kasmā
bhagavā avijjaṃ laṅgīti katvā dassesīti? Yathā hi nagarassa dvāraṃ pidhāya
palighe yojite mahājanassa gamanaṃ pacchijjati, ye nagarassa anto, te antoyeva
honti. Ye bahi, te bahiyeva. Evameva yassa ñāṇamukhe avijjālaṅgī patati, tassa
nibbānasampāpakaṃ ñāṇagamanaṃ pacchijjati, tasmā avijjaṃ laṅgīti katvā dassesi.
Pajaha avijjanti ettha kammaṭṭhānauggahaparipucchāvasena avijjāpahānaṃ kathitaṃ.
Uddhumāyikāti kho, bhikkhūti
ettha uddhumāyikamaṇḍūko nāma no mahanto, nakhapiṭṭhippamāṇo hoti, purāṇapaṇṇantare
vā gacchantare vā valliantare vā vasati. So daṇḍakoṭiyā vā vallikoṭiyā vā paṃsucuṇṇakena
vā ghaṭṭito āyamitvā mahanto parimaṇḍalo beluvapakkappamāṇo hutvā cattāro pāde
ākāsagate katvā pacchinnagamano hutvā amittavasaṃ yāti, kākakulalādibhattameva
hoti. Evameva ayaṃ kodho paṭhamaṃ uppajjanto cittāvilamattakova hoti. Tasmiṃ
khaṇe aniggahito vaḍḍhitvā mukhavikulanaṃ pāpeti. Tadā aniggahito hanusañcopanaṃ
pāpeti. Tadā aniggahito pharusavācānicchāraṇaṃ pāpeti. Tadā aniggahito
disāvilokanaṃ pāpeti. Tadā aniggahito ākaḍḍhanaparikaḍḍhanaṃ pāpeti. Tadā
aniggahito pāṇinā leḍḍudaṇḍasatthaparāmasanaṃ pāpeti. Tadā aniggahito daṇḍasatthābhinipātaṃ
pāpeti. Tadā aniggahito paraghātanampi attaghātanampi pāpeti. Vuttampi hetaṃ –
‘‘yato ayaṃ kodho paraṃ ghātetvā attānaṃ ghāteti, ettāvatāyaṃ kodho
paramussadagato hoti paramavepullappatto’’ti. Tattha yathā uddhumāyikāya catūsu
pādesu ākāsagatesu gamanaṃ pacchijjati, uddhumāyikā amittavasaṃ gantvā kākādibhattaṃ
hoti, evameva kodhasamaṅgīpuggalo kammaṭṭhānaṃ gahetvā vaḍḍhetuṃ na sakkoti,
amittavasaṃ yāti, sabbesaṃ mārānaṃ yathākāmakaraṇīyo hoti. Tenāha bhagavā –
‘‘uddhumāyikāti kho, bhikkhu, kodhūpāyāsassetaṃ adhivacana’’nti. Tattha
balavappatto kodhova kodhūpāyāso. Pajaha kodhūpāyāsanti ettha paṭisaṅkhānappahānaṃ
kathitaṃ.
Dvidhāpathoti ettha, yathā
puriso sadhano sabhogo kantāraddhānamaggappaṭipanno dvedhāpathaṃ patvā, ‘‘iminā
nu kho gantabbaṃ, iminā gantabba’’nti nicchetuṃ asakkonto tattheva tiṭṭhati,
atha naṃ corā uṭṭhahitvā anayabyasanaṃ pāpenti, evameva kho mūlakammaṭṭhānaṃ
gahetvā nisinno bhikkhu buddhādīsu kaṅkhāya uppannāya kammaṭṭhānaṃ vaḍḍhetuṃ na
sakkoti, atha naṃ kilesamārādayo sabbe mārā anayabyasanaṃ pāpenti, iti
vicikicchā dvedhāpathasamā hoti. Tenāha bhagavā – ‘‘dvidhāpathoti kho, bhikkhu,
vicikicchāyetaṃ adhivacana’’nti. Pajaha vicikicchanti ettha kammaṭṭhānauggahaparipucchāvasena
vicikicchāpahānaṃ kathitaṃ.
Caṅgavāranti ettha, yathā
rajakehi khāraparissāvanamhi udake pakkhitte eko udakaghaṭo dvepi dasapi
vīsatipi ghaṭasatampi paggharatiyeva, pasaṭamattampi udakaṃ na tiṭṭhati,
evameva nīvaraṇasamaṅgino puggalassa abbhantare kusaladhammo na tiṭṭhati.
Tenāha bhagavā – ‘‘caṅgavāranti kho, bhikkhu, pañcannetaṃ nīvaraṇānaṃ
adhivacana’’nti. Pajaha pañcanīvaraṇeti ettha vikkhambhanatadaṅgavasena nīvaraṇappahānaṃ
kathitaṃ.
Kummoti ettha, yathā
kacchapassa cattāro pādā sīsanti pañceva aṅgāni honti, evameva sabbepi saṅkhatā
dhammā gayhamānā pañceva khandhā bhavanti. Tenāha bhagavā – ‘‘kummoti kho,
bhikkhu, pañcannetaṃ upādānakkhandhānaṃ adhivacana’’nti. Pajaha
pañcupādānakkhandheti ettha pañcasu khandhesu chandarāgappahānaṃ kathitaṃ.
Asisūnāti ettha, yathā sūnāya
upari maṃsaṃ ṭhapetvā asinā koṭṭenti, evamime sattā vatthukāmatthāya
kilesakāmehi ghātayamānā vatthukāmānaṃ upari katvā kilesakāmehi kantitā koṭṭitā
ca honti. Tenāha bhagavā – ‘‘asisūnāti kho, bhikkhu, pañcannetaṃ kāmaguṇānaṃ
adhivacana’’nti. Pajaha pañca kāmaguṇeti ettha pañcasu kāmaguṇesu
chandarāgappahānaṃ kathitaṃ.
Maṃsapesīti kho, bhikkhūti
ettha ayaṃ maṃsapesi nāma bahujanapatthitā khattiyādayo manussāpi naṃ patthenti
kākādayo tiracchānāpi. Ime hi sattā avijjāya sammattā nandirāgaṃ upagamma vaṭṭaṃ
vaḍḍhenti. Yathā vā maṃsapesi ṭhapitaṭhapitaṭṭhāne laggati, evamime sattā
nandirāgabaddhā vaṭṭe lagganti, dukkhaṃ patvāpi na ukkaṇṭhanti, iti nandirāgo
maṃsapesisadiso hoti. Tenāha bhagavā – ‘‘maṃsapesīti kho, bhikkhu,
nandirāgassetaṃ adhivacana’’nti. Pajaha nandīrāganti ettha catutthamaggena
nandīrāgappahānaṃ kathitaṃ.
Nāgoti kho, bhikkhu, khīṇāsavassetaṃ
bhikkhuno adhivacananti ettha yenatthena khīṇāsavo nāgoti vuccati, so anaṅgaṇasutte
(ma. ni. aṭṭha. 1.63) pakāsito eva. Namo karohi nāgassāti khīṇāsavassa
buddhanāgassa, ‘‘buddho so bhagavā bodhāya dhammaṃ deseti, danto so bhagavā
damathāya dhammaṃ deseti, santo so bhagavā samathāya dhammaṃ deseti, tiṇṇo so
bhagavā taraṇāya dhammaṃ deseti, parinibbuto so bhagavā parinibbānāya dhammaṃ
desetī’’ti (ma. ni. 1.361) evaṃ namakkāraṃ karohīti ayamettha attho. Iti idaṃ
suttaṃ therassa kammaṭṭhānaṃ ahosi. Theropi idameva suttaṃ kammaṭṭhānaṃ katvā
vipassanaṃ vaḍḍhetvā arahattaṃ patto. Ayametassa atthoti ayaṃ etassa pañhassa
attho. Iti bhagavā ratanarāsimhi maṇikūṭaṃ gaṇhanto viya yathānusandhināva
desanaṃ niṭṭhapesīti.
Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Vammikasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
-ooOoo-
Thảo luận 1. Chúng ta nên cẩn thận thế nào đối với các thí dụ trong kinh điển? - TT Pháp Tân
Thảo luận 2. Vô minh là một trong năm thượng phần kiết sử được xem là sự cột trói được cắt đứt sau cùng của thánh quả thế nhưng trong bài kinh nầy vô minh là sự qua bước đầu như vậy vô minh ở đây nên được hiểu thế nào? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 3. Phải chăng sự nghi hoặc hay lưỡng lự phân vân trong lúc tu tập có hệ quả tai hại hơn trong đời sống hằng ngày? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 4. Trong bài kinh nầy có đoạn: Này Tỷ-kheo, con rắn hổ là đồng nghĩa với vị Tỷ-kheo đã diệt trừ các lậu hoặc; hãy để con rắn hổ yên, chớ đụng chạm con rắn hổ, hãy đảnh lễ con rắn hổ, là ý nghĩa này". Trong nhiều bài kinh khác mô tả sự thành tựu viên mãn giải thoát là "những gì nên làm đã làm". Cho đến mức độ nào chúng ta có thể khẳng định là không cần phải phấn đấu nữa? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 5. Hiểu về bản thân là điều không dễ. Hiểu rõ từng bước chân đi tới phải chăng là chuyện khó hơn? - ĐĐ Pháp Tín
Thảo luận 6. TT Giác Đẳng đúc kết phần thảo luận
No comments:
Post a Comment