Phạn ngữ Pàli – Lễ Phật - cách phát âm
Giảng Sư: TT Tuệ Siêu
Ngày 31.8.2020
Bài 4
Ân Đức Tăng (Saṅghaguṇa),
Phân chia danh từ
trong Phạn ngữ
Trong ân đức Tam bảo thì ân đức Tăng tương đối xa lạ với nhiều Phật
tử Việt Nam. Tuy vậy chính ân đức Tăng lại mang tánh quy phạm đối với các truyền
thống văn hoá Phật giáo. Và cũng chính ân đức Tăng cho chúng ta biết nhiều về định
nghĩa Tăng Bảo.
Supaṭipanno
bhagavato sāvakasaṅgho
ujupaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho
ñāyapaṭipanno
bhagavato sāvakasaṅgho
sāmīcipaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho
yadidaṃ cattāri
purisayugāṇi atthapurisapuggalā
esa bhagavato sāvakasaṅgho āhuneyyo pāhuneyyo dakkhiṇeyyo
añjalikaranīyo anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassāti.
Thiện hạnh là chúng Tăng thánh đệ tử Thế
Tôn
Trực hạnh
là chúng Tăng thánh đệ tử Thế Tôn
Như hạnh là chúng Tăng thánh đệ tử Thế Tôn
Chánh hạnh là chúng Tăng thánh đệ tử Thế Tôn
Gồm tứ
song, bát bối.
Các ngài xứng đáng được tôn kính, cung đón, cúng dường, chấp tay đảnh lễ.
Là phước điền vô thượng ở thế gian.
Bậc
diệu hạnh thinh văn Thích Tử
Bậc
trực hạnh pháp lữ thiền gia Bậc như lý hạnh Tăng Già
Bậc chơn chánh hạnh dưới toà Thế Tôn
Thành đạo quả bốn đôi tám chúng
Ðệ tử Phật ứng cúng tôn nghiêm
Cung nghinh kính lễ một niềm
Thánh chúng vô thượng phước điền thế gian
SAṄGHAGUṆA
- ÂN ÐỨC TĂNG BẢO
Supaṭipanno
= su + paṭipanno = khéo tu tập, thiện hạnh
Bhagavato
= của đức Thế Tôn.
Sāvakasaṅgho
= sāvaka + saṅgho: Thinh văn Tăng, hội chúng thánh đệ tử Phật
ujupaṭipanno:
uju + paṭipanno = tu tập trực chỉ (giác ngộ giải thoát), trực hạnh
ñāyapaṭipanno:
ñāya + paṭipanno = tu tập đúng cách, như hạnh
sāmīcipaṭipanno
= sāmīci + paṭipanno: tu tập chính xác, chánh hạnh.
yadidaṃ
= yad + idaṃ = Ấy chính là
cattāri
+ purisa + yugāṇi:: bốn đôi thánh nhân, tứ song
atthapurisapuggalā:
atthapurisapuggalā: attha + purisapuggalā: tám vị, bát bối.
esa
bhagavato sāvakasaṅgho = chúng thinh văn ấy của Thế Tôn
āhuneyyo
= xứng đáng được tôn kính
pāhuneyyo
= xứng đáng được cung đón
dakkhiṇeyyo
= xứng đáng được cúng dường
añjalikaranīyo
= xứng đáng được chấp tay đảnh lễ
Anuttaraṃ
puññakkhettaṃ lokassāti = là phước điền vô thượng ở thế gian.
Nói
chính xác thì Tăng được chia làm hai:
Bhikkhusaṅgha (Tỳ kheo Tăng) là đơn vị từ bốn tỳ kheo trở lên có thể gọi là
Tăng theo quy ước.
Sāvakasaṅgho
(Thinh văn Tăng) là những đệ tử Phật có chứng đắc đạo quả tức là Tăng theo quả
chứng. Tăng bảo với ân đức Tăng được học hôm nay thuộc về Sāvakasaṅgho (Thinh
văn Tăng).
Sự
phân chia Tăng có hai là phàm tăng và thánh tăng (hiền, thánh Tăng) là cách dịch
không chính xác. Vì nếu nói vậy thì một vị tỳ kheo chỉ có thể thuộc phàm tăng
hay thánh tăng mà không thể nào thuộc cả hai. Tôn giả Sàriputta là thành viên của
cả hai Tăng hội: Bhikkhusaṅgha (Tỳ kheo
Tăng) và Sāvakasaṅgho (Thinh văn Tăng).
Phật
giáo Bắc Truyền có nói tới tới tăng tướng và tăng thể cũng có phần gần giống nhưng
theo Tạng Pàli thì cả hai tăng hội đều có
Tăng thể.
Một
số Phật tử Tây phương ngày nay ảnh hưởng HT Nhất Hạnh dùng chữ Tăng (sangha) chỉ
cho “đoàn thể của những người tỉnh thức” gồm cả hai giới xuất gia và tại gia. Định
nghĩa như vậy rất xa với truyền thống.
Phạn
ngữ Pàli có cách chia danh từ rất lạ với nhiều người Việt. Trước khi chia danh
từ theo các cách người học cần làm quen với vài điểm sau:
Nam
tánh, nữ tánh, trung tánh
Phân
chia danh từ theo giới tính là cái gì rất cần biết khi học Phạn ngữ Pàli. Dĩ
nhiên đàn ông là danh từ giống đực, đàn bà là giống cái, vật chất là trung tánh
là điều dễ hiểu. Nhưng chữ loka (thế giới) là nam tánh, kathà (luận giải) là nữ
tính thì sách nói sao mình cứ học vậy không thể tranh cãi gì.
Tiếp
vĩ ngữ hay nguyên âm cuối của chữ
Những
nguyên ngữ có nguyên âm cuối cần được chú ý vì khi chia danh từ phải y cứ vào đó.
Danh
từ có tiếp vĩ ngữ là a , i không bao giờ thuộc nữ tánh mà là nam tánh hoặc
trung tánh
Danh
từ có tiếp vĩ ngữ ā, ī, luôn là nữ tánh
Danh
từ có tiếp vĩ ngữ ū chỉ có nam tánh và nữ tánh không bao giờ trung tánh
Danh
từ có tiếp vĩ ngữ u có trong cả ba tánh.
Số
ít và số nhiều
Khi
chi danh từ thì luôn có sự khác biệt giữa số ít và số nhiều thí dụ như Đức Phật
và chư Phật. Khái niệm về cái có thể tính được hay không tính được trong Pàli tương
đối khác với Anh ngữ (….). Trong bước đầy người học chỉ cần tập trung vào các bảng
chia dần dà sẽ rõ hơn.
Trong
cách phát âm Pàli có sự phân biệt mà chỉ có người Tích Lan đọc chính xác đó là
ghosa và aghosa.
Âm
ghosa là âm họng; âm aghosa là âm miệng. Làm cách nầy sẽ thấy rõ: lấy ngón tay
bịt hai lỗ tai lại đọc các chữ g, gh, ṅ nếu có hơi nhốt lại ở thanh quản là đọc
đúng. Cũng cách đó đọc các chữ k, kh nêu hơi thoát ra miệng là đọc đúng.
Các
phụ âm sâu đây thuộc ghosa:
g, gh, ṅ;
j, jh,
ñ;
ḍ, ḍh, ṇ;
td, dh,
n;
b, bh,
m
Các
phụ âm sâu đây thuộc aghosa:
k, kh,
c, ch,
ṭ, ṭh,
t, th,
p, ph,
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment