Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
25. Kinh Bẫy Mồi (Nivāpa Sutta)
Tên kinh lấy từ thí dụ trong bài kinh mà
trong đó người thợ săn dùng bẫy mồi để dụ bắt những con nai. Dụ ngôn nầy để chỉ
cho những cạm bẫy mà một người tu tập có thể vướng phải.
Như
vầy tôi nghe.
Trong bài kinh nầy Đức Phật dùng
bốn đàn nai để làm thí dụ:
b. Đàn nai biết mồi là nguy hiểm nên trốn sâu vào rừng rơi vào
tình trạng đói kém nghiêm trọng nên cuối cùng trở lại tìm thức ăn và bị thơ săn
bắt.
Này các Tỷ-kheo, tỷ dụ này
được Ta dùng để giải thích ý nghĩa. Và ý nghĩa ở đây là như sau:
Chư Tỷ- kheo, đồ mồi đồng nghĩa với năm dục trưởng dưỡng. Chư
Tỷ-kheo, người thợ săn bẫy mồi đồng nghĩa với Ác ma. Chư Tỷ-kheo,
các quyến thuộc của người thợ săn bẫy mồi đồng nghĩa với quyến
thuộc của Ác ma. Chư Tỷ-kheo, các đàn nai đồng nghĩa với các
Sa-môn, Bà-la-môn.
Đàn nai mê ăn mồi nên dễ dàng sa vào bẫy chỉ chonhững sa môn, bà la môn hay người tu tập lợi dưỡng. Do lợi dưỡng nên dể dàng bị uế nhiễm bởi trần cảnh. Từ đó phóng dật và rơi vào vòng cương toả của ác ma.
Ở đây, này các Tỷ-kheo,
hạng Sa-môn, Bà-la-môn đầu tiên xâm nhập, tham đắm ăn các đồ mồi
do Ác ma gieo ra và các vật dụng thế gian. Ở đây, họ xâm nhập, tham
đắm ăn các món ăn, nên trở thành mê loạn; vì mê loạn, họ trở
thành phóng dật; vì phóng dật, họ trở thành những người bị làm
theo ý Ác ma muốn giữa các đồ mồi này và giữa các vật dụng thế
gian. Như vậy, này các Tỷ-kheo, hạng Sa-môn, Bà- la-môn đầu tiên
này không thoát được như ý lực của Ác ma. Này các Tỷ-kheo, Ta nói
hạng Sa-môn, Bà- la-môn đầu tiên này giống như đàn nai đầu tiên
trong thí dụ.
Cuối tháng mùa hạ, cỏ nước trở thành khan hiếm, thân hình của hạng Sa-môn, Bà-la-môn ấy trở thành hết sức gầy yếu. Vì thân hình hạng Sa-môn, Bà-la-môn ấy trở thành hết sức gầy yếu, nên sức lực tinh tấn của họ bị kiệt quệ. Vì sức lực tinh tấn bị kiệt quệ, nên tâm giải thoát bị kiệt quệ. Vì tâm giải thoát bị kiệt quệ, họ trở lui lại các đồ mồi do Ác ma gieo ra và các vật dụng thế gian. Ở đây, họ xâm nhập, tham đắm ăn các món ăn. Do ở đây xâm nhập, tham đắm ăn các món ăn, chúng trở thành mê loạn. Do mê loan họ trở thành phóng dật. Do phóng dật, họ trở thành những người bị làm theo ý Ác ma muốn giữa các đồ mồi này và giữa các vật dụng thế gian. Như vậy, này các Tỷ-kheo, hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ hai này đã không thoát khỏi như ý lực của Ác ma. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ hai này giống như đàn nai thứ hai trong ví dụ này.
Đàn nai thứ ba học được kinh nghiệm đau thương của hai đàn nai trước đi tìm nơi ẩn trú nhưng vì thỉnh thoảng phải đi tìm thức ăn nhưng mê ăn đến độ quên mình nên cuối cùng bị thợ săn phát hiện rồi cũng bị bắt ám chỉ cho những người tu tập tương đối có trình độ nhưng rơi vào kiến chấp, khao khát tri thức, đam mê triết lý để rồi cuối cùng không làm được điều quan trọng của đời sống phạm hạnh là đoạn tận kiết sử , thành tựu chánh trí.
Này các Tỷ-kheo, ở đây hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ ba suy nghĩ như sau: "Hạng Sa-môn, Bà-la-môn đầu tiên này xâm nhập, tham đắm ăn các đồ mồi được Ác ma gieo ra và các vật dụng thế gian... (như trên)... Như vậy hạng Sa-môn, Bà-la-môn đầu tiên này đã không thoát khỏi như ý lực của Ác ma. Hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ hai suy nghĩ như sau: "Hạng Sa-môn, Bà-la-môn đầu tiên này xâm nhập, tham đắm ăn các đồ mồi do Ác ma gieo ra, và các vật dụng thế gian... (như trên)... Như vậy, hạng Sa-môn, Bà-la-môn đầu tiên này đã không thoát khỏi như ý lực của Ác ma. Vậy chúng ta hãy hoàn toàn từ bỏ các đồ mồi... (như trên)... chúng ta từ bỏ hoàn toàn các đồ mồi... (như trên)..."... Như vậy, hạng Sa-môn, Bà- la-môn thứ hai này cũng không thoát khỏi như ý lực của Ác ma. Vậy chúng ta hãy làm một chỗ ẩn nấp gần các đồ mồi do Ác ma gieo ra và các vật dụng thế gian. Ở đây, sau khi làm một chỗ ẩn nấp xong, không xâm nhập, không tham đắm, chúng ta sẽ ăn các đồ mồi do Ác ma gieo ra và các vật dụng thế gian. Do không xâm nhập, không tham đắm ăn các món ăn, chúng ta sẽ không trở thành mê loạn. Do không mê loạn, chúng ta sẽ không trở thành phóng dật. Do không phóng dật, chúng ta sẽ không trở thành những người bị làm theo Ác ma muốn, giữa các đồ mồi và các vật dụng thế gian." Hạng Sa-môn, Bà-la-môn này làm chỗ ẩn nấp gần các đồ mồi do Ác ma gieo ra và giữa các vật dụng thế gian. Sau khi làm chỗ ẩn nấp ở đây xong, họ không xâm nhập, không tham đắm ăn các đồ mồi do Ác ma gieo ra và các vật dụng thế gian. Không xâm nhập, không tham đắm, họ không ăn các đồ mồi nên không trở thành mê loạn. Do không mê loạn, họ không trở thành phóng dật. Do không phóng dật, họ không trở thành những người bị làm theo Ác ma muốn giữa các đồ mồi và các vật dụng thế gian. Nhưng rồi họ có những tà kiến như sau: "Thế giới là thường còn; thế giới là không thường còn; thế giới là hữu biên; thế giới là vô biên; mạng sống và thân thể là một; mạng sống và thân thể là khác; Như Lai sau khi chết có tồn tại; Như Lai sau khi chết không tồn tại; Như Lai sau khi chết có tồn tại và không tồn tại; Như Lai sau khi chết không tồn tại và không không tồn tại". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Sa-môn, Bà-la-môn thứ ba này đã không thoát khỏi như ý lực của Ác ma. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ ba này giống như đàn nai thứ ba trong ví dụ này.
Đàn nai thứ tư tinh khôn biết tìm nơi ẩn núp khó tìm; ăn thì ăn nhưng chẳng say đắm thức ăn đến mức quên mình; không để lại dấu vết những chỗ đến đi khiến thợ săn bó tay không làm gì được dùng để chỉ cho những bậc tu hành tu tập chỉ quán vượt qua tất cả giai đoạn của hành trình cuối cùng chứng đắc cả hai tâm giải thoát và tuệ giải thoát. Đên đi giữa cuộc đời không để lại dấu vết và ác ma không tìm bắt được.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ tư suy nghĩ như sau: "Hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ nhất xâm nhập, tham đắm ăn các đồ mồi của Ác ma và các vật dụng thế gian... như vậy, hạng Sa- môn, Bà-la-môn này không thoát khỏi như ý lực của Ác ma. Hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ hai suy nghĩ như sau: "Hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ nhất... (như trên)... Như vậy, hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ nhất không thoát được như ý lực của Ác ma. Vậy, chúng ta hãy từ bỏ hoàn toàn các món ăn bẫy mồi... (như trên)...". Như vậy, hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ hai không thoát khỏi như ý lực của Ác ma. Hạng Sa- môn, Bà-la-môn thứ ba suy nghĩ như sau : "...(như trên)... Như vậy, hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ ba không thoát khỏi như ý lực của Ác ma. Vậy chúng ta hãy làm chỗ ẩn nấp tại một nơi mà Ác ma và Ác ma quyến thuộc không thể đến được. Làm chỗ ẩn nấp ở đấy xong, chúng ta sẽ không xâm nhập, không tham đắm ăn các đồ mồi do Ác ma gieo ra và các vật dụng thế gian. Không xâm nhập, không tham đắm ăn các đồ ăn nên chúng ta không trở thành mê loạn. Do không mê loạn, chúng ta không trở thành phóng dật. Do không phóng dật, chúng ta không trở thành những người bị làm theo Ác ma muốn, giữa các đồ mồi và các vật dụng thế gian". Rồi họ làm chỗ ẩn nấp tại một nơi mà Ác ma và Ác ma quyến thuộc không thể đến được. Làm chỗ ẩn nấp ở đấy xong, họ không xâm nhập, không tham đắm ăn các đồ mồi do Ác ma gieo ra và các vật dụng thế gian. Không xâm nhập, không tham đắm ăn các đồ mồi do Ác ma gieo ra và các vật dụng thế gian, nên họ không trở thành mê loạn. Do không mê loạn, họ không trở thành phóng dật. Do không phóng dật, họ không trở thành những người bị làm theo Ác ma muốn giữa các đồ mồi và các vật dụng thế gian. Như vậy, này các Tỷ-kheo, hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ tư đã thoát khỏi như ý lực của Ác ma. Này các Tỷ-kheo, Ta nói hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ tư này giống như đàn nai thứ tư trong ví dụ này.
Này các Tỷ-kheo, sao gọi là Ác ma và Ác ma quyến thuộc không thể đến được? Ở đây, này các Tỷ- kheo, Tỷ-kheo ly dục, ly ác bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là Tỷ-kheo làm Ác ma mù mắt, đoạn tuyệt mắt của Ác ma, không còn dấu tích, khiến Ác ma không thấy đường đi lối về.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Như vậy gọi là vị Tỷ-kheo làm Ác ma mù mắt, đoạn tuyệt mắt của Ác ma, không còn dấu tích, khiến Ác ma không thấy đường đi lối về.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tĩnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Như vậy gọi là Tỷ-kheo... (như trên)... đường đi lối về.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Như vậy gọi là Tỷ-kheo... (như trên)...đường đi lối về.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vượt lên mọi sắc tưởng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng, không tác ý đối với dị tưởng. Tỷ-kheo nghĩ rằng: "Hư không là vô biên", chứng và trú Không vô biên xứ. Như vậy gọi là Tỷ- kheo...(như trên)... đường đi lối về.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vượt lên mọi Không vô biên xứ, nghĩ rằng "Thức là vô biên", chứng và trú Thức vô biên xứ. Như vậy, gọi là vị Tỷ-kheo... (như trên)... đường đi lối về.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vượt lên mọi Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: "Không có một vật gì", chứng và trú Vô sở hữu xứ. Như vậy gọi là Tỷ-kheo... (như trên)... đường đi lối về.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vượt lên mọi Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Như vậy gọi là vị Tỷ-kheo... (như trên)... đường đi lối về.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo vượt lên mọi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt
thọ tưởng (định), sau khi thấy (mọi vật) với trí tuệ, các lậu hoặc
được diệt trừ. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là Tỷ-kheo làm Ác mà
mù mắt, đoạn tuyệt mắt của Ác ma, không còn dấu tích, khiến Ác ma
không thấy đường đi lối về. Vị ấy đã vượt khỏi tham trước ở
đời.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Bốn hạng sa môn nêu trong bài kinh với các
thí dụ là:
Năm loại ma được đề cập trong kinh điển
là:
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ Kheo
Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 25 [tóm tắt]
Kinh Bẫy Mồi
(Nivāpa Sutta)
(M.i, 151)
Đức Phật dùng
ví dụ người thợ săn gieo bẫy mồi để bắt đàn nai. Ba đàn nai đầu sa
cơ bị bắt, chỉ còn đàn nai thứ tư là thoát khỏi bẫy mồi. Cũng vậy,
các hàng Sa-môn, Bà- la-môn, đối với bẫy mồi do Ác ma gieo ra, nếu
không khéo thời cũng như ba đàn nai trước, và cần phải biết cách
tránh né tu hành mới được như đàn nai thứ tư, thoát ra khỏi Ác ma.
Đàn nai đầu xâm
nhập tham đắm, ăn các bẫy mồi do thợ săn gieo ra, trở thành mê loạn
phóng dật và bị người thợ săn bắt được.
Đàn nai thứ hai
học được kinh nghiệm của đàn nai đầu, liền bỏ các đồ mồi, đi sâu
vào rừng để an trú. Nhưng đến mùa hạ, cỏ nước khan hiếm, đàn nai
bị đói, sức lực kiệt quệ, liền trở lại chỗ có gieo bẫy mồi, xâm
nhập, tham đắm ăn các đồ mồi, do tham đắm nên phóng dật, do phóng dật
nên rơi vào tay người thợ săn.
Đàn nai thứ ba
học được kinh nghiệm của hai đàn nai đầu, làm một chỗ ẩn nấp gần
các đồ mồi, không xâm nhập, không tham đắm ăn các đồ ăn bẫy mồi,
do vậy không có mê loạn nên không phóng dật và nhờ vậy khỏi rơi
vào tay người thợ săn. Người thợ săn biết đàn nai thứ ba này rất
khôn ngoan, nên bao vây các đồ ăn bẫy mồi với những cây cột to lớn
và những cây bẫy sập mọi nơi, thấy được chỗ đàn nai thứ ba và
như vậy bắt được đàn nai thứ ba.
Đàn nai thứ tư
học được kinh nghiệm của ba đàn nai trước, làm một chỗ ẩn nấp tại
một nơi mà người thợ săn không thể đến được, không xâm nhập,
không tham đắm, chúng ăn các đồ ăn bẫy mồi, không trở thành mê
loạn, không phóng dật, chúng thoát khỏi người thợ săn. Các người
thợ săn không dám đánh phá đàn nai thứ tư vì sợ bị động rừng và
nhờ vậy cuối cùng, đàn nai thứ tư được an toàn.
Đồ mồi là đồng
nghĩa với năm dục tăng trưởng. Thợ săn là đồng nghĩa với Ác ma.
Đàn nai là đồng
nghĩa với các Sa-môn, Bà-la-môn.
Hạng Sa-môn,
Bà-la-môn đầu xâm nhập tham đắm ăn các đồ mồi do Ác ma gieo ra và
các vật dụng thế gian, trở thành mê loạn, phóng dật, nên rơi vào
trong tay của Ác ma.
Hạng Sa-môn,
Bà-la-môn thứ hai, học được kinh nghiệm của hạng Sa-môn, Bà-la- môn
đầu, từ bỏ các đồ mồi, đi vào rừng sâu để an trú. Chúng trở thành
những người ăn cỏ lúa, ăn lúa tắc, ăn gạo lứt, ăn trấu.... Đến
cuối tháng mùa hạ, cỏ nước khan hiếm, chúng trở thành ốm yếu, gầy
mòn, sức lực kiệt quệ. Do vậy chúng trở lại chỗ các đồ mồi do Ác
ma gieo ra, xâm nhập, tham đắm ăn các đồ mồi, trở thành mê loạn,
phóng dật và cuối cùng rơi vào tay Ác ma.
Hạng Sa-môn,
Bà-la-môn thứ ba, học được bài học kinh nghiệm của hai hạng người
đầu, làm chỗ ẩn nấp gần các đồ mồi do Ác ma gieo ra và các vật
dụng thế gian, không xâm nhập, không tham đắm, chúng ăn các đồ mồi,
không trở thành mê loạn, phóng dật, nên thoát được Ác ma. Nhưng
rồi chúng khởi lên các tà kiến như thế giới là thường còn.... Do
vậy, cuối cùng chúng không thoát khỏi bàn tay Ác ma.
Hạng Sa-môn,
Bà-la-môn thứ tư, học được bài học kinh nghiệm của ba hạng Sa-môn,
Bà-la-môn đầu, làm một chỗ ẩn nấp mà Ác ma không đến được, không
xâm nhập, không tham đắm, chúng ăn các đồ mồi, chúng không có mê
loạn, không có phóng dật, nên thoát được bàn tay của Ác ma.
Rồi đức Phật
giải thích thế nào là Ác ma, Ác ma quyến thuộc không thể đến
được, tức là chứng Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, bốn
không và diệt thọ tưởng định với trí tuệ đoạn trừ các lậu hoặc.
Như vậy là làm Ác ma mù mắt, không còn dấu tích, khiến Ác ma
không thấy đường đi lối về.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 25 [dàn ý]
Kinh Bẫy Mồi
(Nivāpa Sutta)
(M.i, 151)
A.
Duyên khởi:
Đức Phật gọi các Tỷ-kheo
và thuyết giảng.
B.
Chánh kinh:
I. Thế Tôn dùng ví
dụ các người thợ săn, gieo các bẫy mồi và thái độ của 4 đoàn nai đối với các bẫy
mồi
1. Mục đích của
các người thợ săn khi gieo các bẫy mồi.
2. Thái độ của
đoàn nai thứ nhất: Xâm nhập ăn các đồ mồi, say đắm phóng dật và trở thành nạn
nhân của thợ săn.
3. Thái độ đoàn
nai thứ hai: Rút kinh nghiệm đoàn nai đầu, chạy vào rừng tránh các bẫy mồi, sau
vì đói khát phải đi đến các bẫy mồi, xâm nhập, say đắm, phóng dật và trở thành
nạn nhân.
4. Thái độ đoàn
nai thứ ba: Học được kinh nghiệm của hai đoàn nai đầu, không xâm nhập, không chạy
trốn vào rừng, ẩn núp gần các đồ mồi, không xâm nhập, không say đắm ăn các đồ mồi.
Nhưng các người thợ săn tìm được chỗ ẩn núp của đoàn nai và cuối cùng đoàn nai ấy
cũng trở thành nạn nhân của người thợ săn.
5.Thái độ đoàn nai
thứ tư: Học được kinh nghiệm của ba đoàn nai đầu, không xâm nhập, không chạy trốn
vào rừng, làm một chỗ ẩn núp mà các người thợ săn không tìm ra tông tích dấu vết,
ăn các đồ mồi nhưng không xâm nhập, không say đắm, nên thoát khỏi các người thợ
săn.
II. Đức Phật giải
thích ví dụ
1. Đồ mồi là 5 dục
trưởng dưỡng, người thợ săn là ác ma. Các đoàn nai là đồng nghĩa với các samôn,
Bà-la-môn.
2. Thái độ của 4 hạng
Sa-môn, Bà-la-môn, đối với các dục trưởng dưỡng.
III. Thế Tôn giải
thích thế nào là ác ma, ác ma quyến thuộc không thể đến được.
Có hành thiền, chứng
được 4 thiền, 4 không, diệt thọ tưởng định, thời ác ma không thể đến được.
C. Kết
luận:
Các Tỷ-kheo hoan hỷ
tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh số 25 [toát yếu]
Kinh Bẫy Mồi
(Nivāpa Sutta)
(M.i, 151)
I. TOÁT YẾU
Nivāpa Sutta -
the bait.
The Buddha uses
the analogy of deer trappers to make known to the Bhikkhus the obstacles that
confront them in their effort to escape from Mara's control.
Miếng mồi.
Phật dùng ví
dụ những thợ bẫy nai để hiển thị cho tỳ kheo những chướng ngại họ
gặp phải trong khi nỗ lực thoát khỏi sự khống chế của ma vương.
II. TÓM TẮT
Thợ săn nai đặt
mồi ngon cho nai đến không phải vì thương gì bầy nai, mà vì muốn
hại. Cũng như thế là cạm bẫy ngũ dục mà ác ma [thiên ma] đặt để
dụ người tu hành.
Phật đưa ra
hình ảnh bốn đàn nai.Đàn thứ nhất tham ăn sa ngay vào mồi, nên bị
kẻ giăng bẫy tóm trọn.
Đàn thứ hai
tránh vào rừng sâu, thiếu cỏ nước một thời gian dài không chịu
nổi, trở ra vì đói khát tham ăn không coi chừng nên cũng sa vào cạm
bẫy như đàn nai đầu. Đàn thứ ba, rút kinh nghiệm làm một chỗ nấp
gần nơi giăng mồi để đến ăn một cách chừng mực rồi rút về chỗ
ẩn. Người giăng bẫy không bắt được đàn nai, ra sức bao vây cuối
cùng cũng tìm được nơi ẩn náu của chúng. Đến lượt bầy nai thứ
tư, làm một chỗ nấp mà thợ săn không thể nào đến được, đến ăn
mồi vừa phải rồi rút đi an toàn.
Đàn thứ nhất
dụ cho những sa môn bà-la-môn tham đắm ngũ dục thế gian, bị ác ma
tóm. Đàn thứ hai là sa môn bà-la-môn do tu khổ hạnh ép xác quá độ
nên kiệt sức, không còn tinh tấn; do không còn tinh tấn, tâm giải
thoát cũng bị kiệt quệ; do tâm giải thoát bị kiệt quệ, họ cũng sa
vào thế lực ác ma như đàn đầu tiên. Đàn thứ ba dụ cho sa môn
bà-la-môn không bị phóng dật theo ngũ dục như hai đàn trước, nhưng
lại có tà kiến về thế giới thường vô thường, hữu biên vô biên,
Như Lai có, không tồn tại sau khi chết v.v. Tà kiến ấy ví như
"một chỗ nấp mà thợ săn có thể tìm thấy". Như vậy họ
cũng không thoát khỏi thế lực ác ma. Đàn thứ tư dụ cho tỳ kheo ly
dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú bốn thiền, bốn định vô sắc,
Diệt thọ tưởng, khiến ác ma không tìm thấy được đường đi lối về
của mình vì vị ấy không còn tham đắm bất cứ gì trên đời
III. CHÚ GIẢI
Tám định - 4
thiền, 4 định - ở đây là căn bản cho tuệ. Khi tỳ kheo ở trong định
này, ma vương không biết được tâm hành vị ấy. Tuy nhiên sự thoát
khỏi ma lực ấy chỉ có tính cách giai đoạn. Vị tỳ kheo chứng Diệt
thọ tưởng, sạch lậu hoặc, vì không những tạm thời, mà vĩnh viễn
giải thoát ảnh hưởng của ma; ma không thể đến gần vị ấy.
IV. PHÁP SỐ
Bốn thiền
Bốn không hay bốn vô sắc định
Năm dục trưởng dưỡng
Chín định thứ đệ, gồm bốn thiền
bốn định và Diệt thọ tưởng.
V. KỆ TỤNG
Khi thợ săn đặt mồi
Không vì thương đàn nai
Cốt làm chúng mê loạn
Vì miếng mồi ngon này.
Ác ma cũng giăng bẫy
Đặt mồi thơm ngũ dục
Mê loạn người tu hành
Cho vướng vào ma lực.
Đàn nai đầu tiên đến
Tham đắm các thức ăn
Sa ngay vào cạm bẫy
Làm mồi cho thợ săn.
Đàn nai khác thấy vậy
Sợ bỏ vào rừng sâu
Đến nơi không cỏ nước
Đói khát lại âu sầu.
Thân hình càng tiều tụy
Nai ra tìm thức ăn
Vì tham lam quá độ
Sa vào bẫy thợ săn.
Đàn nai thứ ba đến
Làm chỗ nấp gần mồi
Ra ăn vừa đủ sống
Vào ẩn nấp đợi thời.
Thợ săn lùng kiếm được
Chỗ ẩn nấp đàn nai
Gài bẫy giăng cùng khắp
Bắt trọn ổ không sai.
Chỉ đàn nai cuối cùng
Mới quả thực tinh khôn
Mồi ăn vừa đủ sống
Vào rừng sâu tẩu bôn.
Nai đi đâu về đâu
Thợ săn nào biết được
Đường đi không dấu vết
Đàn nai thoát khổ sầu.
Có hạng tu ham dục
Như đàn nai tham ăn
Bị ác ma tóm bẫy
Mồi ngũ dục bủa giăng.
Có hạng do khổ hạnh
Khiến thân tâm kiệt sức
Trở lại tham năm dục
Không thoát bẫy ác ma.
Hạng ba không hưởng lạc
Cũng không quá ép xác
Nhưng lại có tà kiến
Cũng gần với ác ma.
Ly dục trú bốn thiền
Và bốn định vô sắc
Cùng định Diệt thọ tưởng
Diệt trừ hết lậu hoặc.
Tỳ kheo thứ tư này
Làm ác ma mù mắt
Không ai tìm thấy được
Dấu vết của vị này.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
25.
Nivāpasuttaṃ [Mūla]
261. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ
samayaṃ Bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.
Tatra kho Bhagavā bhikkhū āmantesi : ''bhikkhavoti. ''Bhadanteti te
bhikkhū bhagavato paccassosuṃ. Bhagavā etadavoca : ''na , bhikkhave, nevāpiko
nivāpaṃ nivapati migajātānaṃ : 'imaṃ me nivāpaṃ nivuttaṃ migajātā paribhuñjantā
dīghāyukā vaṇṇavanto ciraṃ dīghamaddhānaṃ yāpentūti. Evañca kho, bhikkhave,
nevāpiko nivāpaṃ nivapati migajātānaṃ : 'imaṃ me nivāpaṃ nivuttaṃ migajātā
anupakhajja mucchitā bhojanāni bhuñjissanti, anupakhajja mucchitā bhojanāni
bhuñjamānā madaṃ āpajjissanti, mattā samānā pamādaṃ āpajjissanti, pamattā
samānā yathākāmakaraṇīyā bhavissanti imasmiṃ nivāpeti.
]262. ''Tatra, bhikkhave, paṭhamā migajātā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ
nevāpikassa anupakhajja mucchitā bhojanāni bhuñjiṃsu, te tattha anupakhajja
mucchitā bhojanāni bhuñjamānā madaṃ āpajjiṃsu, mattā samānā pamādaṃ āpajjiṃsu,
pamattā samānā yathākāmakaraṇīyā ahesuṃ nevāpikassa amusmiṃ nivāpe. Evañhi te,
bhikkhave, paṭhamā migajātā na parimucciṃsu nevāpikassa iddhānubhāvā.
263. ''Tatra, bhikkhave, dutiyā migajātā evaṃ samacintesuṃ : 'ye
kho te paṭhamā migajātā amuṃ nivāpaṃ
nivuttaṃ nevāpikassa anupakhajja mucchitā bhojanāni bhuñjiṃsu. Te tattha
anupakhajja mucchitā bhojanāni bhuñjamānā madaṃ āpajjiṃsu, mattā samānā pamādaṃ
āpajjiṃsu, pamattā samānā yathākāmakaraṇīyā
ahesuṃ nevāpikassa amusmiṃ nivāpe. Evañhi te paṭhamā migajātā na
parimucciṃsu nevāpikassa iddhānubhāvā. Yaṃnūna mayaṃ sabbaso nivāpabhojanā paṭivirameyyāma,
bhayabhogā paṭiviratā araññāyatanāni ajjhogāhetvā vihareyyāmāti. Te sabbaso
nivāpabhojanā paṭiviramiṃsu, bhayabhogā paṭiviratā araññāyatanāni ajjhogāhetvā vihariṃsu. Tesaṃ gimhānaṃ
pacchime māse, tiṇodakasaṅkhaye, adhimattakasimānaṃ patto kāyo hoti. Tesaṃ
adhimattakasimānaṃ pattakāyānaṃ balavīriyaṃ parihāyi. Balavīriye parihīne
tameva nivāpaṃ nivuttaṃ nevāpikassa paccāgamiṃsu. Te tattha anupakhajja
mucchitā bhojanāni bhuñjiṃsu. Te tattha anupakhajja mucchitā bhojanāni
bhuñjamānā madaṃ āpajjiṃsu, mattā samānā pamādaṃ āpajjiṃsu, pamattā samānā
yathākāmakaraṇīyā ahesuṃ nevāpikassa amusmiṃ nivāpe. Evañhi te, bhikkhave,
dutiyāpi migajātā na parimucciṃsu nevāpikassa iddhānubhāvā.
264. ''Tatra , bhikkhave, tatiyā migajātā evaṃ samacintesuṃ : 'ye
kho te paṭhamā migajātā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ nevāpikassa - pe - evañhi te paṭhamā
migajātā na parimucciṃsu nevāpikassa iddhānubhāvā. Yepi te dutiyā migajātā evaṃ
samacintesuṃ : ye kho te paṭhamā migajātā
amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ nevāpikassa - pe - evañhi te paṭhamā migajātā na
parimucciṃsu nevāpikassa iddhānubhāvā. Yaṃnūna mayaṃ sabbaso nivāpabhojanā paṭivirameyyāma,
bhayabhogā paṭiviratā araññāyatanāni ajjhogāhetvā vihareyyāmāti. Te sabbaso
nivāpabhojanā paṭiviramiṃsu, bhayabhogā paṭiviratā araññāyatanāni ajjhogāhetvā
vihariṃsu. Tesaṃ gimhānaṃ pacchime māse tiṇodakasaṅkhaye adhimattakasimānaṃ
patto kāyo hoti. Tesaṃ adhimattakasimānaṃ pattakāyānaṃ balavīriyaṃ parihāyi.
Balavīriye parihīne tameva nivāpaṃ nivuttaṃ nevāpikassa paccāgamiṃsu. Te tattha
anupakhajja mucchitā bhojanāni bhuñjiṃsu. Te tattha anupakhajja mucchitā
bhojanāni bhuñjamānā madaṃ āpajjiṃsu, mattā samānā pamādaṃ āpajjiṃsu, pamattā
samānā yathākāmakaraṇīyā ahesuṃ nevāpikassa amusmiṃ nivāpe. Evañhi te dutiyāpi
migajātā na parimucciṃsu nevāpikassa iddhānubhāvā. Yaṃnūna mayaṃ amuṃ nivāpaṃ
nivuttaṃ nevāpikassa upanissāya āsayaṃ
kappeyyāma. Tatrāsayaṃ kappetvā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ nevāpikassa ananupakhajja
amucchitā bhojanāni bhuñjissāma, ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjamānā
na madaṃ āpajjissāma, amattā samānā na pamādaṃ āpajjissāma, appamattā samānā na
yathākāmakaraṇīyā bhavissāma nevāpikassa amusmiṃ nivāpeti. Te amuṃ nivāpaṃ
nivuttaṃ nevāpikassa upanissāya āsayaṃ kappayiṃsu. Tatrāsayaṃ kappetvā amuṃ
nivāpaṃ nivuttaṃ nevāpikassa ananupakhajja
amucchitā bhojanāni bhuñjiṃsu, te tattha ananupakhajja amucchitā
bhojanāni bhuñjamānā na madaṃ āpajjiṃsu, amattā samānā na pamādaṃ āpajjiṃsu, appamattā samānā na
yathākāmakaraṇīyā ahesuṃ nevāpikassa amusmiṃ nivāpe. ''Tatra, bhikkhave,
nevāpikassa ca nevāpikaparisāya ca etadahosi : 'saṭhāssunāmime tatiyā migajātā
ketabino, iddhimantāssunāmime tatiyā migajātā parajanā imañca nāma nivāpaṃ
nivuttaṃ paribhuñjanti, na ca nesaṃ
jānāma āgatiṃ vā gatiṃ vā. Yaṃnūna mayaṃ imaṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mahatīhi
daṇḍavākarāhi [daṇḍavāgurāhi (syā.)] samantā sappadesaṃ anuparivāreyyāma :
appeva nāma tatiyānaṃ migajātānaṃ āsayaṃ passeyyāma, yattha te gāhaṃ
gaccheyyunti. Te amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mahatīhi daṇḍavākarāhi samantā sappadesaṃ
anuparivāresuṃ. Addasaṃsu kho, bhikkhave, nevāpiko ca nevāpikaparisā ca
tatiyānaṃ migajātānaṃ āsayaṃ, yattha te gāhaṃ agamaṃsu. Evañhi te, bhikkhave,
tatiyāpi migajātā na parimucciṃsu nevāpikassa iddhānubhāvā.
265. ''Tatra, bhikkhave, catutthā migajātā evaṃ samacintesuṃ :
'ye kho te paṭhamā migajātā - pe - evañhi te paṭhamā migajātā na parimucciṃsu
nevāpikassa iddhānubhāvā. Yepi te dutiyā migajātā evaṃ samacintesuṃ 'ye kho te
paṭhamā migajātā - pe - evañhi te paṭhamā migajātā na parimucciṃsu nevāpikassa
iddhānubhāvā. Yaṃnūna mayaṃ sabbaso
nivāpabhojanā paṭivirameyyāma, bhayabhogā paṭiviratā araññāyatanāni
ajjhogāhetvā vihareyyāmāti. Te sabbaso nivāpabhojanā paṭiviramiṃsu - pe -
evañhi te dutiyāpi migajātā na parimucciṃsu nevāpikassa iddhānubhāvā. Yepi te
tatiyā migajātā evaṃ samacintesuṃ 'ye kho te paṭhamā migajātā - pe - evañhi te paṭhamā migajātā na
parimucciṃsu nevāpikassa iddhānubhāvā. Yepi te dutiyā migajātā evaṃ samacintesuṃ
'ye kho te paṭhamā migajātā - pe - evañhi te paṭhamā migajātā na parimucciṃsu
nevāpikassa iddhānubhāvā. Yaṃnūna mayaṃ sabbaso nivāpabhojanā paṭivirameyyāma,
bhayabhogā paṭiviratā araññāyatanāni ajjhogāhetvā vihareyyāmāti. Te sabbaso
nivāpabhojanā paṭiviramiṃsu - pe - evañhi te dutiyāpi migajātā na parimucciṃsu
nevāpikassa iddhānubhāvā. Yaṃnūna mayaṃ amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ nevāpikassa
upanissāya āsayaṃ kappeyyāma, tatrāsayaṃ kappetvā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ
nevāpikassa ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjissāma, ananupakhajja
amucchitā bhojanāni bhuñjamānā na madaṃ āpajjissāma, amattā samānā na pamādaṃ āpajjissāma, appamattā
samānā na yathākāmakaraṇīyā bhavissāma nevāpikassa amusmiṃ nivāpeti. Te amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ
nevāpikassa upanissāya āsayaṃ kappayiṃsu, tatrāsayaṃ kappetvā amuṃ nivāpaṃ
nivuttaṃ nevāpikassa ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjiṃsu, te tattha
ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjamānā na madaṃ āpajjiṃsu, amattā samānā
na pamādaṃ āpajjiṃsu, appamattā samānā na yathākāmakaraṇīyā ahesuṃ nevāpikassa
amusmiṃ nivāpe. ''Tatra nevāpikassa ca nevāpikaparisāya ca etadahosi : 'saṭhāssunāmime
tatiyā migajātā ketabino, iddhimantāssunāmime tatiyā migajātā parajanā, imañca nāma nivāpaṃ
nivuttaṃ paribhuñjanti. Na ca nesaṃ jānāma āgatiṃ vā gatiṃ vā. Yaṃnūna mayaṃ
imaṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mahatīti daṇḍavākarāhi
samantā sappadesaṃ anuparivāreyyāma, appeva nāma tatiyānaṃ migajātānaṃ āsayaṃ
passeyyāma, yattha te gāhaṃ gaccheyyunti. Te amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mahatīti daṇḍavākarāhi
samantā sappadesaṃ anuparivāresuṃ. Addasaṃsu kho nevāpiko ca nevāpikaparisā ca
tatiyānaṃ migajātānaṃ āsayaṃ, yattha te gāhaṃ agamaṃsu. Evañhi te tatiyāpi
migajātā na parimucciṃsu nevāpikassa iddhānubhāvā. Yaṃnūna mayaṃ yattha agati
nevāpikassa ca nevāpikaparisāya ca tatrāsayaṃ kappeyyāma, tatrāsayaṃ kappetvā
amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ nevāpikassa ananupakhajja amucchitā bhojanāni
bhuñjissāma, ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjamānā na madaṃ āpajjissāma,
amattā samānā na pamādaṃ āpajjissāma, appamattā samānā na yathākāmakaraṇīyā bhavissāma nevāpikassa amusmiṃ nivāpeti. Te
yattha agati nevāpikassa ca nevāpikaparisāya ca tatrāsayaṃ kappayiṃsu.
Tatrāsayaṃ kappetvā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ nevāpikassa ananupakhajja amucchitā
bhojanāni bhuñjiṃsu, te tattha ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjamānā na
madaṃ āpajjiṃsu, amattā samānā na pamādaṃ āpajjiṃsu, appamattā samānā na
yathākāmakaraṇīyā ahesuṃ nevāpikassa amusmiṃ nivāpe. ''Tatra, bhikkhave, nevāpikassa
ca nevāpikaparisāya ca etadahosi : 'saṭhāssunāmime catutthā migajātā ketabino,
iddhimantāssunāmime catutthā migajātā parajanā. Imañca nāma nivāpaṃ nivuttaṃ
paribhuñjanti, na ca nesaṃ jānāma āgatiṃ vā gatiṃ vā. Yaṃnūna mayaṃ imaṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mahatīhi daṇḍavākarāhi samantā
sappadesaṃ anuparivāreyyāma, appeva nāma catutthānaṃ migajātānaṃ āsayaṃ
passeyyāma yattha te gāhaṃ gaccheyyunti. Te
amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mahatīhi daṇḍavākarāhi samantā sappadesaṃ
anuparivāresuṃ. Neva kho, bhikkhave, addasaṃsu nevāpiko ca nevāpikaparisā ca
catutthānaṃ migajātānaṃ āsayaṃ, yattha te gāhaṃ gaccheyyuṃ. Tatra, bhikkhave,
nevāpikassa ca nevāpikaparisāya ca etadahosi : 'sace kho mayaṃ catutthe
migajāte ghaṭṭessāma, te ghaṭṭitā aññe ghaṭṭissanti te ghaṭṭitā aññe ghaṭṭissanti.
Evaṃ imaṃ nivāpaṃ nivuttaṃ sabbaso migajātā parimuñcissanti. Yaṃnūna mayaṃ
catutthe migajāte ajjhupekkheyyāmāti. Ajjhupekkhiṃsu kho, bhikkhave, nevāpiko
ca nevāpikaparisā ca catutthe migajāte. Evañhi te, bhikkhave, catutthā migajātā
parimucciṃsu nevāpikassa iddhānubhāvā.
266. ''Upamā kho me ayaṃ, bhikkhave, katā atthassa viññāpanāya.
Ayaṃ cevettha attho : nivāpoti kho, bhikkhave, pañcannetaṃ kāmaguṇānaṃ
adhivacanaṃ. Nevāpikoti kho, bhikkhave, mārassetaṃ pāpimato adhivacanaṃ.
Nevāpikaparisāti kho, bhikkhave, māraparisāyetaṃ adhivacanaṃ. Migajātāti kho,
bhikkhave, samaṇabrāhmaṇānametaṃ adhivacanaṃ.
267. ''Tatra, bhikkhave, paṭhamā samaṇabrāhmaṇā amuṃ nivāpaṃ
nivuttaṃ mārassa amūni ca lokāmisāni anupakhajja mucchitā bhojanāni bhuñjiṃsu. Te tattha anupakhajja
mucchitā bhojanāni bhuñjamānā madaṃ āpajjiṃsu, mattā samānā pamādaṃ āpajjiṃsu,
pamattā samānā yathākāmakaraṇīyā ahesuṃ mārassa amusmiṃ nivāpe amusmiñca
lokāmise . Evañhi te, bhikkhave, paṭhamā samaṇabrāhmaṇā na parimucciṃsu mārassa
iddhānubhāvā. Seyyathāpi te, bhikkhave, paṭhamā migajātā tathūpame ahaṃ ime paṭhame
samaṇabrāhmaṇe vadāmi.
268. ''Tatra, bhikkhave, dutiyā samaṇabrāhmaṇā evaṃ samacintesuṃ
: 'ye kho te paṭhamā samaṇabrāhmaṇā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa amūni ca
lokāmisāni anupakhajja mucchitā bhojanāni bhuñjiṃsu. Te tattha anupakhajja
mucchitā bhojanāni bhuñjamānā madaṃ āpajjiṃsu, mattā samānā pamādaṃ āpajjiṃsu, pamattā samānā yathākāmakaraṇīyā
ahesuṃ mārassa amusmiṃ nivāpe amusmiñca lokāmise. Evañhi te paṭhamā samaṇabrāhmaṇā
na parimucciṃsu mārassa iddhānubhāvā. Yaṃnūna
mayaṃ sabbaso nivāpabhojanā lokāmisā paṭivirameyyāma, bhayabhogā paṭiviratā
araññāyatanāni ajjhogāhetvā vihareyyāmāti. Te sabbaso nivāpabhojanā lokāmisā paṭiviramiṃsu,
bhayabhogā paṭiviratā araññāyatanāni ajjhogāhetvā vihareyyāmāti. Te sabbaso nivāpabhojanā
lokāmisā paṭiviramiṃsu, bhayabhogā paṭiviratā araññāyatanāni ajjhogāhetvā
vihariṃsu. Te tattha sākabhakkhāpi ahesuṃ, sāmākabhakkhāpi ahesuṃ,
nīvārabhakkhāpi ahesuṃ, daddulabhakkhāpi ahesuṃ, haṭabhakkhāpi ahesuṃ, kaṇabhakkhāpi
ahesuṃ, ācāmabhakkhāpi ahesuṃ, piññākabhakkhāpi ahesuṃ, tiṇabhakkhāpi ahesuṃ,
gomayabhakkhāpi ahesuṃ, vanamūlaphalāhārā yāpesuṃ pavattaphalabhojī. ''Tesaṃ
gimhānaṃ pacchime māse, tiṇodakasaṅkhaye, adhimattakasimānaṃ patto kāyo hoti.
Tesaṃ adhimattakasimānaṃ pattakāyānaṃ balavīriyaṃ
parihāyi. Balavīriye parihīne cetovimutti parihāyi. Cetovimuttiyā parihīnāya
tameva nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa paccāgamiṃsu tāni ca lokāmisāni. Te tattha
anupakhajja mucchitā bhojanāni bhuñjiṃsu. Te tattha anupakhajja mucchitā
bhojanāni bhuñjamānā madaṃ āpajjiṃsu, mattā samānā pamādaṃ āpajjiṃsu, pamattā
samānā yathākāmakaraṇīyā ahesuṃ mārassa amusmiṃ nivāpe amusmiñca lokāmise.
Evañhi te, bhikkhave, dutiyāpi samaṇabrāhmaṇā na parimucciṃsu mārassa iddhānubhāvā. Seyyathāpi te, bhikkhave,
dutiyā migajātā tathūpame ahaṃ ime dutiye samaṇabrāhmaṇe vadāmi.
269. ''Tatra, bhikkhave, tatiyā samaṇabrāhmaṇā evaṃ samacintesuṃ
: 'ye kho te paṭhamā samaṇabrāhmaṇā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa amūni ca
lokāmisāni - pe - . Evañhi te paṭhamā samaṇabrāhmaṇā na parimucciṃsu mārassa
iddhānubhāvā. Yepi te dutiyā samaṇabrāhmaṇā evaṃ samacintesuṃ : 'ye kho te paṭhamā
samaṇabrāhmaṇā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa amūni ca lokāmisāni - pe - .
Evañhi te paṭhamā samaṇabrāhmaṇā na parimucciṃsu mārassa iddhānubhāvā. Yaṃnūna
mayaṃ sabbaso nivāpabhojanā lokāmisā paṭivirameyyāma, bhayabhogā paṭiviratā
araññāyatanāni ajjhogāhetvā vihareyyāmāti. Te sabbaso nivāpabhojanā
lokāmisā paṭiviramiṃsu. Bhayabhogā paṭiviratā
araññāyatanāni ajjhogāhetvā vihariṃsu. Te tattha sākabhakkhāpi ahesuṃ - pe -
pavattaphalabhojī. Tesaṃ gimhānaṃ
pacchime māse tiṇodakasaṅkhaye adhimattakasimānaṃ patto kāyo hoti. Tesaṃ adhimattakasimānaṃ
pattakāyānaṃ balavīriyaṃ parihāyi, balavīriye parihīne cetovimutti parihāyi,
cetovimuttiyā parihīnāya tameva nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa paccāgamiṃsu tāni ca
lokāmisāni. Te tattha anupakhajja mucchitā bhojanāni bhuñjiṃsu. Te tattha
anupakhajja mucchitā bhojanāni bhuñjamānā madaṃ āpajjiṃsu, mattā samānā pamādaṃ
āpajjiṃsu, pamattā samānā yathākāmakaraṇīyā ahesuṃ mārassa amusmiṃ nivāpe
amusmiñca lokāmise. Evañhi te dutiyāpi samaṇabrāhmaṇā na parimucciṃsu mārassa
iddhānubhāvā. Yaṃnūna mayaṃ amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa amūni ca lokāmisāni
upanissāya āsayaṃ kappeyyāma, tatrāsayaṃ kappetvā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa
amūni ca lokāmisāni ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjissāma,
ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjamānā na madaṃ āpajjissāma, amattā
samānā na pamādaṃ āpajjissāma, appamattā samānā na yathākāmakaraṇīyā bhavissāma
mārassa amusmiṃ nivāpe amusmiñca lokāmiseti. ''Te amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa
amūni ca lokāmisāni upanissāya āsayaṃ kappayiṃsu. Tatrāsayaṃ kappetvā amuṃ
nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa amūni ca lokāmisāni ananupakhajja amucchitā bhojanāni
bhuñjiṃsu. Te tattha ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjamānā na madaṃ
āpajjiṃsu, amattā samānā na pamādaṃ āpajjiṃsu, appamattā samānā na
yathākāmakaraṇīyā ahesuṃ mārassa amusmiṃ nivāpe amusmiñca lokāmise . Api ca kho
evaṃdiṭṭhikā ahesuṃ : sassato loko itipi, asassato loko itipi antavā loko
itipi, anantavā loko itipi taṃ jīvaṃ taṃ sarīraṃ itipi, aññaṃ jīvaṃ aññaṃ
sarīraṃ itipi hoti tathāgato paraṃ maraṇā itipi, na hoti tathāgato paraṃ maraṇā
itipi, hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā itipi, neva hoti na na hoti
tathāgato paraṃ maraṇā itipi . Evañhi te, bhikkhave, tatiyāpi samaṇabrāhmaṇā na parimucciṃsu mārassa iddhānubhāvā.
Seyyathāpi te, bhikkhave, tatiyā migajātā tathūpame ahaṃ ime tatiye samaṇabrāhmaṇe
vadāmi.
270. ''Tatra, bhikkhave, catutthā samaṇabrāhmaṇā evaṃ samacintesuṃ
: 'ye kho te paṭhamā samaṇabrāhmaṇā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa - pe - .
Evañhi te paṭhamā samaṇabrāhmaṇā na parimucciṃsu mārassa iddhānubhāvā. Yepi te dutiyā samaṇabrāhmaṇā
evaṃ samacintesuṃ : 'ye kho te paṭhamā samaṇabrāhmaṇā - pe - . Evañhi te paṭhamā
samaṇabrāhmaṇā na parimucciṃsu mārassa iddhānubhāvā. Yaṃnūna mayaṃ sabbaso
nivāpabhojanā lokāmisā paṭivirameyyāma bhayabhogā paṭiviratā araññāyatanāni
ajjhogāhetvā vihareyyāmāti. Te sabbaso nivāpabhojanā lokāmisā paṭiviramiṃsu -
pe - . Evañhi te dutiyāpi samaṇabrāhmaṇā na parimucciṃsu mārassa iddhānubhāvā.
Yepi te tatiyā samaṇabrāhmaṇā evaṃ samacintesuṃ ye kho te paṭhamā samaṇabrāhmaṇā - pe - . Evañhi te paṭhamā samaṇabrāhmaṇā na
parimucciṃsu mārassa iddhānubhāvā. Yepi te dutiyā samaṇabrāhmaṇā evaṃ
samacintesuṃ ye kho te paṭhamā samaṇabrāhmaṇā - pe - . Evañhi te paṭhamā samaṇabrāhmaṇā
na parimucciṃsu mārassa iddhānubhāvā. Yaṃnūna mayaṃ sabbaso nivāpabhojanā
lokāmisā paṭivirameyyāma, bhayabhogā paṭiviratā araññāyatanāni ajjhogāhetvā
vihareyyāmāti. Te sabbaso nivāpabhojanā lokāmisā paṭiviramiṃsu - pe - . Evañhi
te dutiyāpi samaṇabrāhmaṇā na parimucciṃsu mārassa iddhānubhāvā. Yaṃnūna mayaṃ
amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa amūni ca lokāmisāni upanissāya āsayaṃ kappeyyāma.
Tatrāsayaṃ kappetvā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa amūni ca lokāmisāni ananupakhajja
amucchitā bhojanāni bhuñjissāma, ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjamānā
na madaṃ āpajjissāma, amattā samānā na pamādaṃ āpajjissāma, appamattā samānā na
yathākāmakaraṇīyā bhavissāma mārassa amusmiṃ nivāpe amusmiñca lokāmiseti.
''Te amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa amūni ca lokāmisāni upanissāya āsayaṃ
kappayiṃsu. Tatrāsayaṃ kappetvā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa amūni ca
lokāmisāni ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjiṃsu. Te tattha ananupakhajja
amucchitā bhojanāni bhuñjamānā na madaṃ āpajjiṃsu. Amattā samānā na pamādaṃ āpajjiṃsu. Appamattā samānā na
yathākāmakaraṇīyā ahesuṃ mārassa amusmiṃ nivāpe amusmiñca lokāmise. Api ca kho
evaṃdiṭṭhikā ahesuṃ sassato loko itipi - pe - neva hoti na na hoti tathāgato
paraṃ maraṇā itipi. Evañhi te tatiyāpi samaṇabrāhmaṇā na parimucciṃsu mārassa
iddhānubhāvā. Yaṃnūna mayaṃ yattha agati mārassa ca māraparisāya ca tatrāsayaṃ
kappeyāma. Tatrāsayaṃ kappetvā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa amūni ca lokāmisāni ananupakhajja amucchitā
bhojanāni bhuñjissāma, ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjamānā na madaṃ
āpajjissāma, amattā samānā na pamādaṃ āpajjissāma, appamattā samānā na
yathākāmakaraṇīyā bhavissāma mārassa amusmiṃ nivāpe amusmiñca lokāmiseti.
''Te yattha agati mārassa ca
māraparisāya ca tatrāsayaṃ kappayiṃsu. Tatrāsayaṃ kappetvā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa amūni ca lokāmisāni
ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjiṃsu, te tattha ananupakhajja amucchitā
bhojanāni bhuñjamānā na madaṃ āpajjiṃsu, amattā samānā na pamādaṃ āpajjiṃsu,
appamattā samānā na yathākāmakaraṇīyā ahesuṃ mārassa amusmiṃ nivāpe amusmiñca
lokāmise. Evañhi te, bhikkhave, catutthā samaṇabrāhmaṇā parimucciṃsu mārassa
iddhānubhāvā. Seyyathāpi te, bhikkhave, catutthā migajātā tathūpame ahaṃ ime
catutthe samaṇabrāhmaṇe vadāmi.
271. ''Kathañca, bhikkhave, agati mārassa ca māraparisāya ca?
idha, bhikkhave, bhikkhu vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ
savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. Ayaṃ
vuccati, bhikkhave, bhikkhu andhamakāsi māraṃ, apadaṃ vadhitvā māracakkhuṃ
adassanaṃ gato pāpimato. ''Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu vitakkavicārānaṃ
vūpasamā ajjhattaṃ sampasādanaṃ cetaso ekodibhāvaṃ avitakkaṃ avicāraṃ samādhijaṃ
pītisukhaṃ dutiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. Ayaṃ vuccati, bhikkhave - pe -
pāpimato. ''Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu pītiyā ca virāgā upekkhako ca
viharati sato ca sampajāno, sukhañca kāyena paṭisaṃvedeti yaṃ taṃ ariyā
ācikkhanti 'upekkhako satimā
sukhavihārīti tatiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. Ayaṃ vuccati, bhikkhave - pe
- pāpimato. ''Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu sukhassa ca pahānā dukkhassa ca
pahānā, pubbeva somanassadomanassānaṃ atthaṅgamā, adukkhamasukhaṃ
upekkhāsatipārisuddhiṃ catutthaṃ jhānaṃ
upasampajja viharati. Ayaṃ vuccati, bhikkhave - pe - pāpimato. ''Puna
caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu sabbaso rūpasaññānaṃ samatikkamā paṭighasaññānaṃ
atthaṅgamā nānattasaññānaṃ amanasikārā
'ananto ākāsoti ākāsānañcāyatanaṃ upasampajja viharati. Ayaṃ vuccati, bhikkhave
- pe - pāpimato. ''Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu sabbaso ākāsānañcāyatanaṃ
samatikkamma 'anantaṃ viññāṇanti viññāṇañcāyatanaṃ upasampajja viharati. Ayaṃ
vuccati, bhikkhave - pe - pāpimato. ''Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu sabbaso
viññāṇañcāyatanaṃ samatikkamma 'natthi
kiñcīti ākiñcaññāyatanaṃ upasampajja viharati. Ayaṃ vuccati, bhikkhave - pe -
pāpimato. ''Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu sabbaso ākiñcaññāyatanaṃ
samatikkamma nevasaññānāsaññāyatanaṃ upasampajja viharati. Ayaṃ vuccati,
bhikkhave - pe - pāpimato. ''Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu sabbaso
nevasaññānāsaññāyatanaṃ samatikkamma saññāvedayitanirodhaṃ upasampajja
viharati. Paññāya cassa disvā āsavā parikkhīṇā honti. Ayaṃ vuccati, bhikkhave,
bhikkhu andhamakāsi māraṃ, apadaṃ vadhitvā māracakkhuṃ adassanaṃ gato pāpimato
tiṇṇo loke visattikanti. Idamavoca Bhagavā. Attamanā te bhikkhū
bhagavato bhāsitaṃ abhinandunti.
Nivāpasuttaṃ niṭṭhitaṃ pañcamaṃ.
-ooOoo-
25.
Nivāpasuttavaṇṇanā [Atthakathā]
261. Evaṃ me sutanti nivāpasuttaṃ. Tattha nevāpikoti yo migānaṃ gahaṇatthāya
araññe tiṇabījāni vapati ‘‘idaṃ tiṇaṃ khādituṃ āgate mige sukhaṃ gaṇhissāmī’’ti.
Nivāpanti vappaṃ. Nivuttanti vapitaṃ. Migajātāti migaghaṭā. Anupakhajjāti
anupavisitvā. Mucchitāti taṇhāmucchanāya mucchitā, taṇhāya hadayaṃ pavisitvā
mucchanākāraṃ pāpitāti attho. Madaṃ āpajjissantīti mānamadaṃ āpajjissanti.
Pamādanti vissaṭṭhasatibhāvaṃ. Yathākāmakaraṇīyā bhavissantīti yathā
icchissāma, tathā kātabbā bhavissanti. Imasmiṃ nivāpeti imasmiṃ nivāpaṭṭhāne.
Ekaṃ kira nivāpatiṇaṃ nāma atthi nidāghabhaddakaṃ, taṃ yathā yathā nidāgho
hoti, tathā tathā nīvāravanaṃ viya meghamālā viya ca ekagghanaṃ hoti, taṃ
luddakā ekasmiṃ udakaphāsukaṭṭhāne kasitvā vapitvā vatiṃ katvā dvāraṃ yojetvā
rakkhanti. Atha yadā mahānidāghe sabbatiṇāni sukkhāni honti,
jivhātemanamattampi udakaṃ dullabhaṃ hoti, tadā migajātā sukkhatiṇāni ceva purāṇapaṇṇāni
ca khādantā kampamānā viya vicarantā nivāpatiṇassa gandhaṃ ghāyitvā
vadhabandhanādīni agaṇayitvā vatiṃ ajjhottharantā pavisanti. Tesañhi nivāpatiṇaṃ
ativiya piyaṃ hoti manāpaṃ. Nevāpiko te disvā dve tīṇi divasāni pamatto viya
hoti, dvāraṃ vivaritvā tiṭṭhati. Antonivāpaṭṭhāne tahiṃ tahiṃ udakaāvāṭakāpi
honti, migā vivaṭadvārena pavisitvā khāditamattakaṃ pivitamattakameva katvā
pakkamanti, punadivase kiñci na karontīti kaṇṇe cālayamānā khāditvā pivitvā ataramānā
gacchanti, punadivase koci kiñci kattā natthīti yāvadatthaṃ khāditvā pivitvā maṇḍalagumbaṃ
pavisitvā nipajjanti. Luddakā tesaṃ pamattabhāvaṃ jānitvā dvāraṃ pidhāya
samparivāretvā koṭito paṭṭhāya koṭṭetvā gacchanti, evaṃ te tasmiṃ nivāpe
nevāpikassa yathākāmakaraṇīyā bhavanti.
262. Tatra, bhikkhaveti, bhikkhave, tesu migajātesu. Paṭhamā migajātāti,
migajātā paṭhamadutiyā nāma natthi. Bhagavā pana āgatapaṭipāṭivasena kappetvā
paṭhamā, dutiyā, tatiyā, catutthāti nāmaṃ āropetvā dassesi. Iddhānubhāvāti yathākāmaṃ
kattabbabhāvato; vasībhāvoyeva hi ettha iddhīti ca ānubhāvoti ca adhippeto.
263. Bhayabhogāti bhayena bhogato. Balavīriyanti aparāparaṃ sañcaraṇavāyodhātu,
sā parihāyīti attho.
264. Upanissāya āsayaṃ kappeyyāmāti anto nipajjitvā khādantānampi bhayameva,
bāhirato āgantvā khādantānampi bhayameva, mayaṃ pana amuṃ nivāpaṭṭhānaṃ nissāya
ekamante āsayaṃ kappeyyāmāti cintayiṃsu. Upanissāya āsayaṃ kappayiṃsūti luddakā
nāma na sabbakālaṃ appamattā honti. Mayaṃ tattha tattha maṇḍalagumbesu ceva
vatipādesu ca nipajjitvā etesu mukhadhovanatthaṃ vā āhārakiccakaraṇatthaṃ vā
pakkantesu nivāpavatthuṃ pavisitvā khāditamattaṃ katvā amhākaṃ vasanaṭṭhānaṃ
pavisissāmāti nivāpavatthuṃ upanissāya gahanesu gumbavatipādādīsu āsayaṃ
kappayiṃsu. Bhuñjiṃsūti vuttanayena luddakānaṃ pamādakālaṃ ñatvā sīghaṃ sīghaṃ
pavisitvā bhuñjiṃsu. Ketabinoti sikkhitakerāṭikā. Iddhimantāti iddhimanto viya.
Parajanāti yakkhā. Ime na migajātāti. Āgatiṃ vā gatiṃ vāti iminā nāma ṭhānena
āgacchanti, amutra gacchantīti idaṃ nesaṃ na jānāma. Daṇḍavākarāhīti daṇḍavākarajālehi.
Samantā sappadesaṃ anuparivāresunti atimāyāvino ete, na dūraṃ gamissanti,
santikeyeva nipannā bhavissantīti nivāpakkhettassa samantā sappadesaṃ mahantaṃ
okāsaṃ anuparivāresuṃ. Addasaṃsūti evaṃ parivāretvā vākarajālaṃ samantato
cāletvā olokentā addasaṃsu. Yattha teti yasmiṃ ṭhāne te gāhaṃ agamaṃsu, taṃ ṭhānaṃ
addasaṃsūti attho.
265. Yaṃnūna mayaṃ yattha agatīti te kira evaṃ cintayiṃsu – ‘‘anto
nipajjitvā anto khādantānampi bhayameva, bāhirato āgantvā khādantānampi santike
vasitvā khādantānampi bhayameva, tepi hi vākarajālena parikkhipitvā
gahitāyevā’’ti, tena tesaṃ etadahosi – ‘‘yaṃnūna mayaṃ yattha nevāpikassa ca
nevāpikaparisāya ca agati avisayo, tattha tattha seyyaṃ kappeyyāmā’’ti. Aññe
ghaṭṭessantīti tato tato dūrataravāsino aññe ghaṭṭessanti. Te ghaṭṭitā aññeti
tepi ghaṭṭitā aññe tato dūrataravāsino ghaṭṭessanti. Evaṃ imaṃ nivāpaṃ nivuttaṃ
sabbaso migajātā parimuccissantīti evaṃ imaṃ amhehi nivuttaṃ nivāpaṃ sabbe
migaghaṭā migasaṅghā vissajjessanti pariccajissanti. Ajjhupekkheyyāmāti tesaṃ
gahaṇe abyāvaṭā bhaveyyāmāti; yathā tathā āgacchantesu hi taruṇapotako vā
mahallako vā dubbalo vā yūthaparihīno vā sakkā honti laddhuṃ, anāgacchantesu
kiñci natthi. Ajjhupekkhiṃsu kho, bhikkhaveti evaṃ cintetvā abyāvaṭāva ahesuṃ.
266. Amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa amūni ca lokāmisānīti ettha nivāpoti
vā lokāmisānīti vā vaṭṭāmisabhūtānaṃ pañcannaṃ kāmaguṇānametaṃ adhivacanaṃ.
Māro na ca bījāni viya kāmaguṇe vapento āhiṇḍati, kāmaguṇagiddhānaṃ pana upari
vasaṃ vatteti, tasmā kāmaguṇā mārassa nivāpā nāma honti. Tena vuttaṃ – ‘‘amuṃ
nivāpaṃ nivuttaṃ mārassā’’ti. Na parimucciṃsu mārassa iddhānubhāvāti mārassa
vasaṃ gatā ahesuṃ, yathākāmakaraṇīyā. Ayaṃ saputtabhariyapabbajjāya āgataupamā.
267. Cetovimutti parihāyīti ettha cetovimutti nāma araññe vasissāmāti
uppannaajjhāsayo; so parihāyīti attho. Tathūpame ahaṃ ime dutiyeti ayaṃ brāhmaṇadhammikapabbajjāya
upamā. Brāhmaṇā hi aṭṭhacattālīsavassāni komārabrahmacariyaṃ caritvā vaṭṭupacchedabhayena
paveṇiṃ ghaṭayissāmāti dhanaṃ pariyesitvā bhariyaṃ gahetvā agāramajjhe vasantā
ekasmiṃ putte jāte ‘‘amhākaṃ putto jāto vaṭṭaṃ na ucchinnaṃ paveṇi ghaṭitā’’ti
puna nikkhamitvā pabbajanti vā tameva vā sa’kalattavāsaṃ vasanti.
268. Evañhi te, bhikkhave, tatiyāpi samaṇabrāhmaṇā na parimucciṃsūti
purimā viya tepi mārassa iddhānubhāvā na mucciṃsu; yathākāmakaraṇīyāva ahesuṃ.
Kiṃ pana te akaṃsūti? Gāmanigamarājadhāniyo osaritvā tesu tesu ārāmauyyānaṭṭhānesu
assamaṃ māpetvā nivasantā kuladārake hatthiassarathasippādīni nānappakārāni
sippāni sikkhāpesuṃ. Iti te vākarajālena tatiyā migajātā viya mārassa pāpimato
diṭṭhijālena parikkhipitvā yathākāmakaraṇīyā ahesuṃ.
269. Tathūpame ahaṃ ime catuttheti ayaṃ imassa sāsanassa upamā āhaṭā.
270. Andhamakāsi māranti na mārassa akkhīni bhindi. Vipassanāpādakajjhānaṃ
samāpannassa pana bhikkhuno imaṃ nāma ārammaṇaṃ nissāya cittaṃ vattatīti māro
passituṃ na sakkoti. Tena vuttaṃ – ‘‘andhamakāsi māra’’nti. Apadaṃ vadhitvā
māracakkhunti teneva pariyāyena yathā mārassa cakkhu apadaṃ hoti nippadaṃ,
appatiṭṭhaṃ, nirārammaṇaṃ, evaṃ vadhitvāti attho. Adassanaṃ gato pāpimatoti
teneva pariyāyena mārassa pāpimato adassanaṃ gato. Na hi so attano maṃsacakkhunā
tassa vipassanāpādakajjhānaṃ samāpannassa bhikkhuno ñāṇasarīraṃ daṭṭhuṃ
sakkoti. Paññāya cassa disvā āsavā parikkhīṇā hontīti maggapaññāya cattāri
ariyasaccāni disvā cattāro āsavā parikkhīṇā honti. Tiṇṇo loke visattikanti loke
sattavisattabhāvena visattikāti evaṃ saṅkhaṃ gataṃ. Atha vā ‘‘visattikāti kenaṭṭhena
visattikā? Visatāti visattikā visaṭāti visattikā, vipulāti visattikā, visālāti
visattikā, visamāti visattikā, visakkatīti visattikā, visaṃ haratīti visattikā,
visaṃvādikāti visattikā, visamūlāti visattikā, visaphalāti visattikā,
visaparibhogāti visattikā, visālā vā pana sā taṇhā rūpe sadde gandhe rase phoṭṭhabbe’’ti
(mahāni. 3; cūḷani. mettagūmāṇavapucchāniddesa 22, khaggavisāṇasuttaniddesa
124) visattikā. Evaṃ visattikāti saṅkhaṃ gataṃ taṇhaṃ tiṇṇo nittiṇṇo uttiṇṇo.
Tena vuccati – ‘‘tiṇṇo loke visattika’’nti.
Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Nivāpasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
-ooOoo-
No comments:
Post a Comment