TU TẬP THỜI ĐẠI DỊCH
Pháp thoại
Trích từ ÐỨC PHẬT ÐÃ DẠY NHỮNG GÌ
Hòa thượng WALPOLA RAHULA
Thích Nữ Trí Hải dịch (1998)
Những
người nghĩ rằng Phật giáo chỉ quan tâm đến những lý tưởng cao siêu,
tư tưởng triết lý và đạo đức siêu phàm, không kể gì đến phúc lợi xã hội và kinh
tế của con người, là sai lầm. Ðức Phật rất quan tâm đến hạnh phúc của con
người. Ðối với Ngài, không thể có hạnh phúc nếu không sống một đời trong sạch,
dựa trên những nguyên tắc đạo đức và tâm linh. Nhưng Ngài biết rằng sống một
đời như vậy rất khó trong những điều kiện xã hội và vật chất không thuận lợi.
Phật giáo không
xem hạnh phúc vật chất tự nó là cứu cánh: nó chỉ là một phương tiện để đạt đến
một cứu cánh cao quý hơn. Nhưng đấy là một phương tiện rất cần thiết để hoàn
thành một mục đích cao hơn cho hạnh phúc nhân loại. Bởi thế Phật giáo công
nhận vài điều kiện vật chất tối thiểu là cần thiết để tu tập có kết quả - ngay
cả đối với một thầy tu thiền định trong một nơi cô tịch[8].
Ðức Phật
không xét đời sống tách biệt với bối cảnh kinh tế và xã hội. Ngài nhìn đời toàn
diện, trong tất cả mọi phương diện xã hội, kinh tế và chính trị của nó. Những
lời dạy của Ngài về những vấn đề đạo đức, triết lý và tâm linh đã được khá
nhiều người biết đến. Nhưng người ta biết rất ít về giáo lý của Ngài trong
những vấn đề xã hội, kinh tế và chính trị. Tuy vậy có rất nhiều bài giảng của
Ngài bàn về những vấn đề ấy rải rác khắp các bản kinh cổ xưa của Phật giáo. Ta
hãy lấy một vài thí dụ:
Kinh Chuyển
luân sư tử hống (Cakkavattisìhanàdasutta, Trường Bộ kinh 26) nói
rõ rằng sự nghèo khó (dàliddiya) là nguyên nhân của vô đạo và tội ác như
trộm cắp, tà vạy, bạo động, thù hằn, độc ác v.v.. Những vị vua chúa ngày xưa,
cũng như các chính phủ ngày nay, cố đàn áp tội lỗi bằng hình phạt. Kinh
Kùtadantasutta cùng thuộc bộ ấy giải thích sự vô ích của hình phạt, nói rằng
phương pháp ấy sẽ không bao giờ thành công. Thay vì vậy, đức Phật đề nghị muốn
diệt tận gốc tội lỗi, cần phải cải thiện điều kiện kinh tế của con người, cần
phải cung cấp cho tá điền và nông phu hạt giống và phương tiện trồng trọt, vốn
phải được cung cấp cho những thương gia và người buôn bán; lương hướng thích
đáng phải được trả cho những người làm công. Khi mọi người đều được cung cấp cơ
hội để kiếm được lợi tức đầy đủ họ sẽ bằng lòng, không sợ hãi lo âu, và do đó
xứ sở sẽ thanh bình, không có các tội lỗi [9].
Bởi vậy đức
Phật thường dạy những cư sĩ tại gia tầm quan trọng của sự cải thiện hoàn cảnh
kinh tế. Ðiều này không có nghĩa Ngài tán đồng sự tích trữ tài sản với sự tham
lam ràng buộc, vì nó trái ngược với giáo lý Ngài, cũng không phải Ngài tán đồng
bất cứ phương tiện sinh nhai nào. Có vài nghề thương mại như sản xuất và mua
bán khí giới bị Ngài cấm chỉ, xem như những phương tiện sinh nhai bất chánh như
ta đã thấy trước đây[10].
Một người
tên Dìghajànu một hôm đến viếng Phật và bảo: "Bạch Thế Tôn, chúng con là
những người thế tục tầm thường, sống đời gia đình, có vợ con. Xin đức Thế Tôn
chỉ dạy cho con vài lý thuyết để giúp chúng con được hạnh phúc trong đời này và
đời sau."
Ðức Phật
dạy ông ta rằng có bốn điều giúp cho hạnh phúc con người trong đời này:
- Thứ nhất là phải tài khéo, có hiệu năng, hăng
hái và có nghị lực trong bất cứ nghề nào mình làm, và phải tinh xảo trong nghề
nghiệp mình (utthànasampadà).
- Thứ hai là phải bảo vệ lợi tức mình đã kiếm
được một cách chân chánh, bằng mồ hôi trán (àrakka-sampadà); nghĩa
là bảo vệ tài sản cho khỏi bị trộm cắp v.v.. (Tất cả mọi ý tưởng này cần được
xét đến trong bối cảnh thời ấy).
- Thứ ba là phải giao du với bạn tốt (kalyànamitta)
trung thành, có trí thức, đức hạnh, phóng khoáng và thông minh, người sẽ giúp
mình đi theo chánh đạo, xa lánh đường tà.
- Thứ tư là phải tiêu dùng chừng mực, tùy theo
lợi tức, đừng tiêu quá nhiều cũng đừng quá ít, nghĩa là không nên bo bo tích
trữ tài sản, nhưng cũng không nên phung phí - nói cách khác phải sống trong
giới hạn những phương tiện mình có (samajì vikatà).
Rồi Phật
giảng bốn đức hạnh giúp cho một người thế tục được hạnh phúc đời sau:
1. Tín (saddhà): phải tin tưởng vào
những giá trị đạo đức, tinh thần, và tâm linh.
2. Giới (sìla): phải chừa bỏ sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối và
uống rượu.
3. Thí (càga): phải thực hành lòng trắc ẩn, bố thí, không bám víu,
ôm giữ tài sản mình.
Ðôi khi
Phật còn đi vào những chi tiết về cách để dành tiền bạc và tiêu dùng, chẳng hạn
như khi Ngài bảo thanh niên Sigàla rằng anh ta nên dùng 1/4 lợi tức vào sự tiêu
pha hàng ngày, 1/2 lợi tức để đầu tư vào việc kinh doanh và để riêng 1/4 phòng
khi nguy cấp[12].
Một hôm
Phật bảo Cấp cô độc (Anàthapindika), một thương gia danh tiếng, một
trong những đệ tử tại gia thuần thành nhất của Ngài, đã lập cho Ngài tu viện Kỳ
đà (Jetavana) hữu danh ở Xá vệ (Sàvatthi), rằng một cư
sĩ sống đời thường nhật, có bốn thứ hạnh phúc:
1. Thụ hưởng sự bảo đảm về kinh tế hay tài sản
đầy đủ, kiếm được bằng những phương tiện chính đáng (sở hữu lạc,
atthisukkha).
2. Tiêu dùng tài sản ấy một cách rộng rãi cho
chính mình, cho gia đình, bà con, bè bạn và trong những việc công đức (thọ
dụng lạc, ananasukkha).
3. Không có nợ nần (vô trái lạc, anana-sukkha).
4. Sống một đời trong sạch, không phạm những
điều ác trong ý nghĩ, lời nói hay hành vi (vô tội lạc, anmajjasukkha).
Ở đây ta
phải chú ý rằng trong bốn yếu tố đem lại hạnh phúc, có đến ba thuộc về kinh tế,
và cuối cùng Phật còn nhắc cho thương gia ấy biết rằng hạnh phúc về kinh tế và
vật chất thì "không đáng một phần mười sáu" của hạnh phúc tâm hồn
phát sinh từ một đời sống không lỗi lầm và lương thiện[13].
Qua những
ví dụ kể trên, ta có thể thấy rằng đức Phật xem sự thoải mái về kinh tế là cần
thiết cho hạnh phúc con người, nhưng Ngài không công nhận sự tiến bộ là chân
thật nếu nó chỉ thuần vật chất, không có một nền tảng đạo đức và tâm linh.
Trong khi khuyến khích sự tiến bộ vật chất, Phật giáo luôn luôn
nhấn mạnh sự phát triển đạo đức và tâm linh để kiến tạo một xã hội hòa bình an
lạc.
Ðức Phật
cũng có những lời dạy minh bạch như thế về chính trị, chiến tranh, hòa bình.
Ðiều ai cũng biết, tưởng không cần nhắc lại, là đạo Phật chủ xướng Bất bạo
động, Hòa bình như thông điệp của mình cho tất cả thế giới, và không tán thành
bất cứ một sự bạo động hay sát hại sinh mạng nào. Theo Phật giáo không
gì có thể gọi là "chiến tranh chân chính", đó chỉ là một từ ngữ sai
lầm được đúc ra và lưu hành để biện minh cho hận thù, tàn ác, bạo động và chém
giết. Ai định ra cái gì là chân chánh hay không chân chánh? Người chiến thắng,
kẻ mạnh là "chánh", và kẻ chiến bại, yếu thế là "bất
chánh". Chiến tranh của chúng tôi thì luôn luôn chính
đáng, còn chiến tranh của các anh thì luôn luôn "bất
chánh". Phật giáo không chấp nhận lập trường ấy.
Ðức Phật
không những đã dạy Bất bạo động và Hòa bình, mà Ngài còn thân hành đi đến chiến
trường để can thiệp và ngăn cản chiến tranh, như trong trường hợp những người
dòng Thích ca (Sàkyas) và Câu lợi (Koliyas), sắp đánh nhau vì vấn đề tranh chấp
nước sông Rohini. Và những lời của Ngài đã từng ngăn được vua A xà thế (Ajàtasattu)
khỏi tấn công Vương quốc Bạt kỳ (Vajjis).
Vào thời
đức Phật, cũng như ngày nay, có những nhà cai trị xứ sở một cách bất công. Dân
chúng bị đàn áp, bóc lột, đánh đập, tù đày, sưu cao thuế nặng, và chịu những
hình phạt dã man. Ðức Phật rất động lòng trước những sự vô nhân đạo ấy. Kinh sớ
Pháp cú Dhammapadatthakathà chép rằng thuở ấy Phật rất chú tâm
đến vấn đề một nền cai trị tốt đẹp. Ta nên xét quan điểm của Ngài trong bối
cảnh xã hội, kinh tế và chính trị thời ấy. Ngài đã chứng minh rằng toàn thể một
xứ sở có thể trở thành đồi trụy, thối nát và bất hạnh nếu những người cầm đầu
việc cai trị - nghĩa là vua, các quan lại và những nhân viên hành chánh - đều
thối nát và bất công. Muốn cho dân một nước được sung sướng, cần phải có một
nền cai trị công bằng. Một nền cai trị công bằng có thể được thực hiện bằng
cách nào? Ðức Phật đã nói rõ trong bài thuyết pháp của Ngài về "10 nhiệm
vụ của nhà vua" (Thập vương pháp, Dasaràjadhamma) như
được thuật trong Jàtaka (chuyện tiền thân)[14].
Dĩ nhiên
danh từ "vua" (Ràja), ngày xưa phải được thay thế bằng danh từ
"chính phủ". "Mười nhiệm vụ của nhà vua" có thể áp dụng cho
tất cả những người trong chính phủ ngày nay, như quốc trưởng, bộ trưởng, lãnh
đạo chính trị, nhân viên hành chánh và tư pháp v.v..
- Nhiệm vụ thứ nhất trong "10 nhiệm vụ của
nhà vua" là sự rộng rãi, bố thí, bác ái (dàna). Người cai trị không
được có một thèm khát và bám víu nào đối với tài sản, tiền của, mà phải bố thí
cho dân được no ấm.
- Thứ hai, một đạo đức tốt đẹp (giới - sìla).
Vua phải không bao giờ sát hại, lừa bịp và bóc lột kẻ khác, tà dâm, nói lời sai
quấy, và rượu chè. Nghĩa là, ít nhất ông phải theo 5 giới của phật tử tại gia.
- Thứ ba, hy sinh tất cả vì hạnh phúc của dân (biến
xả, pariccàga), ông phải sẵn sàng từ bỏ mọi tiện nghi cá nhân
mình, tên tuổi danh vọng và ngay cả sự sống của mình vì lợi ích của dân.
- Thứ tư, trực hạnh (ajjava). Ông phải xa
lìa sự sợ hãi và thiên vị khi thi hành nhiệm vụ, phải thành thật trong ý định,
và không được lừa bịp quần chúng.
- Thứ năm, khổ hạnh (tapa). Ông phải sống
một đời giản dị, không được xa hoa. Ông phải biết chế ngự bản thân mình.
- Thứ sáu, nhu hòa (maddava). Ông
phải có một tính tình hòa nhã.
- Thứ bảy, không thù hận, ác độc (vô sân -
akkodha). Ông không được có tư thù với bất cứ ai.
- Thứ tám, bất hại (avihimsà) không những có
nghĩa là không được làm hại ai, mà còn có nghĩa ông phải cố tạo hòa bình bằng
cách tránh và ngăn ngừa chiến tranh, hay mọi sự dính dáng đến bạo động và sát
hại sinh mạng.
- Thứ chín, nhẫn nhục (khanti). Ông phải
có thể chịu đựng những khó khăn, khổ nhọc và những sự nhục mạ mà không mất bình
tĩnh.
- Thứ mười, không đối lập, không ngăn cản (avirodha),
nghĩa là ông không được đi ngược với ý chí của toàn dân, không được cản bất cứ
biện pháp nào đưa đến sự lợi lộc cho toàn dân. Nói cách khác ông phải cai trị
thuận với ý chí của dân[15].
Nếu một
nước được cai trị bởi một người có những đức tính ấy, thì dĩ nhiên nước ấy phải
rất hạnh phúc. Nhưng đấy không phải là một điều không tưởng, vì trong quá khứ
đã có những ông vua như A dục vương (Asoka) của Ấn Ðộ đã thiết lập các vương
quốc căn cứ trên những lý tưởng đó.
Thế giới
ngày nay luôn sống trong sợ hãi, nghi ngờ và căng thẳng. Khoa học đã sản xuất
những khí giới có năng lực phá hoại kinh hoàng. Tạo ra những dụng cụ mới của
chết chóc, các cường quốc hăm dọa, thách thức nhau, khoe khoang không hổ thẹn
rằng mình có thể gây nhiều phá hoại tang thương trong thế giới hơn cường quốc
khác.
Họ đã đi
quá xa trên con đường điên rồ ấy đến nỗi ngày nay họ chỉ cần bước thêm một
bước, kết quả sẽ không là gì ngoài ra sự hủy diệt lẫn nhau và hủy diệt toàn thể
loài người.
Vì hoảng
sợ trước một hoàn cảnh mà chính họ đã tạo ra, con người muốn tìm một lối thoát,
một giải pháp nào đó. Nhưng không có giải pháp nào ngoài giải pháp đức Phật đã
đề xướng - thông điệp của Ngài về Bất bạo và Hòa bình, về tình thương và từ bi,
về khoan hồng và thông cảm, về chân lý và trí tuệ, về sự tôn trọng đối với mọi
sự sống, về sự dứt bỏ ích kỷ, hận thù và bạo động.
Ðức Phật
dạy: "Hận thù không bao giờ dập tắt được hận thù, chỉ có tình thương mới
dập tắt được hận thù. Ðây là một sự thật muôn đời."[16]
"Người
ta nên lấy từ bi thắng lướt hận thù, lấy lòng tốt đối lại với sự xấu xa, lấy
bác ái đối lại lòng ích kỷ, và lấy sự chân thật đối lại xảo trá gian tà."[17]
Con người
không thể nào có hạnh phúc an vui khi còn khao khát ham muốn chinh phục và chế
ngự đồng loại. Phật dạy: "Kẻ chiến thắng nuôi hận thù, kẻ chiến bại ngã
gục trong đau khổ. Người nào từ khước cả thắng lẫn bại, sẽ được hạnh phúc an
vui."[18]
Chiến
thắng duy nhất đem lại hòa bình hạnh phúc là chiến thắng tự tâm. "Người ta
có thể chinh phục hàng triệu người trong trận chiến, nhưng chỉ có người nào tự
chinh phục được mình mới là người chiến thắng vinh quang nhất."[19]
Bạn sẽ
bảo rằng tất cả điều đó rất đẹp, rất cao cả đáng quý, nhưng không thực tiễn.
Thế thì có thực tiễn khi thù ghét nhau chăng? Khi giết nhau chăng? Khi sống mãi
trong hãi hùng và nghi kỵ như thú dữ trong rừng chăng? Ðiều này thực tiễn và
tiện nghi hơn chăng? Có bao giờ ác độc được điều phục bằng ác độc? Có bao giờ
hận thù được dập tắt bởi hận thù? Nhưng đã có những trường hợp, ít nhất những
trường hợp cá nhân, trong đó hận thù được thoa dịu bằng thương yêu và lòng tốt,
ác độc được chinh phục bằng thiện cảm. Bạn sẽ bảo điều này có thể có thật, có
thể thực hiện trong những trường hợp cá nhân, nhưng nó không bao giờ thực hiện
được trong những giao tiếp quốc gia và quốc tế. Con người quả đã bị thôi miên,
tâm lý bị rối ren mờ ám và bị lừa dối bởi những từ ngữ dùng để tuyên truyền
chính trị như "quốc gia", "quốc tế", "tổ quốc".
Tổ quốc là gì nếu không phải là một đoàn thể rộng lớn gồm nhiều cá nhân? Một
quốc gia hay tổ quốc không hành động, chính cá nhân mới hành động. Cái gì cá
nhân nghĩ và làm chính là cái mà quốc gia nghĩ và làm. Cái gì có thể áp dụng
cho cá nhân cũng có thể áp dụng cho quốc gia, xứ sở. Nếu trên bình diện cá
nhân, hận thù có thể dập tắt hận thù, thì trên bình diện quốc gia và quốc tế
chắc chắn điều này cũng có thể thực hiện. Ngay cả trong trường hợp một cá nhân
riêng rẽ muốn đối lại hận thù bằng yêu thương, người ta cũng cần phải có một
lòng can đảm siêu việt, một sự mạnh dạn, một lòng tin vô bờ đối với sức mạnh
tâm hồn. Có phải chăng ta còn cần nhiều cố gắng hơn thế nữa trong trường hợp
giao tiếp quốc tế? Nếu khi bảo rằng "không thực tế" ý bạn muốn nói
"không dễ dàng" thì là bạn nói đúng. Nhất định nó không dễ dàng. Tuy
nhiên ta cần cố thử. Bạn sẽ bảo sự cố gắng ấy hơi mạo hiểm. Nhưng chắc chắn là
nó không mạo hiểm hơn sự thử một chiến tranh nguyên tử.
Thật là
một an ủi cho chúng ta ngày nay khi nghĩ rằng ít nhất trong lịch sử cũng đã có
một vị vua cai trị lỗi lạc, đã có can đảm, đức tin và kiến giải đủ để áp dụng
lời dạy này của Phật về bất bạo động, hòa bình và yêu thương trong sự cai trị
một đế quốc rộng lớn về cả nội bộ lẫn ngoại giao - đó là A dục vương, vị hoàng
đế Phật tử của xứ Ấn (thế ký thứ III trước Tây lịch), "người con yêu quý
của các thần linh" như ông đã được mệnh danh.
Ban đầu
ông theo gương vua cha (Bindusàra) và ông nội (Chandragupta) muốn hoàn thành
việc chinh phục bán đảo Ấn; ông chiếm xứ Kalinga, sát nhập nó vào đế quốc mình.
Hàng nghìn người bị giết, bị thương, bị tra tấn và bắt làm tù binh trong trận
này. Nhưng về sau, khi trở thành một Phật tử, ông hoàn toàn thay đổi nhờ giáo
lý của Phật. Trong một tuyên ngôn danh tiếng của ông khắc trên đá (Trụ đá
XII, như ngày nay thường gọi) còn có thể đọc được ngày nay, nói đến sự
chinh phục Kalinga, Hoàng đế A dục đã công khai bày tỏ sự "sám hối"
của ông và nói ông "vô cùng đau đớn khi nghĩ về sự tàn sát ấy". Ông
tuyên bố công khai rằng ông sẽ không bao giờ rút gươm ra để làm một việc chinh
phục nào nữa, nhưng ông "mong mỏi tất cả mọi chúng sinh sống trong bất bạo
sẽ tự chủ, tập luyện sự an tĩnh và ôn hòa." Ðiều này dĩ nhiên Người
con yêu chuộng của các thần linh (A dục vương) xem là chiến thắng bằng chánh
pháp (dhammavijaya). Không những tự ông chối bỏ chiến tranh, mà ông
còn tỏ lòng mong muốn rằng "con ta và cháu ta đừng nghĩ về cuộc chinh phục
nào khác nữa xem như đáng làm... Chúng hãy chỉ nghĩ đến một sự chinh phục duy
nhất là chinh phục bằng Ðạo đức. Ðiều ấy lợi ích cho cả đời này và đời
sau".
Ðó là tấm
gương độc nhất trong lịch sử nhân loại về một người chiến thắng vinh quang đang
ở tột đỉnh của uy quyền, còn có sức mạnh để tiếp tục những cuộc chinh phục đất
đai, nhưng lại từ bỏ chiến tranh và bạo động mà trở về với hòa bình, bất bạo.
Ðấy là
một bài học cho thế giới ngày nay. Vị hoàng đế cai trị một đế quốc rộng lớn đã
công khai quay lưng lại với chiến tranh, bạo động và đón nhận thông điệp của
bất bạo và hòa bình. Không có bằng chứng lịch sử nào nói rằng có vua láng giềng
nào đã lợi dụng sự sùng đạo của vua A dục để tấn công ông về quân sự, hay có
một cuộc nổi loạn nào trong đế quốc ông lúc sinh thời. Trái lại hòa bình ngự
trị khắp trên lãnh thổ, và ngay cả những xứ bên ngoài vương quốc ông cũng dường
như đã chấp nhận sự lãnh đạo nhân từ của ông.
Thật điên
rồ khi nói đến việc duy trì hòa bình bằng cách làm quân bình các thế lực hay
bằng sự hăm dọa của vũ khí nguyên tử. Thế lực của binh bị chỉ có thể phát sinh
ra sợ hãi, chứ không phát sinh hòa bình. Trong sợ hãi không thể nào có hòa bình
lâu dài và thực sự. Từ sợ hãi chỉ có thể sinh ra thù hận, ác độc, có thể bị đè
nén một thời gian nhưng sẵn sàng bùng dậy và trở nên hung bạo bất cứ lúc nào.
Hòa bình chân thật chỉ có thể ngự trị trong một không khí của lòng thương (Mettà,
tâm từ), sự thân thiện, không có sợ hãi nghi ngờ và nguy hiểm.
Phật giáo nhằm
mục đích kiến tạo một xã hội ở đấy người ta từ bỏ sự tranh chấp thế lực rất tai
hại, ở đấy an tĩnh và hòa bình ngự trị, xa hẳn chiến thắng và chiến bại, ở đấy
sự áp bức người vô tội phải bị mạnh mẽ tố cáo, ở đấy một người tự thắng mình
được kính trọng hơn những người chiến thắng hàng triệu bằng chiến tranh quân sự
và kinh tế, ở đấy hận thù được chinh phục bằng yêu thương và sự ác độc bằng
thiện cảm, ở đấy thù hận, ganh ghét, ác độc và tham lam không nhiễm độc tâm trí
con người, ở đấy từ bi là nguyên động lực cho hành động, ở đấy tất cả, kể cả
những sinh vật nhỏ bé nhất, đều được đối xử với lòng yêu thương lân mẫn, ở đấy
cuộc sống bình an hòa điệu - trong thế giới đầy đủ về vật chất - được hướng về
mục đích cao quý nhất, sự thực chứng chân lý tối hậu, Niết-bàn.
Kinh tụng
Kinh Châu
Báu
Ratanasutta
Yānīdha
bhūtāni samāgatāni
Bhummāni vā yāniva antalikkhe
Sabbe va bhūtā sumanā bhavantu
Athopi sakkacca suṇantu bhāsitaṃ
Tasmā hi bhūtāni sāmetha sabbe
Mettaṃ karotha mānusiyā pajāya
Divā ca ratto ca haranti ye baliṃ
Tasmā hi ne rakkhatha appamattā
Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Mong khởi lòng hoan hỷ
Thành kính nghe lời nầy
Rồi với tâm bi mẫn
Năng hộ trì nhơn loại
Vốn đêm ngày hồi hướng
Phước lành đến chư thiên
Yaṅkiñci vittaṃ idha vā huraṃ vā
Saggesu vā yaṃ ratanaṃ paṇītaṃ
Na no samaṃ atthi tathāgatena
Idampi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
Etena saccena suvatthi hotu.
Những vật quí trong đời
Chốn nầy hay nơi khác
Cả châu báu cõi trời
Không gì sánh bằng được
Với Như Lai Thiện Thệ
Do vậy chính đức Phật
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Khayaṃ virāgaṃ amataṃ paṇītaṃ
yadajjhagā sakyamunī samāhito
Na tena dhammena samatthi kiñci
idaṃ pi dhamme ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Pháp bất tử tối thượng
Ly dục diệt phiền não
Phật Thích Ca Mâu Ni
Chứng pháp ấy trong thiền
Không gì sánh bằng được
Pháp thiền vi diệu ấy
Do vậy chính Chánh Pháp
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Yaṃ
buddhaseṭṭho parivaṇṇayī suciṃ
samādhimānantarikaññamāhu
samādhinā tena samo na vijjati
idaṃ pi dhamme ratanaṃ paṇītam
etena saccena suvatthi hotu
Con đường thanh lọc tâm
Là tu tập thiền định
Chứng hiện tại lạc trú
Ðức Phật hằng ngợi khen
Không gì so sánh được
Do vậy chính Chánh Pháp
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Ye puggalā
aṭṭhasataṃ pasaṭṭhā
cattāri etāni yugāni honti
te dakkhiṇeyyā sugatassa sāvakā
etesu dinnāni mahapphalāni
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Thánh tám vị bốn đôi
Là những bậc ứng cúng
Ðệ tử đấng Thiện Thệ
Ðược trí giả tán thán
Cúng dường đến các ngài
Hưởng vô lượng công đức
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Ye
suppayuttā manasā daḷhena
nikkāmino gotamasāsanamhi
te pattipattā amataṃ vigayha
laddhā mudhā nibbutiṃ bhuñjamānā
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Bậc tu hành thiểu dục
Với ý chí kiên trì
Khéo chơn chánh phụng hành
Lời dạy đức Ðiều Ngự
Chứng đạt quả giải thoát
Thể nhập đạo bất tử
Lạc trú quả tịch tịnh
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Yathindakhīlo
paṭhaviṃ sito siyā
catubbhi vātebhi asampakampiyo
tathūpamaṃ suppurisaṃ vadāmi
yo ariyasaccāni aveccapassati
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Ví như cột trụ đá
Khéo chôn chặt xuống đất
Dầu bốn hướng cuồng phong
Cũng không thể lay động
Ta nói bậc chân nhân
Liễu ngộ tứ thánh đế
Cũng tự tại bất động
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Ye ariyasaccāni
vibhāvayanti
gambhīrapaññena sudesitāni
kiñcāpi te honti bhusappamattā
na te bhavaṃ aṭṭhamamādiyanti
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Bậc thánh tu đà huờn
Chứng tri lý thánh đế
Ðược đức Gô Ta Ma
Khéo thuyết giảng tường tận
Các ngài dù phóng dật
Thì cũng không bao giờ
Tái sanh kiếp thứ tám
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Sahāvassa
dassanasampadāya
tayassu dhammā jahitā bhavanti
sakkāyadiṭṭhi vicikicchitañca
sīlabbataṃ vāpi yadatthi kiñci
catūhapāyehi ca vippamutto
cha cābhiṭṭhānāni abhabbo kātuṃ
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Nhờ chứng đạt chánh trí
Ðọan trừ ba kiết sử
Thân kiến và hoài nghi
Luôn cả giới cấm thủ
Thoát khỏi bốn đọa xứ
Bậc nhập lưu không tạo
Sáu bất thiện trọng nghiệp
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Kiñcāpi so
kammaṃ karoti
pāpakaṃ kāyena vācāyuda cetasā vā
abhabbo so tassa paṭicchadāya
abhabbatā diṭṭhapadassa vuttā
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇtītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Bậc thánh tu đà huờn
Dù vô tâm phạm lỗi
Bằng thân lời hay ý
Cũng không hề che dấu
Ðược xứng danh hiền thánh
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Vanappagumbe
yathā phussitagge
gimhānamāse paṭhamasmiṃ gimhe
tathūpamaṃ dhammavaraṃ adesayi
nibbānagāmiṃ paramaṃ hitāya
idaṃ pi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Ðức Thế Tôn thuyết giảng
Pháp đưa đến niết bàn
Tịnh lạc và thù thắng
Lợi ích chúng hữu tình
Ví như mưa đầu hạ
Khiến ngàn cây đâm chồi
Do vậy chính đức Phật
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
[phân đoạn 12]
Varo
varaññū varado varāharo
anuttaro dhammavaraṃ adesayi
Idaṃ pi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Ðức Phật bậc vô thượng
Liễu thông pháp vô thượng
Ban bố pháp vô thượng
Chuyển đạt pháp vô thượng
Tuyên thuyết pháp vô thượng
Do vậy chính đức Phật
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Varo, bậc tối thượng
varaññū, biết pháp tối thượng
varado, ban bố điều tối thượng
varāharo, mang lại sự tối thượng
anuttaro, vô thượng
Dhamma[ssa] + varaṁ, pháp tối thượng
adesayī, được Ngài thuyết giáo
Idaṁ pi, nầy
Buddhe, Đức Phật
ratanaṁ, châu báu
paṇītaṁ, tối thượng, thù thắng
etena, bởi (điều) nầy
saccena, lời chân thành, chân ngôn
suvatthi, sự tốt lành, bình an, cát tường
hotu, hãy có, hãy thành tựu
No comments:
Post a Comment