Bài 18
Tâm Sân (Dosacitta)
Tâm sân – dosacitta – trong Phật học đặc biệt là trong Thắng Pháp
Abhidhamma nên được hiểu có nhiều phần khác hơn thông thường. Trong cách nói thường
thức thì sân có nghĩa là nỗi giận. Chữ dosa - được dịch là sân - ở đây chỉ cho
sự khó chịu với cảnh. Tất cả sự phật ý, bất bình, phẫn nộ, lo lắng, sợ hãi… đều
nằm trong tâm sân. Thí dụ Tôn giả Ananda ưu bi trước sự viên tịch của Đức Phật.
Tâm trạng ưu bi đó thuộc dosacitta nhưng không có nghĩa gì là “nổi giận” như ý
nghĩa của tâm sân theo cách hiểu bình thường.
Hai thứ tâm sân
Thắng Pháp Abhidhamma nêu hai thứ tâm sân:
1. Tâm sân thọ ưu hợp phấn
vô trợ (domanassasahagataṃ paṭighasampayuttaṃ asaṅkhārikam)
2. Tâm sân thọ ưu hợp
phấn hữu trợ (domanassasahagataṃ paṭighasampayuttaṃ
sasaṅkhārikam)
Hai tâm sân khác nhau chỉ ở điểm do tác động (hữu trợ) hay không
do tác động (vô trợ). Tâm sân đột khởi là tâm vô trợ. Tâm sân sanh lên do nghĩ
tới nghĩ lui hoặc có người lập đi lập lại rồi sanh tâm bực mình là tâm hữu trợ.
Hai mệnh đề tính từ cần lưu ý
Thọ ưu là dịch thoát từ chữ
domanassasahagataṃ (đi với phiền muộn,
hay không thích thú, hoặc khó chịu) là thuộc tánh thọ (thọ uẩn) . Riêng mệnh đề
tính từ paṭighasampayuttaṃ được được HT Thích Minh Châu dịch là “tương ưng với
hận” (Thắng Pháp Tập Yếu Luận), dịch giả Phạm Kim Khánh dùng cụm từ “có liên hợp
với ác ý” (Vi Diệu Pháp Khái Luận). Cả hai cách dịch đều có vấn đề gây ngộ nhận.
Tất cả tâm sân đều là paṭighasampayuttaṃ nhưng không hẳn là có ác
ý hay hận. Thí dụ tâm bực bội khi trời nóng bức là tâm sân nhưng không thể gọi
là có “hận” hay “có ác ý”. Riêng Ngài Tịnh Sự dịch chữ paṭighasampayuttaṃ là
“hợp phấn” có một số đọc là “hợp phẩn” giải thích là “đi với phẩn nộ”. Đọc và
giải như vậy cũng rơi vào hai trường hợp trên. Tâm sân không nhất thiết là luôn
luôn phẩn nộ (tức giận bùng phát). Trong những năm sống với Ngài Tịnh Sự có nêu
lên câu hỏi nầy. Ngài giải thích chữ 憤 trong Hán Việt có thể đọc cả hai âm: phẫn và phấn. Chữ hợp phẫn ở đây chỉ cho thứ xung lực
(repulsion) của tâm đối với cảnh khó chịu. Dùng chữ phấn như trong câu Bất phấn
bất khải, bất phỉ bất phát 不憤不啟, 不悱不發 (Thuật nhi 述而) (Không phấn phát thì không hiểu ra, chẳng tức chẳng nảy ra). Không
nên hiểu hợp phấn nghĩa là phẫn nộ. Hợp phấn paṭighasampayuttaṃ chỉ cho thuộc
tánh sân thuộc về hành uẩn.
Tâm
sân không phải là tâm quả
Quan
niệm thông thường là tâm sân sanh khởi do gặp cảnh trái ý nghịch lòng, do vậy,
là đặc trưng của đau khổ, và vì thế, là quả do nghiệp bất thiện trong quá khứ.
Thắng pháp Abhidhamma nêu rõ những tâm bất thiện là tâm tạo nghiệp chứ không
phải là tâm quả do nghiệp sanh. Phải nhớ rõ điểm nầy tâm sân là thái độ xữ
lý trước nghịch cảnh. Phần lớn nghịch cảnh là quả của nghiệp quả khứ nhưng tâm
sân không sanh lên do nghiệp.
Chữ
dosa dịch là sân ở đây được hiểu theo cách nói vĩ mô có nghĩa là bao gồm tất cả
những phản ứng khó chịu, phiền muộn, lo âu, sợ hãi từ thô đến tế. Đôi khi được
một số các vị giảng sư dùng câu nầy để diễn tả “tâm sân là trạng thái tâm muốn
huỷ diệt đối tượng” cần được hiểu là “không muốn sự hiện hữu tiếp diễn của cảnh
khó chịu có thể rất vi tế”.
Không có tà kiến trong tâm sân. Nhiều người nghĩ là đa số tội ác làm
nên như chiến tranh, sát hại sinh vật thì cho thấy tâm sân đi với kiến chấp tà ác.
Tà kiến luôn là một trạng thái chấp giữ trong lúc tâm sân là trạng thái muốn huỷ
diệt. Thí dụ trong các công trình xây cất thường có bộ phận demolition để đập bỏ
những cái cũ nhưng không thể nói đập đổ là xây dựng. Trong một cuộc chiến không
có nghĩa chỉ có hận thù mà còn có tham vọng chấp thủ. Tuy vậy không phải hai là
một mặc dù cùng hiện khởi.
Một
bà mẹ vì quá thương con nên dễ sanh tâm bực tức hay giận dữ khi thấy con làm việc
không như mình muốn. Tâm sân thường là đối lực của tâm tham như Phật ngôn tham
muốn sanh lo sâu, tham muốn sanh sầu muộn.
Tâm
tham là tâm khó chịu đối với cảnh.
Có
hai thứ tâm tham khác biệt do hữu trợ và vô trợ.
Những
mệnh đề tính từ đi theo hai tâm sân nên được lưu ý.
Hai
thứ tâm sân:
Bài
học trước là: Tâm Tham
Bài
học tiếp theo sẽ là: Tâm Si
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 1. Tâm sân được hiểu là "sự khó chịu đối với nghịch cảnh" thoạt nghe như trạng thái "bị động". Như vậy có thứ tâm sân "chủ động" chăng?
Thảo luận 2. Tâm hữu trợ có nhất thiết là yếu kém về cường độ? Thí dụ một người nghe lời dèm pha khi nghe lập đi lập lại nhiều lần (hữu trợ) nên "nộ khí xung thiên" (cường độ mạnh) - TT Tuệ Quyền
Thảo luận 3. Chư vị a na hàm, a la hán chỉ có thọ khổ không có thọ ưu (tâm sân). Xin giải rõ là trạng thái thế nào khi có thọ khổ mà không có thọ ưu.
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment