Bài 22
Tâm Duy Tác Dục Giới Tịnh
Hảo
Tâm duy tác dục giới tịnh hảo là tâm hành xử của chư vị a la hán đã
đoạn tận phiền não, kể cả Đức Phật toàn giác. Giống như tâm thiện dục giới tịnh
hảo đây là thứ tâm đa nhiệm của các bậc không còn lậu hoặc. Ngoài những lúc nhập
thiền các Ngài sử dụng tâm duy tác dục giới tịnh hảo cho những sinh hoạt hằng
ngày kể cả hạnh nguyện độ sanh như thuyết pháp, họp Tăng, khất thực trì bình… Sự
trình bày tâm duy tác dục giới tịnh hảo cho chúng ta biết nhiều về tâm thái của
chư vị thánh nhấn hoàn toàn giải thoát, một điều rất khó hiểu hết đối với phàm
nhân .
Hai thứ tâm duy tác
Có thứ tâm duy tác vô nhân chỉ đóng vai trò cơ năng là hai tâm khán
ngũ môn và tâm khán ý môn mà phàm hay thánh đều có. Tâm sinh tiếu cũng là duy tác vô nhân. Các tâm
duy tác hữu nhân có vai trò xử lý cảnh của bậc vô lậu. Riêng tám tâm duy tác dục
giới hữu nhân có thể nói là đóng rất nhiều vai trò. Chữ dục giới ở đây chỉ để nói
là thứ tâm không thuộc về thiền sắc và thiền vô sắc.
Còn hạt nhưng mầm đã chết
Tâm phàm phu khi xử lý cảnh dùn bằng tâm thiện hay bất thiện đều tạo
quả nếu gặp điều kiện thích hợp bởi vì còn nằm trong vòng cương toả của vô minh
và ái. Chư vị vô lậu ứng cúng vì không còn vô minh và ái nên tất cả hành xử đều
không tạo quả tốt xấu. Tất nhiên các Ngài không làm những việc bất thiện như sát
sanh, trộm cắp.. ngay cả khi làm có việc lành như thuyết pháp, lễ Phật… cũng không
tạo “quả tốt”. Pháp sư Giác Chánh đề cập điều nầy dùng thí dụ như hột bắp đã luộc
trước khi phơi khô có gieo xuống thì cũng không mọc cây bắp khác vì mầm đã chết.
Kinh Pháp Cú có Phật ngôn mô tả điều nầy như chim trời rời ao hồ không để lại dấu
vết.
Thọ hỷ và thọ xả
Các bậc hoàn toàn giải thoát vẫn có tâm thọ hỷ như sự hân hoan rất
tế nhị không nên hiểu theo cách “phấn khích” của phàm tâm. Tâm thọ xả điềm đạm
của các Ngài là thứ tâm trưởng thành không còn vị cảnh chi phối rất khác với sự
vô tư lự của phàm phu. Rất nhiều trường hợp ghi lại tâm thái của tôn giả Sàriputta
khi cảm kích trí tuệ siêu việt của Đức Phật hay một vị A La Hán hoan hỷ với sự
tịnh lạc của đời sống sa môn so với hạnh phúc cung đình của thời còn là một vương
gia. Các Ngài hoan hỷ nhưng không mang sự phấn khích thường tình.
Hợp trí và ly trí
Thời Đức Thế Tôn tại thế có vị giáo chủ đạo Jain là Nigantha Natàputta
tuyên bố là trí tuệ siêu đẳng của mình luôn hiện hữu cả ngày lẫn đêm. Đức Phật
dạy một bậc đại giác chỉ dùng trí khi cần chứ không phải trong toàn thời gian đi
đứng nằm ngồi đều dùng đến. Thí dụ một người rất giỏi tiếng Pháp không phải cả
24 giờ đều dùng khả năng nói tiếng Pháp trôi chảy. Chính vì vậy chư vị A La Hán
có những khoảnh khắc dùng tâm ly trí. Nhưng không có nghĩa là thiếu trí.
Vô trợ hay hữu trợ
Phản ứng nhanh chậm của các vị vô lậu giải thoát không thuộc tâm mạnh
hay tâm yếu hoặc cần tác động hay không cần tác động. Đơn giản là có những việc
cần suy xét. Có những chuyện Đức Phật trả lời sau ba lần thỉnh cầu không có nghĩa
là Ngài suy nghĩ chậm thí dụ câu “Như lai nói pháp cẩn trọng chức không phải không
cẩn trọng”
Phật dữ Phật tri, thánh dữ thánh tri
Cho dù có nhiều chi tiết được trình bày nhưng không có nghĩa vì vậy
phàm nhân có thể biết rõ tâm thái của các bậc hoàn toàn giải thoát. Có thể tạm
thí dụ một em nhỏ trong gia đình đông con rất khó hiểu hết tâm trạng của bà mẹ
với tình thương chan hoà. Giai tầng nào hiều giai tầng đó. Ngay cả các bậc thánh
tầng thấp không hiểu rõ tâm các bậc thánh tầng cao hơn.
Tám tâm duy tác dục giới tịnh hảo
Giống như tâm thiện dục giới tịnh hảo, tâm duy tác dục giới tịnh hảo
được chia thành tám dựa trên ba yếu tố: thọ hỷ hay thọ xả, hợp trí hay ly trí,
vô trợ hay hữu trợ.
1.
Tâm duy tác thọ hỷ hợp trí vô trợ
(somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikam)
2.
Tâm duy tác thọ hỷ hợp trí hữu trợ
(somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ sasaṅkhārikam) )
3.
Tâm duy tác thọ hỷ ly trí vô trợ
(somanassasahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ asaṅkhārikam)
4.
Tâm duy tác thọ hỷ ly trí hữu trợ (somanassasahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ
sasaṅkhārikam)
5.
Tâm duy tác thọ xả hợp trí vô trợ (upekkhāsahagataṃ
ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikam)
6.
Tâm duy tác thọ xả hợp trí hữu trợ
(upekkhāsahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ sasaṅkhārikam)
7.
Tâm duy tác thọ xả ly trí vô trợ
(upekkhāsahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ asaṅkhārikam)
8.
Tâm duy tác thọ xả ly trí hữu trợ (upekkhāsahagataṃñāṇavippayuttaṃ
sasaṅkhārikam)
Thuật
ngữ kiriya citta ở đây dịch là tâm duy tác mang ý nghĩa là “chỉ có hành động nhưng
không có quả báo”. Dịch như vậy không hoàn toàn ổn thoả khi định nghĩa các tâm duy
tác vô nhân có nghĩa là chỉ làm việc máy móc chứ không tạo quả. Ngày xưa Ngài Tịnh Sự dịch kiriya citta là “tâm
hạnh” hay “tâm đại hạnh” chỉ cho hành xử của các bậc ứng cúng. Chữ hạnh rất đẹp
đó giống như trong “hạnh nguyện” = chỉ sống vì cuộc đời không vì tự ngã. Nhưng
chữ nầy cũng lấn cấn với tâm duy tác vô nhân như nói trên. Về sau nầy Ngài chọn
chữ “tâm tố”. Chữ tố (做) cũng
chỉ cho hành động đơn thuần như tố nhân là làm người. Trên phương diện văn tự
thì chữ nầy có thể nói là gần nhất để dịch từ vựng kiriya. Giáo trình nầy chọ
chữ tâm duy tác thay vì tâm tố vì dễ nhớ, dễ hiểu hơn đối với phần đông.
Tam Tạng Pàli không có đoạn nào nói là một bậc hoàn toàn giải thoát
lại có sở hành trái với đời sống hiền thiện như quan niệm “bồ tát nghịch hành”
trong Phật giáo Bắc Truyền qua một số hình ảnh như Tế Điên Hoà Thượng hay chuyện
thiền sư Nam Tuyền chém mèo (Nam Tuyền trảm miêu). Những câu chuyện mang tinh
thần “phương tiện thiện xảo để đời” như vậy là cách nói cao độ về tình thần phá
chấp của Phật giáo Đại thừa. Một vài chi tiết ghi lại về những vị a la hán còn
có thói quen nhỏ nhặt từ nhiều kiếp quá khứ trong kinh điển Pàli có thể được
xem là không gì “đáng nói” so với Phật giáo Bắc Truyền.
Một người
có thể rất thông thạo về niêm luật làm thơ nhưng không có nghĩa là có thể làm được
những áng thơ tuyệt tác. Sự cảm thụ và khả năng phô diễn bằng ngôn ngữ của những
thi hào không đơn giản cho một người không cùng trình độ cảm nhận được. Tâm thái
các bậc vô lậu giải thoát cũng vậy. “Không phải a la hán rất khó để phân biệt
ai là a la hán thật sự:.
Tâm
duy tác dục giới tịnh hảo là tâm hànn xử của chư vị a la hán. Chỉ có hành động
chứ không tạo quả vì không còn bị chi phối bởi vô minh và ái.
Cũng
như tâm thiện dục giới tịnh hảo, tâm duy tác dục giới là thứ tâm đa nhiệm. Tâm
nầy làm nhiều việc, biết nhiều cảnh và có mặt trong nhiều cõi.
Những
trạng thái thọ hỷ thọ xả, hợp trí ly trí, vô trợ hữu trợ trong tâm của các bậc ứng
cần được hiểu là rất tế nhị không giống như thường tình.
Tâm
duy tác dục giới trong biểu đồ chư pháp:
Tám
tâm duy tác dục giới tịnh hảo:
Bài
học trước là: Tâm Quả Dục Giới Tịnh Hảo
Bài
học tiếp theo sẽ là: Tâm Sắc Giới
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành Thảo luận 1. Nếu chư vị a la hán trong tất cả sở hành đều không tạo quả thì chúng ta hiểu thế nào trường hợp Ngài Xá Lợi Phất tạo phước hồi hướng cho người mẹ của kiếp quá khứ? -TT Pháp Tân
Thảo luận 1. Nếu chư vị a la hán trong tất cả sở hành đều không tạo quả thì chúng ta hiểu thế nào trường hợp Ngài Xá Lợi Phất tạo phước hồi hướng cho người mẹ của kiếp quá khứ? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 2. Chư vị A la hán đã vượt ngoài mọi thiện ác nhưng tại sao các ngài còn tuân thủ những giới luật được Đức Phật ban hành? - TT Pháp Tân
Thảo luận 3. Thọ hỷ có phải làm cảm giác do sự phân biệt tốt xấu, cao thấp? Chư vị hoàn toàn giải thoát còn có tâm phân biệt như vậy? - TT Tuệ Quyền
Thảo luận 4. Câu hỏi mùa Vu Lan: Chư vị A la hán, kể cả Đức Phật, vẫn còn thể hiện hiếu hạnh bằng cách nghĩ tưởng đến phụ mẫu hiện tiền hay quá vãng như vậy có phải là sự phân biệt thân sơ đối với chúng sanh? - TT Pháp Đăng
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment