Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Giác Đẳng
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 21/3/2020
79. Tiểu kinh
Sakuludayi (Cùlasakuludāyi sutta)
888. Tại sao gọi là Tiểu kinh Sakuludāyi ?
Tên bài kinh lấy du sĩ ngoại đạo Sakuludāyi. Đã có bài kinh số 77
liên quan tới vị nầy dài hơn nên bài nầy gọi là tiểu kinh.
889. Đại ý Tiểu kinh Sakuludāyi là gì?
Thuở ấy Đức Phật trú ở chùa Trúc Lâm, thành Vương Xá. Một lần Ngài
ghé ngang trú xứ của du sĩ Sakuludāyi giảng cho vị nầy nghe về sự khác biệt giữa
giáo thuyết mà vị ấy thọ trì so với đạo lộ giải thoát mà Đức Thế Tôn truyền dạy.
890. Du sĩ Sakuludāyi đã bắt đầu cuộc đàm luận thế nào?
Vị nầy đề cập đến cuộc gặp gỡ với một giáo chủ ngoại đạo để tán dương Đức Phật:
Thuở xưa, bạch Thế Tôn, rất xa xưa, bậc biết tất cả, thấy tất cả
tự nhận mình có tri kiến không dư thừa: "Khi ta đi, khi ta đứng, khi ta
ngủ và khi ta thức, tri kiến được tồn tại liên tục thường hằng". Vị ấy khi
được con hỏi câu hỏi về quá khứ, liền tránh né với một câu hỏi khác, trả lời ra
ngoài đề, và tỏ lộ phẫn nộ, sân hận, và bất mãn. Do vậy, bạch Thế Tôn, con khởi
lên niệm hoan hỷ đối với Thế Tôn: "Thật sự Thế Tôn, thật sự bậc Thiện Thệ
là bậc thiện xảo về những pháp này".
-- Này Udayi, vị nào là bậc biết tất cả, thấy tất cả và tự nhận
mình có tri kiến không dư thừa: "Khi ta đi, khi ta đứng, khi ta ngủ, khi
ta thức, tri kiến được tồn tại, liên tục thường hằng"? Vị ấy là ai mà khi
được Ông hỏi câu hỏi về quá khứ liền tránh né với một câu hỏi khác, trả lời ra
ngoài đề, và tỏ lộ phẫn nộ, sân hận và bất mãn?
-- Bạch Thế Tôn, vị ấy là Nigantha Nataputta.
891. Đức Phật đã dạy gì khi
nghe điều đó?
Bậc Đạo Sư đã khuyên nên nhận thức chân thực về hiện tại hơn là bận
lòng về quá khứ hoặc tương lai, những điều vượt tầm hiểu biết của Sakuludàyi:
-- Này Udayi, vị nào nhớ đến các đời sống quá khứ sai biệt như một
đời, hai đời... nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và
các chi tiết. Hoặc là vị ấy hỏi Ta câu hỏi về quá khứ, hay là Ta hỏi vị ấy câu
hỏi về quá khứ. Hoặc là vị ấy làm tâm Ta thỏa mãn với câu trả lời câu hỏi về
quá khứ; hay là Ta làm tâm vị ấy thỏa mãn với câu trả lời câu hỏi về quá khứ.
Này Udayi, vị nào với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân thấy sự sống và chết của
chúng sanh, vị ấy biết rõ rằng chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp
đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. Hoặc là vị
ấy hỏi Ta câu hỏi về tương lai, hay là Ta hỏi vị ấy câu hỏi về tương lai. Hoặc
là vị ấy làm tâm Ta thỏa mãn với câu trả lời câu hỏi về tương lai, hay là Ta
làm tâm vị ấy thỏa mãn với câu trả lời câu hỏi về tương lai. Và thôi, này
Udayi, hãy dừng lại ở quá khứ, hãy dừng lại ở tương lai! Ta sẽ thuyết pháp cho
Ông: Cái này có mặt thì cái đây có mặt; do cái này sanh, cái đây sanh. Cái này
không có mặt thì cái đây không có mặt; do cái này diệt, cái đây diệt".
-- Bạch Thế Tôn, cho đến trong phạm vi kinh nghiệm với tự ngã này
(Attabhava), con còn không có thể nhớ đến các nét đại cương và các chi tiết, từ
đâu con có thể nhớ đến nhiều đời sống quá khứ, như một đời, hai đời... con có
thể nhớ đến nhiều đời sống quá khứ, với các nét đại cương và các chi tiết như
Thế Tôn? Bạch Thế Tôn, nay con còn không thấy được con phiêu phong quỷ
(pamsapisacaka) từ đâu, với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân con có thể tuệ tri
rằng chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may
mắn kẻ bất hạnh, như Thế Tôn? Do vậy, bạch Thế Tôn, khi Thế Tôn nói với con như
sau: "Này Udayi, hãy dừng lại ở quá khứ, hãy dừng lại ở tương lai. Ta sẽ
thuyết pháp cho Ông: "Cái này có mặt thì cái đây có mặt; do cái này sanh,
cái đây sanh. Cái này không có mặt thì cái đây không có mặt; do cái này diệt,
cái đây diệt", thời con lại càng không nhận rõ bội phần. Tuy vậy, bạch Thế
Tôn, con có thể làm tâm Thế Tôn thỏa mãn với câu trả lời câu hỏi về bậc Ðạo sư
của mình.
892. Đức Phật đã tiếp tục cuộc đàm luận thế nào?
Ngài đã hỏi về giáo thuyết mà Sakuludāyi đang
thọ trì rồi nêu rõ những điểm bất cập của những điều ấy:
-- Này Udayi, bậc Ðạo sư của Ông dạy những gì?
-- Bạch Thế Tôn, bậc Ðạo sư của chúng con dạy chúng con rằng:
"Sắc này là tối thượng, sắc này là tối thượng".
-- Này Udayi, khi bậc Ðạo sư của Ông dạy Ông rằng: "Sắc này
là tối thượng, sắc này là tối thượng", thời sắc tối thượng ấy là sắc gì?
-- Bạch Thế Tôn, khi một sắc nào không có một sắc khác cao thượng
hơn, hay thù thắng hơn, thời sắc ấy là sắc tối thượng.
-- Này Udayi, sắc ấy là sắc gì, khi sắc ấy không có một sắc nào
khác cao thượng hơn, hay thù thắng hơn?
-- Bạch Thế Tôn, khi một sắc nào không có một sắc khác cao thượng
hơn, hay thù thắng hơn, thời sắc ấy là sắc tối thượng.
-- Này Udayi, lời giải thích của Ông chỉ dài như vậy, Ông phải
giải thích rộng rãi thêm. Nếu Ông nói: "Bạch Thế Tôn, khi một sắc nào
không có một sắc khác cao thượng hơn hay thù thắng hơn, sắc ấy là sắc tối
thượng thời Ông không chỉ rõ sắc ấy. Này Udayi, như có người nói: "Tôi yêu
và luyến ái một cô gái đẹp trong nước này". Có người hỏi: "Này Bạn,
cô gái đẹp mà bạn yêu và luyến ái ấy, bạn có biết là người giai cấp nào, là
Sát-đế-lị, hay Bà-la-môn, hay Phệ-xá, hay Thủ-đà?" Khi được hỏi, người ấy
trả lời không biết. Có người hỏi: "Này bạn, cô gái đẹp bạn yêu và luyến ái
ấy, bạn có biết tên gì, họ gì, lớn người, thấp người, hay người bậc trung? Da
đen sẫm, da ngăm ngăm đen hay da hồng hào? Ở tại làng nào, thị trấn nào, hay
thành phố nào?" Khi được hỏi vậy người ấy trả lời không biết. Có người
hỏi: "Này bạn, như vậy có phải bạn đã yêu và đã luyến ái một người bạn
không biết, không thấy?" Ðược hỏi vậy, vị ấy trả lời phải. -- Này Udayi,
Ông nghĩ thế nào? Sự tình là như vậy thời lời nói của người ấy có phải là không
hiệu năng không?
-- Bạch Thế Tôn, sự tình là như vậy thời lời nói của người ấy thật
sự là không hiệu năng.
-- Cũng vậy, này Udayi, khi Ông nói: "Bạch Thế Tôn khi một
sắc nào không có một sắc khác cao thượng hơn hay thù thắng hơn, thời sắc ấy là
sắc tối thượng", thời Ông không chỉ rõ sắc ấy.
-- Bạch Thế Tôn, ví như một hòn lưu ly bảo châu, đẹp đẽ, trong
suốt, có tám mặt, khéo dũa, khéo mài, được đặt trên một tấm màn màu nhạt, tự nó
sáng lên, chói lên, bừng sáng lên; với sắc như vậy, tự ngã là không bệnh, sau
khi chết.
-- Này Udayi, Ông nghĩ thế nào? Một hòn lưu ly bảo châu nào, đẹp
đẽ, trong suốt, có tám mặt, khéo dũa, khéo mài, được đặt trên một tấm màn màu nhạt,
tự nó sáng lên, chói lên, bừng sáng lên; hay con sâu đom đóm trong đêm đen tối
mù, giữa hai quang sắc này, quang sắc nào vi diệu hơn, và thù thắng hơn?
-- Bạch Thế Tôn, con sâu đom đóm trong đêm đen tối mù, quang sắc
này vi diệu hơn và thù thắng hơn giữa hai quang sắc.
-- Này Udayi, Ông nghĩ thế nào? Con sâu đom đóm trong đêm đen tối
mù hay là ngọn đèn dầu trong đêm đen tối mù, giữa hai quang sắc này, quang sắc
nào vi diệu hơn và thù thắng hơn?
-- Bạch Thế Tôn, ngọn đèn dầu trong đêm đen tối mù, quang sắc
(ngọn đèn dầu) này vi diệu hơn và thù thắng hơn giữa hai quang sắc.
-- Này Udayi, Ông nghĩ thế nào? Ngọn đèn dầu trong đêm đen tối mù,
hay là một đống lửa lớn trong đêm đen tối mù, giữa hai quang sắc này, quang sắc
nào vi diệu hơn và thù thắng hơn?
-- Bạch Thế Tôn, đống lửa lớn trong đêm đen tối mù, quang sắc này
vi diệu hơn và thù thắng hơn giữa hai quang sắc.
-- Này Udayi, Ông nghĩ thế nào? Ðống lửa lớn trong đêm đen tối mù,
hay ngôi sao mai trong một bầu trời trong sáng không mây vào lúc bình minh,
giữa hai quang sắc này, quang sắc nào vi diệu hơn và thù thắng hơn?
-- Bạch Thế Tôn, ngôi sao mai trong một bầu trời trong sáng không
mây vào lúc bình minh, quang sắc này vi diệu hơn và thù thắng hơn giữa hai
quang sắc.
-- Này Udayi, Ông nghĩ thế nào? Ngôi (sao Thái Bạch) sao mai trong
bầu trời trong sáng không mây, trong lúc bình minh, hay là mặt trăng trong khi
đứng bóng, trong một bầu trời trong sáng không mây vào lúc nửa đêm, trong ngày
Uposatha (Bố-tát) vào ngày Rằm, giữa hai quang sắc này, quang sắc nào vi diệu
hơn và thù thắng hơn?
-- Bạch Thế Tôn, mặt trăng trong khi đứng bóng, trong một bầu trời
quang đãng không mây, vào lúc nửa đêm, trong ngày Uposatha (Bố tát) vào ngày
Rằm, quang sắc này vi diệu hơn và thù thắng hơn giữa hai quang sắc.
-- Này Udayi, Ông nghĩ thế nào? Mặt trăng trong khi đứng bóng,
trong một bầu trời quang đãng không mây, vào lúc nửa đêm, trong ngày Uposatha
(Bố-tát) vào ngày Rằm, hay là mặt trời trong lúc đứng bóng, trong một bầu trời
quang đãng, không mây, vào lúc giữa trưa, trong tháng cuối mùa mưa về mùa thu,
giữa hai quang sắc này, quang sắc nào vi diệu hơn và thù thắng hơn?
-- Bạch Thế Tôn, mặt trời trong lúc đứng bóng, trong một bầu trời
quang đãng không mây, vào lúc giữa trưa, trong tháng cuối mùa mưa về mùa thu, quang
sắc này vi diệu hơn và thù thắng hơn.
-- Này Udayi, hơn tất cả những quang sắc ấy có nhiều, rất nhiều
chư Thiên, mà ánh sáng của những mặt trăng mặt trời này không thể chiếu sáng.
Ta biết những chư Thiên ấy. Và Ta không nói: "Không có một quang sắc nào
khác vi diệu hơn và thù thắng hơn quang sắc ấy. Còn Ông, này Udayi, Ông lại
nói: "Quang sắc này, thấp kém hơn, yếu đuối hơn quang sắc con sâu đom đóm,
quang sắc ấy là tối thắng". Và Ông không chỉ rõ quang sắc ấy.
-- Thế Tôn đã cắt đứt câu chuyện. Thiện Thệ đã cắt đứt câu chuyện.
-- Này Udayi, sao Ông lại nói: "Thế Tôn đã cắt đứt câu
chuyện. Thiện thệ đã cắt đứt câu chuyện"?
-- Bạch Thế Tôn, các vị Ðạo sư của chúng con dạy như sau:
"Quang sắc này là tối thượng, quang sắc này là tối thượng". Nhưng
bạch Thế Tôn, các bậc Ðạo sư của chúng con khi bị Thế Tôn đối nạn, cật nạn, vấn
nạn, (tự tỏ là) trống không, hư vọng, thất bại.
Theo Sớ giải thì quan điểm của ngoại giáo kể trên y cứ vào những
lời kể về thế giới phạm thiên có hào quang vô lượng nhưng phần lớn những người
được nghe sau nầy không có thiền chứng để thấy biết thật sự.
893. Đức Phật đã dạy gì về
con đường ly khổ đắc lạc?
Ngài đã hỏi Sakuludāyi đã
học hiểu thế nào về hành trình dẫn đến hạnh phúc hoàn toàn:
-- Nhưng này Udayi, có một thế giới nhứt hướng lạc không? Có đạo
lộ hợp lý nào đưa đến chứng đắc thế giới nhứt hướng lạc?
-- Bạch Thế Tôn, các bậc Ðạo sư của chúng con có dạy như sau:
"Có một thế giới nhứt hướng lạc. Có đạo lộ hợp lý đưa đến chứng đắc thế
giới nhứt hướng lạc".
-- Này Udayi, đạo lộ hợp lý đưa đến chứng đắc thế giới nhứt hướng
lạc là gì?
-- Ở đây, bạch Thế Tôn, có người đoạn trừ sát sanh, từ bỏ sát
sanh, đoạn trừ lấy của không cho, từ bỏ lấy của không cho, đoạn trừ tà dâm, từ
bỏ tà dâm, đoạn trừ nói láo, từ bỏ nói láo, hay sống sau khi thọ trì một loại
khổ hạnh. Bạch Thế Tôn, đó là đạo lộ hợp lý đưa đến chứng đắc thế giới nhứt
hướng lạc.
-- Này Udayi, Ông nghĩ thế nào? Trong khi đoạn trừ sát sanh, từ bỏ
sát sanh, trong khi ấy tự ngã là nhứt hướng lạc hay cả lạc cả khổ?
-- Bạch Thế Tôn, cả lạc cả khổ.
-- Này Udayi, Ông nghĩ thế nào? Trong khi đoạn trừ lấy của không
cho, từ bỏ lấy của không cho, trong khi ấy, tự ngã là nhứt hướng lạc hay cả lạc
cả khổ?
-- Bạch Thế Tôn, cả lạc cả khổ.
-- Này Udayi, Ông nghĩ thế nào? Trong khi đoạn trừ tà dâm, từ bỏ
tà dâm, trong khi ấy tự ngã là nhứt hướng lạc, hay cả lạc cả khổ?
-- Bạch Thế Tôn, cả lạc cả khổ.
-- Này Udayi, Ông nghĩ thế nào? Trong khi đoạn trừ nói láo, từ bỏ
nói láo, trong khi ấy tự ngã là nhứt hướng lạc, hay cả lạc cả khổ?
-- Bạch Thế Tôn, cả lạc cả khổ.
-- Này Udayi, Ông nghĩ thế nào? Trong khi sống thọ trì một loại
khổ hạnh, trong khi ấy tự ngã là nhứt hướng lạc, hay cả lạc cả khổ?
-- Bạch Thế Tôn, cả lạc cả khổ.
-- Này Udayi, Ông nghĩ thế nào? Như vậy đạo lộ để chứng đắc một
thế giới nhứt hướng lạc, đạo lộ ấy cả lạc cả khổ xen lẫn?
-- Thế Tôn đã cắt đứt câu chuyện, Thiện Thệ đã cắt đứt câu chuyện.
-- Này Udayi, sao Ông lại nói như vầy: "Thế Tôn đã cắt đứt
câu chuyện, Thiện Thệ đã cắt đứt câu chuyện"?
-- Bạch Thế Tôn, các bậc Ðạo sư của chúng con có dạy như sau:
"Có một thế giới nhứt hướng lạc, có một đạo lộ hợp lý để chứng đắc thế
giới nhứt hướng lạc". Nhưng các bậc Ðạo sư của chúng con khi bị Thế Tôn
đối nạn, cật nạn, vấn nạn, (tự tỏ là) trống không, hư vọng, thất bại.
894. Đức Phật đã nói gì về con đường dẫn đến an lạc tuyệt đới do
Ngài truyền dạy:
Sakuludàyi đã hỏi ngược lại về con đường hạnh phúc theo lời Phật
dạy:
Nhưng bạch Thế Tôn, có một thế giới nhứt hướng lạc không? Có một
đạo lộ hợp lý đưa đến chứng đắc một thế giới nhứt hướng lạc không?
-- Này Udayi, có một thế giới nhứt hướng lạc; có một đạo lộ hợp lý
đưa đến chứng đắc thế giới nhứt hướng lạc.
-- Bạch Thế Tôn, thế nào là đạo lộ hợp lý ấy đưa đến chứng đắc thế
giới nhứt hướng lạc?
-- Ở đây, này Udayi, vị Tỷ-kheo ly dục... chứng đắc và trú Thiền
thứ nhất; sau khi diệt tầm và tứ... chứng đắc và trú Thiền thứ hai... chứng đắc
và trú Thiền thứ ba. Như vậy, này Udayi, là đạo lộ hợp lý đưa đến chứng đắc thế
giới nhứt hướng lạc.
-- Bạch Thế Tôn, đạo lộ ấy không phải là đạo lộ đưa đến chứng đắc
thế giới nhứt hướng lạc. Chứng đắc như vậy, bạch Thế Tôn (phải chăng) là thế
giới nhứt hướng lạc?
-- Này Udayi, chứng đắc như vậy chưa phải là thế giới nhứt hướng
lạc. Ðạo lộ ấy chỉ là đạo lộ hợp lý đưa đến chứng đắc thế giới nhứt hướng lạc.
Khi được nói vậy, hội chúng của du sĩ Sakuludayi lớn tiếng, cao
tiếng, to tiếng như sau:
-- Ở đây, chúng tôi đã được nghe từ các vị Ðạo sư. Ở đây, chúng
tôi đã được nghe từ các vị Ðạo sư. Chúng tôi không được biết gì hơn như vậy
nữa.
Rồi du sĩ Sakuludayi sau khi làm cho các vị du sĩ ấy lặng tiếng
xuống, liền bạch Thế Tôn:
-- Phải đến mức như thế nào, mới là chứng đắc thế giới nhứt hướng
lạc?
-- Ở đây, này Udayi, Tỷ-kheo đoạn trừ lạc... chứng đạt và an trú
Thiền thứ tư; có bao nhiêu chư Thiên được sanh vào thế giới nhứt hướng lạc,
Tỷ-kheo cùng đứng với các chư Thiên ấy, cùng nói chuyện, cùng đàm luận. Cho đến
mức độ như vậy, này Udayi, mới là chứng đắc thế giới nhứt hướng lạc.
-- Bạch Thế Tôn, có phải chỉ vì nhân duyên chứng đắc thế giới nhứt
hướng lạc mà các Tỷ-kheo sống Phạm hạnh dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn?
-- Này Udayi, không phải chỉ vì nhân duyên chứng đắc thế giới nhứt
hướng lạc mà các Tỷ-kheo sống Phạm hạnh dưới sự chỉ dẫn của Ta. Này Udayi, có
những pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn. Vì nhơn duyên chứng đắc các pháp
ấy, các Tỷ-kheo sống Phạm hạnh dưới sự chỉ dẫn của Ta.
-- Bạch Thế Tôn, thế nào là những pháp cao thượng hơn, thù thắng
hơn, vì nhơn duyên chứng đắc các pháp ấy, các Tỷ-kheo sống Phạm hạnh dưới sự
chỉ dẫn của Thế Tôn?
-- Ở đây, này Udayi, Như Lai xuất hiện ở đời là bậc A-la-hán,
Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự
Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Như Lai sau khi riêng tự chứng ngộ với
thượng trí, thế giới này là Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, gồm cả thế
giới này với Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Nhơn, lại tuyên bố điều Ngài đã chứng
ngộ. Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, đầy đủ văn nghĩa, Ngài
truyền dạy Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh.
Người gia trưởng hay con người gia trưởng, hay một người sanh ở
giai cấp (hạ tiện) nghe pháp ấy, sau khi nghe pháp, người ấy sanh lòng tín
ngưỡng Như Lai. Khi có lòng tín ngưỡng ấy, người ấy suy nghĩ: "Ðời sống
gia đình đầy những triền phược, con đường đầy những bụi đời. Ðời sống xuất gia
phóng khoáng như hư không. Thật không dễ gì cho một người sống ở gia đình có
thể sống theo Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như
vỏ ốc. Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống
không gia đình". Một thời gian sau, người ấy bỏ tài sản nhỏ, hay bỏ tài
sản lớn, bỏ bà con quyến thuộc nhỏ, hay bỏ bà con quyến thuộc lớn, cạo bỏ râu
tóc, đắp áo cà-sa, và xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Vị ấy xuất gia như vậy, hành trì các học giới và hạnh sống các
Tỷ-kheo, từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết xấu hổ, sợ
hãi, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu
tình. Vị ấy từ bỏ lấy của không cho, tránh xa lấy của không cho, chỉ mong những
vật đã cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp. Vị ấy từ bỏ đời sống không
Phạm hạnh, sống theo Phạm hạnh, sống đời sống viễn ly, tránh xa dâm dục hạ
liệt.
Vị ấy từ bỏ nói láo, nói những lời chân thật, liên hệ đến sự thật,
chắc chắn, đáng tin cậy, không lường gạt đời. Vị ấy từ bỏ nói hai lưỡi, tránh
xa nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, không đến chỗ kia nói để sanh chia rẽ
ở những người này; nghe điều gì ở chỗ kia, không đi nói với những người này để
sanh chuyện chia rẽ ở những người kia. Như vậy, vị ấy sống hòa hợp những kẻ ly
gián, khuyến khích những kẻ hòa hợp, hoan hỷ trong hòa hợp, thích thú trong hòa
hợp, hân hoan trong hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp. Vị ấy từ bỏ nói độc
ác, tránh xa lời nói độc ác, nói những lời nói dịu hiền, đẹp tai, dễ thương,
thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người; vị ấy nói những lời nói như
vậy. Vị ấy từ bỏ lời nói phù phiếm, tránh xa lời nói phù phiếm, nói đúng thời,
nói chân thật, nói có ý nghĩa, nói pháp, nói luật, nói những lời đáng được gìn
giữ, những lời hợp thời, hợp lý có mạch lạc hệ thống, có ích lợi.
Vị ấy từ bỏ không làm hại đến các hạt giống và các loại cây cỏ,
dùng một ngày một bữa, không ăn ban đêm; từ bỏ các món ăn phi thời; từ bỏ không
đi xem múa, hát, nhạc, các cuộc trình diễn; từ bỏ không dùng vòng hoa, hương
liệu, dầu thoa, trang sức, và các thời trang; từ bỏ không dùng giường cao và
giường lớn; từ bỏ không nhận vàng và bạc; từ bỏ không nhận các hạt sống; từ bỏ
không nhận thịt sống, từ bỏ không nhận đàn bà con gái; từ bỏ không nhận nô tỳ
gái và trai; từ bỏ không nhận cừu và dê; từ bỏ không nhận gia cầm và heo; từ bỏ
không nhận voi, bò, ngựa và ngựa cái; từ bỏ không nhận ruộng nương đất đai; từ
bỏ không dùng người làm môi giới hoặc tự mình làm môi giới; từ bỏ không buôn
bán; từ bỏ các sự gian lận bằng cân, tiền bạc và đo lường; từ bỏ các tà hạnh
như hối lộ, gian trá, lừa đảo; từ bỏ không làm thương tổn, sát hại, câu thúc,
bức đoạt, trộm cắp, cướp phá.
Vị ấy sống biết đủ, bằng lòng với tấm y để che thân với đồ ăn khất
thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo (y và bình bát). Như con chim
bay đến chỗ nào cũng mang theo hai cánh, cũng vậy, Tỷ-kheo bằng lòng với tấm y
để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo.
Vị ấy thành tựu Thánh giới uẩn này, nội tâm hưởng lạc thọ không khuyết phạm.
Khi mắt thấy sắc, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ
tướng riêng. Những nguyên nhân gì, vì con mắt không được chế ngự, khiến tham
ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, vị ấy tự chế ngự các nguyên nhân
ấy, hộ trì con mắt, thực hành sự hộ trì con mắt. Khi tai nghe tiếng... mũi ngửi
hương... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc... ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm
giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng, những nguyên nhân gì, vì ý căn
không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, vị ấy
chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn. Vị ấy thành
tựu Thánh hộ trì các căn này nội tâm hưởng lạc thọ không uế nhiễm.
Vị ấy khi đi tới, khi đi lui đều tỉnh giác; khi nhìn thẳng, khi
nhìn quanh đều tỉnh giác; khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác; khi mang y
kép, bình bát, thượng y đều tỉnh giác; khi ăn, uống, nhai, nuốt đều tỉnh giác;
khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác; khi đi, đứng, ngồi, nằm, thức, nói,
yên lặng đều tỉnh giác.
Vị ấy thành tựu Thánh giới uẩn này, thành tựu Thánh hộ trì các căn
này, thành tựu Thánh chánh niệm tỉnh giác này, lựa một trú xứ thanh vắng, như
khu rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây ngoài trời, đống rơm.
Sau khi ăn xong và đi khất thực trở về, vị ấy ngồi kiết-già, lưng
thẳng tại chỗ nói trên, và an trú chánh niệm trước mặt. Vị ấy từ bỏ dục tham ở
đời, sống với tâm thoát ly dục tham, gột rửa tâm hết dục tham. Từ bỏ sân hận, vị
ấy sống với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng sanh hữu
tình, gột rửa tâm hết sân hận. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, vị ấy sống thoát ly
hôn trầm thụy miên, với tâm tưởng hướng về ánh sáng chánh niệm tỉnh giác, gột
rửa tâm hết hôn trầm thụy miên. Từ bỏ trạo cử, hối quá, vị ấy sống không trạo
cử, nội tâm trầm lặng, gột rửa tâm hết trạo cử, hối quá. Từ bỏ nghi ngờ, vị ấy
sống thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối
với thiện pháp.
Vị ấy sau khi từ bỏ năm triền cái này, các pháp làm tâm cấu uế,
làm trí tuệ trở thành yếu ớt, vị ấy ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú
Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do dục sanh, với tầm với tứ. Ðây là pháp,
này Udayi, cao thượng hơn và thù thắng hơn, do nhân duyên chứng đắc pháp này mà
Tỷ-kheo sống Phạm hạnh dưới sự chỉ dẫn của Ta.
Lại nữa, này Udayi, vị ấy diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ
hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm.
Ðây là pháp, này Udayi, cao thượng hơn và thù thắng hơn, do nhân duyên chứng
đắc pháp này mà Tỷ-kheo sống Phạm hạnh dưới sự chỉ dẫn của Ta
Lại nữa, này Udayi, vị ấy ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân
cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú Thiền
thứ ba. Ðây là pháp, này Udayi, cao thượng hơn và thù thắng hơn, do nhân duyên
chứng đắc pháp này mà Tỷ-kheo sống Phạm hạnh dưới sự chỉ dẫn của Ta.
Lại nữa, này Udayi, vị ấy xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ
trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Ðây
là pháp, này Udayi, cao thượng hơn và thù thắng hơn, do nhân duyên chứng đắc
pháp này mà Tỷ-kheo sống Phạm hạnh dưới sự chỉ dẫn của Ta.
Với tâm định tĩnh, thanh tịnh, trong sáng không cấu uế, với các
phiền não được đoạn trừ, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc, bất động như vậy,
vị ấy hướng tâm đến túc mạng trí. Vị ấy nhớ nhiều đời ở quá khứ, như một đời,
hai đời... nhớ đến nhiều đời sống ở quá khứ, với các nét đại cương và các chi
tiết. Ðây là pháp, này Udayi, cao thượng hơn và thù thắng hơn, do nhơn duyên
chứng đắc pháp ấy, Tỷ-kheo sống Phạm hạnh dưới sự chỉ dẫn của Ta.
Với tâm định tĩnh, thanh tịnh, trong sáng, không cấu uế, với các
phiền não được đoạn trừ, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc, bất động như vậy,
vị ấy hướng tâm đến sanh tử trí của chúng sanh. Vị ấy với thiên nhãn thanh
tịnh, siêu nhân, thấy rõ sự sống và chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng
chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ
bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. Ðây là pháp, này Udayi, cao thượng hơn và
thù thắng hơn, do nhơn duyên chứng đắc pháp này, vị Tỷ-kheo sống Phạm hạnh dưới
sự chỉ dẫn của Ta.
Với tâm định tĩnh, thanh tịnh, trong sáng, không cấu uế, với các
phiền não được đoạn trừ, dễ sử dụng, nhu nhuyến, vững chắc, bất động như vậy,
vị Tỷ-kheo hướng tâm đến lậu tận trí. Vị ấy như thật biết: "Ðây là
Khổ"... "Ðây là Khổ tập"... "Ðây là Khổ diệt"...
"Ðây là con Ðường đưa đến khổ diệt". Vị ấy như thật biết: "Ðâu
là những lậu hoặc"... "Ðây là nguyên nhân của lậu hoặc"... "Ðây
là sự diệt trừ các lậu hoặc". Vị ấy như thật biết: "Ðây là con đường
đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc".
Nhờ hiểu biết như vậy, thấy như vậy, tâm vị ấy thoát khỏi dục lậu,
thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Ðối với tự thân được giải thoát như
vậy, vị ấy khởi lên sự hiểu biết: "Ta đã giải thoát". Vị ấy biết:
"Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại
không có đời sống nào khác nữa". Ðây là pháp, này Udayi, cao thượng hơn,
thù thắng hơn, do nhân duyên chứng đắc pháp này, các Tỷ-kheo sống Phạm hạnh
dưới sự chỉ dẫn của Ta.
Ðây là những pháp, này Udayi, cao thượng hơn, thù thắng hơn, do
nhơn duyên chứng đắc những pháp này, các Tỷ-kheo sống Phạm hạnh dưới sự chỉ dẫn
của Ta.
895. Sau khi nghe Đức Phật trình bày Sakuludàyi đã có thái độ thế
nào?
Vị nẩy rất phát tâm quy ngưỡng và xin xuất gia theo Phật nhưng kết
cuộc khá bất ngờ:
Khi nghe nói vậy, du sĩ Sakuludayi bạch Thế Tôn:
-- Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế
Tôn! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì
bị che kín, chỉ đường cho những người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng
tối để những ai có mắt có thể thấy sắc; cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn
dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích. Con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp
và quy y Tỷ-kheo Tăng. Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn cho con xuất gia, dưới sự chỉ
dẫn Thế Tôn, mong Thế Tôn cho con thọ đại giới.
Khi được nghe nói vậy, chúng du sĩ của Sakuludayi nói với du sĩ
Sakuludayi:
-- Tôn giả Udayi, chớ có sống Phạm hạnh dưới sự chỉ dẫn của Sa-môn
Gotama. Tôn giả Udayi, đã là bậc Ðạo sư, nay chớ có sống làm đệ tử. Như một ghè
nước tốt, nay bị thủng lỗ bị chảy nước; hành động của Tôn giả Udayi cũng sẽ như
vậy. Tôn giả Udayi, chớ có sống Phạm hạnh dưới sự chỉ dẫn của Sa-môn Gotama!
Tôn giả Udayi đã là bậc Ðạo sư, nay chớ có sống làm đệ tử.
Như vậy, chính chúng du sĩ của Sakuludayi đã làm một chướng ngại
pháp cho du sĩ Sakuludayi sống Phạm hạnh dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn.
Theo Sớ giải thì do tiền kiếp Sakuludàyi là một tý
kheo trong thời giáo Pháp của Đức Phật Kassapa vì muốn có được y, bát của một pháp
lữ đồng phạm hạnh đã tìm cách thuyết phục vị nầy hoàn tục nên đời nầy quả báo
thành chướng duyên không xuất gia được với Đức Phật hiện tại. Tuy nhiên do từ
tâm của Đức Phật với những gì Ngài đã giảng dạy nên sau nầy dưới thời vua Asoka
du sĩ Sakuludàyi sanh ra được xuất gia có tên là Assaputta chứng quả A la hán
và được biết là một bậc thánh luôn thể hiện là từ mẫn rộng lớn.
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 2. Khiển trách một bạn đồng tu về lầm lỗi nào đó khiến vị nầy khổ sở không tu tập được thì có thể gọi là tạo nghiệp bất thiện? - ĐĐ Pháp Tín
Thảo luận 3. Phải chăng có những vị đã đủ phước báu ba la mật để giác ngộ giải thoát nhưng vẫn còn bị nghiệp quả khác ngăn ngại? - TT Tuệ Siêu
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment