Sunday, August 16, 2020

Thắng Pháp Abhidhamma - Bài 18 Tâm Sân (Dosacitta) - Chủ Nhật, ngày 16 tháng 8, 2020

 Thắng Pháp Abhidhamma

Giảng Sư: TT Giác Đẳng

Giáo trình Thắng Pháp Abhidhamma NGÀY  16/8/2020 

Bài 18

 Tâm Sân (Dosacitta)

 Tâm sân – dosacitta – trong Phật học đặc biệt là trong Thắng Pháp Abhidhamma nên được hiểu có nhiều phần khác hơn thông thường. Trong cách nói thường thức thì sân có nghĩa là nỗi giận. Chữ dosa - được dịch là sân - ở đây chỉ cho sự khó chịu với cảnh. Tất cả sự phật ý, bất bình, phẫn nộ, lo lắng, sợ hãi… đều nằm trong tâm sân. Thí dụ Tôn giả Ananda ưu bi trước sự viên tịch của Đức Phật. Tâm trạng ưu bi đó thuộc dosacitta nhưng không có nghĩa gì là “nổi giận” như ý nghĩa của tâm sân theo cách hiểu bình thường.

 Hai thứ tâm sân

 Thắng Pháp Abhidhamma nêu hai thứ tâm sân:

 1. Tâm sân thọ ưu hợp phấn vô trợ (domanassasahagataṃ paṭighasampayuttaṃ asaṅkhārikam)

2. Tâm sân thọ ưu hợp phấn hữu trợ (domanassasahagataṃ paṭighasampayuttaṃ sasaṅkhārikam)

 Hai tâm sân khác nhau chỉ ở điểm do tác động (hữu trợ) hay không do tác động (vô trợ). Tâm sân đột khởi là tâm vô trợ. Tâm sân sanh lên do nghĩ tới nghĩ lui hoặc có người lập đi lập lại rồi sanh tâm bực mình là tâm hữu trợ.

 Hai mệnh đề tính từ cần lưu ý

 Thọ ưu  là dịch thoát từ chữ domanassasahagataṃ  (đi với phiền muộn, hay không thích thú, hoặc khó chịu) là thuộc tánh thọ (thọ uẩn) . Riêng mệnh đề tính từ paṭighasampayuttaṃ được được HT Thích Minh Châu dịch là “tương ưng với hận” (Thắng Pháp Tập Yếu Luận), dịch giả Phạm Kim Khánh dùng cụm từ “có liên hợp với ác ý” (Vi Diệu Pháp Khái Luận). Cả hai cách dịch đều có vấn đề gây ngộ nhận. Tất cả tâm sân đều là paṭighasampayuttaṃ nhưng không hẳn là có ác ý hay hận. Thí dụ tâm bực bội khi trời nóng bức là tâm sân nhưng không thể gọi là có “hận” hay “có ác ý”. Riêng Ngài Tịnh Sự dịch chữ paṭighasampayuttaṃ là “hợp phấn” có một số đọc là “hợp phẩn” giải thích là “đi với phẩn nộ”. Đọc và giải như vậy cũng rơi vào hai trường hợp trên. Tâm sân không nhất thiết là luôn luôn phẩn nộ (tức giận bùng phát). Trong những năm sống với Ngài Tịnh Sự có nêu lên câu hỏi nầy. Ngài giải thích chữ trong Hán Việt có thể đọc cả hai âm: phẫn và  phấn. Chữ hợp phẫn ở đây chỉ cho thứ xung lực (repulsion) của tâm đối với cảnh khó chịu. Dùng chữ phấn như trong câu Bất phấn bất khải, bất phỉ bất phát 不憤不, 不悱不發 (Thuật nhi 述而) (Không phấn phát thì không hiểu ra, chẳng tức chẳng nảy ra). Không nên hiểu hợp phấn nghĩa là phẫn nộ. Hợp phấn paṭighasampayuttaṃ chỉ cho thuộc tánh sân thuộc về hành uẩn.

 Tâm sân không phải là tâm quả

 Quan niệm thông thường là tâm sân sanh khởi do gặp cảnh trái ý nghịch lòng, do vậy, là đặc trưng của đau khổ, và vì thế, là quả do nghiệp bất thiện trong quá khứ. Thắng pháp Abhidhamma nêu rõ những tâm bất thiện là tâm tạo nghiệp chứ không phải là tâm quả do nghiệp sanh. Phải nhớ rõ điểm nầy tâm sân là thái độ xữ lý trước nghịch cảnh. Phần lớn nghịch cảnh là quả của nghiệp quả khứ nhưng tâm sân không sanh lên do nghiệp.

Chữ dosa dịch là sân ở đây được hiểu theo cách nói vĩ mô có nghĩa là bao gồm tất cả những phản ứng khó chịu, phiền muộn, lo âu, sợ hãi từ thô đến tế. Đôi khi được một số các vị giảng sư dùng câu nầy để diễn tả “tâm sân là trạng thái tâm muốn huỷ diệt đối tượng” cần được hiểu là “không muốn sự hiện hữu tiếp diễn của cảnh khó chịu có thể rất vi tế”.

 

Không có tà kiến trong tâm sân. Nhiều người nghĩ là đa số tội ác làm nên như chiến tranh, sát hại sinh vật thì cho thấy tâm sân đi với kiến chấp tà ác. Tà kiến luôn là một trạng thái chấp giữ trong lúc tâm sân là trạng thái muốn huỷ diệt. Thí dụ trong các công trình xây cất thường có bộ phận demolition để đập bỏ những cái cũ nhưng không thể nói đập đổ là xây dựng. Trong một cuộc chiến không có nghĩa chỉ có hận thù mà còn có tham vọng chấp thủ. Tuy vậy không phải hai là một mặc dù cùng hiện khởi.


Một bà mẹ vì quá thương con nên dễ sanh tâm bực tức hay giận dữ khi thấy con làm việc không như mình muốn. Tâm sân thường là đối lực của tâm tham như Phật ngôn tham muốn sanh lo sâu, tham muốn sanh sầu muộn.


Tâm tham là tâm khó chịu đối với cảnh.

 Có hai thứ tâm tham khác biệt do hữu trợ và vô trợ.

 Những mệnh đề tính từ đi theo hai tâm sân nên được lưu ý.


Hai thứ tâm sân:


Bài học trước là: Tâm Tham

Bài học tiếp theo sẽ là: Tâm Si




II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
   
        Thảo luận 1. Tâm sân được hiểu là "sự khó chịu đối với nghịch cảnh" thoạt nghe như trạng thái "bị động". Như vậy có thứ tâm sân "chủ động" chăng?

         Thảo luận 2. Tâm hữu trợ có nhất thiết là yếu kém về cường độ? Thí dụ một người nghe lời dèm pha khi nghe lập đi lập lại nhiều lần (hữu trợ) nên "nộ khí xung thiên" (cường độ mạnh) - TT Tuệ Quyền

         Thảo luận 3. Chư vị a na hàm, a la hán chỉ có thọ khổ không có thọ ưu (tâm sân). Xin giải rõ là trạng thái thế nào khi có thọ khổ mà không có thọ ưu.

 III Trắc Nghiệm

No comments:

Post a Comment