Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Tuệ Siêu
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 19/1/2020
39. Ðại kinh Mã Thôn (Mahà’assapura sutta)
484. Thế nào là đoạn trừ các triền cái?
Là năm pháp chướng ngại của nội tâm. Đó là những phiền não
khiến định và niệm không thể phát triển:
Này các Tỷ-kheo, thế
nào là các công việc đáng phải làm hơn nữa? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo lựa
một chỗ thanh vắng, tịch mịch, như khu rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha
ma, lùm cây, ngoài trời, đống rơm. Sau khi đi khất thực về và ăn xong, vị ấy ngồi
kiết già, lưng thẳng, và an trú chánh niệm trước mặt. Vị ấy từ bỏ tham ái ở đời,
sống với tâm thoát ly tham ái, gột rửa tâm hết tham ái. Từ bỏ sân hận, vị ấy sống
với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng hữu tình, gột rửa tâm
hết sân hận. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, vị ấy sống thoát ly hôn trầm và thụy
miên, với tâm tưởng hướng về ánh sáng, chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết
hôn trầm thụy miên. Từ bỏ trạo cử hối quá, vị ấy sống không trạo cử hối tiếc, nội
tâm trầm lặng, gột rửa tâm hết trạo cử hối tiếc. Từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống
thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ
đối với thiện pháp.
485. Thế nào là
thành tụu các thiền chứng?
Nhờ đoạn diệt được năm triền cái, hành giả thành tựu được năm
thiền chi: tầm, tứ, hỷ, lạc, định. Từ sự thành tựu sơ thiền với đủ năm thiền
chi vị nầy có thế đi xa hơn bằng cách thuần thục hơn với các tầng thiền tiếp
theo của tâm giải thoát:
Sau khi đã đoạn trừ
năm triền cái này, những triền cái làm ô nhiễm tâm tư, làm yếu ớt trí tuệ, vị ấy
ly dục, ly ác, bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc
do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Vị ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn,
tràn đầy thân này với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân
không có hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần. Này các Tỷ-kheo, như một người hầu
tắm lão luyện, hay đệ tử người hầu tắm, sau khi rắc bột tắm trong thau bằng đồng,
liền nhồi bột ấy với nước, cục bột tắm ấy được thấm nhuần nước ướt, nhào trộn với
nước ướt, thấm ướt
cả trong lẫn ngoài với nước, nhưng không chảy thành giọt.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn
đầy thân này với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không
được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và
trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội
tĩnh nhất tâm. Vị ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân này với
hỷ lạc do định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do định
sanh ấy thấm nhuần. Này các Tỷ-kheo, ví như một hồ nước, nước từ trong dâng
lên, phương Ðông không có lỗ nước chảy ra, phương Tây không có lỗ nước chảy ra,
phương Bắc không có lỗ nước chảy ra, phương Nam không có lỗ nước chảy ra, và thỉnh
thoảng trời mưa lớn. Suối nước mát từ hồ nước ấy phun ra, thấm nhuần, tẩm ướt,
làm cho sung mãn, tràn đầy hồ nước ấy, với nước mát lạnh, không một chỗ nào của
hồ nước ấy không được nước mát lạnh thấm nhuần. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị ấy
thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình với hỷ lạc do định
sanh không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do định sanh thấm nhuần.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh
giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là "xả niệm lạc trú",
chứng và trú Thiền thứ ba. Vị ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy
thân này với lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân không được
lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần. Này các Tỷ-kheo, ví như trong hồ sen xanh, hồ
sen hồng, hồ sen trắng, có những sen xanh, sen hồng hay sen trắng. Những bông
sen ấy sanh trong nước, lớn lên trong nước, không vượt khỏi nước, nuôi sống dưới
nước, từ đầu ngọn cho đến gốc rễ đều thấm nhuần, tẩm ướt, tràn đầy thấu suốt bởi
nước mát lạnh ấy, không một chỗ nào của toàn thể sen xanh, sen hồng hay sen trắng
không được nước mát lạnh ấy thấm nhuần. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thấm
nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân này với lạc thọ không có hỷ ấy,
không một chỗ nào trên toàn thân không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư,
không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Vị ấy thấm nhuần toàn thân mình với tâm thuần tịnh trong
sáng, không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy
thấm nhuần. Này các Tỷ-kheo, ví như một người ngồi, dùng tấm vải trắng trùm đầu,
không một chỗ nào trên toàn thân không được vải trắng ấy che thấu. Cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, vị ấy ngồi thấm nhuần toàn thân mình với tâm thuần tịnh trong
sáng, không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy
thấm nhuần.
485. Thế nào là chứng đắc tam minh?
Các thiền chứng nằm trong phần tâm giải thoát, vẫn còn một lãnh
vực khác quan trọng hơn đó là tuệ giải thoát. Trong bài kinh nầy Đức Thế Tôn dạy
về ba minh:
Với tâm định tĩnh,
thuần tịnh trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng,
vững chắc, bình tĩnh như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến Túc mạng minh. Vị ấy
nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời,
mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi
đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp,
nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng: "Tại chỗ kia,
ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc
như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được
sinh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này,
giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này.
Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây". Như vậy, vị ấy nhớ đến
nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết. Này các Tỷ-kheo,
ví như một người đi từ làng mình đến làng khác, từ làng ấy đi đến một làng khác
nữa, và từ làng này lại trở về làng của mình, người ấy nghĩ: "Ta từ làng của
mình đi đến làng kia, nơi đây, ta đã đứng như thế này, đã ngồi như thế này, đã
nói như thế này, đã yên lặng như thế này. Từ nơi làng nọ, ta đã trở về làng của
ta". Như vậy, này các Tỷ-kheo, với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng,
không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh
như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến Túc mạng minh. Vị ấy nhớ đến các đời sống
quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời,
ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời,
một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Vị ấy nhớ
rằng: "Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp
như thế này, các món ăn như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức
như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ này. Tại chỗ
này, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, các món
ăn như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi
chết tại chỗ này, ta được sanh ra ở đây". Như vậy, vị ấy nhớ đến nhiều đời
sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng, không cấu nhiễm,
không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, vị ấy dẫn
tâm, hướng tâm đến Lậu tận trí. Vị ấy biết như thật: "Ðây là khổ", biết
như thật: "Ðây là Nguyên nhân của Khổ", biết như thật: "Ðây là sự
Diệt khổ", biết như thật: "Ðây là con đường đưa đến diệt khổ", biết
như thật: "Ðây là những lậu hoặc", biết như thật: "Ðây là nguyên
nhân của các lậu hoặc", biết như thật: "Ðây là sự đoạn trừ các lậu hoặc",
biết như thật: "Ðây là con đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc".
phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm xong, sau đời
hiện tại không có đời sống nào khác nữa".
Này các Tỷ-kheo, ví như tại dãy núi lớn có một hồ nước, thuần
tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, một người có mắt, đứng trên bờ sẽ thấy con hến,
con sò, những hòn đá, hòn sạn, những đàn cá bơi qua lại hay đứng một chỗ. Vị ấy
nghĩ: "Ðây là hồ nước thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm. Ðây là những
con hến, con sò, những hòn đá, hòn sạn, những đàn cá đang bơi qua lại hay đứng
yên một chỗ". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo biết như thật: "Ðây
là khổ... biết như thật: "Ðây là Con đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc!"
Nhờ hiểu biết như vậy, nhờ nhận thức như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi dục lậu,
thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Ðối với tự thân đã giải thoát, vị ấy
tuệ tri: "Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần phải làm đã làm
xong, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa".
486. Thế nào là một bậc viên mãn giải thoát?
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như vậy được gọi là Sa-môn, là
Bà-la-môn, là vị đã tắm sạch sẽ, là vị đã biết và hiểu rõ, là bậc có học, là bậc
Thánh, là bậc A-la-hán.
Này các Tỷ-kheo, như thế nào, Tỷ-kheo là Sa-môn? Vị này đã
làm cho dừng lại các ác, các pháp bất thiện, những pháp này ô nhiễm, đưa đến
tái sanh, đáng sợ hãi, đem lại khổ quả, đưa đến sanh, già, chết trong tương
lai. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là Sa-môn.
Và này các Tỷ-kheo, như thế nào Tỷ-kheo là Bà-la-môn? Vị này
đã tẩn xuất ra ngoài các ác, các pháp bất thiện, những pháp này ô nhiễm, đưa đến
tái sanh, đáng sợ hãi, đem lại khổ quả, đưa đến sanh già, chết trong tương lai.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là Bà-la-môn.
Và này các Tỷ-kheo,
như thế nào là Tỷ-kheo đã tắm sạch sẽ? Vị này đã tắm gội sạch sẽ các ác, các
pháp bất thiện, những pháp này ô nhiễm, đưa đến tái sanh, đáng sợ hãi, đem lại khổ quả, đưa đến sanh già, chết
trong tương lai. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đã tắm sạch sẽ.
Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo đã biết và hiểu
rõ? Vị này đã biết và hiểu rõ các ác, các pháp bất thiện, những pháp này ô nhiễm,
đưa đến tái sanh, đáng sợ hãi, đem lại khổ quả, đưa đến sanh già, chết trong
tương lai. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đã biết và hiểu rõ.
Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo có học? Vị này đã
tiêu diệt các ác, các pháp bất thiện, những pháp này ô nhiễm, đưa đến tái sanh,
đáng sợ hãi, đem lại khổ quả, đưa đến sanh già, chết trong tương lai. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có học.
sanh, đáng sợ hãi, đem lại khổ quả, đưa đến sanh già, chết
trong tương lai. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo được gọi là bậc Thánh.
Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo được gọi là bậc
A-la-hán? Vị này đã làm cho xa lìa các ác, các pháp bất thiện, những pháp này ô
nhiễm, đưa đến tái sanh, đáng sợ hãi, đem lại khổ quả, đưa đến sanh già, chết
trong tương lai. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là bậc A-la-hán.
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 2. Tại sao những pháp tác thành sa môn trong bài kinh nầy đề cập nhiều về lối sống, hành trình tu tập và quả chứng mà không thấy đề cập pháp học? - TT Tuệ Siêu
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment