Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: ĐĐ Pháp Tín
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 27/3/2020
85. Kinh Vương tử Bồ-đề (Bodhirajàkumàra sutta)(tiếp theo)
918. Đức Bồ Tát trắc nghiệm khổ hạnh thế nào?
Ngài đã trãi nghiệm về giá trị của khổ hạnh - một thức khổ thọ cực
điểm - qua sự nhịn thở và nhịn ăn:
Này Vương tử, rồi Ta suy nghĩ: "Ta hãy nghiến răng, dán chặt
lên lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm!"
Này Vương tử, rồi Ta nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự
tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm. Khi Ta đang nghiến răng, dán chặt lưỡi lên
nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm, mồ hôi thoát ra từ
nơi nách của Ta. Này Vương tử, như một người lực sĩ nắm lấy đầu một người ốm
yếu hay nắm lấy vai, có thể chế ngự, nhiếp phục và đánh bại người ấy. Này Vương
tử, khi Ta đang nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm,
nhiếp phục tâm, đánh bại tâm, mồ hôi thoát ra từ nơi nách của Ta, này Vương tử,
dầu cho Ta có chí tâm tinh cần, tinh tấn, tận lực, dầu cho niệm được an trú
không dao động, nhưng thân của Ta vẫn bị khích động, không được khinh an, vì Ta
bị chi phối bởi sự tinh tấn do tinh tấn chống lại khổ thọ ấy.
Này Vương tử, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Ta hãy tu Thiền nín
thở". Và này Vương tử, rồi Ta nín thở vô, thở ra ngang qua miệng và ngang
qua mũi. Này Vương tử, khi Ta nín thở vô, thở ra ngang qua miệng và ngang qua
mũi, thì một tiếng gió động kinh khủng thổi lên, ngang qua lỗ tai. Này Vương
tử, ví như tiếng kinh khủng phát ra từ ống thổi bệ đang thổi của người thợ rèn.
Cũng vậy, này Vương tử, khi Ta nín thở vô, thở ra ngang qua miệng và ngang qua
mũi, thời một tiếng gió động kinh khủng thổi lên, ngang qua lỗ tai. Này Vương
tử, dầu cho Ta có chí tâm tinh cần, tinh tấn, tận lực, dầu cho niệm được an trú
không dao động, nhưng thân của Ta vẫn bị kích động, không được khinh an, vì Ta
bị chi phối bởi sự tinh tấn do tinh tấn chống lại khổ thọ ấy.
Này Vương tử, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Ta hãy tu thêm Thiền
nín thở". Và này Vương tử, rồi Ta nín thở vô, thở ra ngang qua miệng,
ngang qua mũi, và ngang qua tai. Này Vương tử, khi Ta nín thở vô thở ra ngang
qua miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai, thì có ngọn gió kinh khủng thổi lên
đau nhói trong đầu Ta. Này Vương tử, ví như một người lực sĩ chém đầu một người
khác với một thanh kiếm sắc, cũng vậy này Vương tử, khi ta nín thở vô, thở ra,
ngang qua miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai, thì có ngọn gió kinh khủng
thổi lên đau nhói trong đầu Ta. Này Vương tử, dầu cho Ta có chí tâm, tinh cần,
tinh tấn, tận lực, dầu cho niệm được an trú không dao động, nhưng thân của Ta
vẫn bị khích động, không được khinh an, vì Ta bị chi phối bởi sự tinh tấn, do
tinh tấn chống lại khổ thọ ấy.
Này Vương tử, rồi Ta suy nghĩ như sau : "Ta hãy tu thêm Thiền
nín thở". Và này Vương tử, rồi Ta nín thở vô, thở ra, ngang qua miệng,
ngang qua mũi và ngang qua tai, Ta cảm giác đau đầu, một cách kinh khủng. Này
Vương tử, ví như một người lực sĩ lấy một dây nịt bằng da cứng quấn tròn quanh
đầu rồi xiết mạnh; cũng vậy, này Vương tử, khi Ta nín thở vô, thở ra, ngang qua
miệng, ngang qua mũi, và ngang qua tai, Ta cảm giác đau đầu một cách kinh
khủng. Này Vương tử, dầu cho Ta có chí tâm, tinh cần, tinh tấn tận lực, dầu cho
niệm được an trú không dao động, nhưng thân của Ta vẫn bị khích động, không
được khinh an, vì Ta bị chi phối bởi sự tinh tấn do tinh tấn chống lại khổ thọ
ấy.
Này Vương tử, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Ta hãy tu thêm Thiền
nín thở". Và này Vương tử, rồi Ta nín thở vô, thở ra, ngang qua miệng,
ngang qua mũi và ngang qua tai. Này Vương tử, khi Ta nín thở vô, thở ra, ngang
qua miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai, một ngọn gió kinh khủng cắt ngang
bụng của Ta. Này Vương tử, ví như một người đồ tể thiện xảo hay đệ tử người đồ
tể cắt ngang bụng với một con dao cắt thịt bò sắc bén. Cũng vậy, này Vương tử,
khi Ta nín thở vô, thở ra, ngang qua miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai, một
ngọn kinh khủng cắt ngang bụng của Ta. Này Vương tử, dầu cho Ta có chí tâm,
tinh cần, tinh tấn, tận lực, dẫu cho niệm được an trú, không dao động nhưng
thân của Ta vẫn bị khích động, không được khinh an, vì Ta bị chi phối bởi sự
tinh tấn, do tinh tấn chống lại khổ thọ ấy.
Này Vương tử, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Ta hãy tu thêm Thiền
nín thở". Và này Vương tử, rồi Ta nín thở vô, thở ra, ngang qua miệng,
ngang qua mũi và ngang qua tai. Này Vương tử, khi Ta nín thở vô, thở ra, ngang
qua miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai, thì có một sức nóng kinh khủng khởi
lên trong thân Ta. Này Vương tử, ví như hai người lực sĩ sau khi nắm cánh tay
một người yếu hơn, nướng người ấy, đốt người ấy trên một hố than hừng. Cũng
vậy, này Vương tử, khi Ta nín thở vô, thở ra, ngang qua miệng, ngang qua mũi và
ngang qua tai thì có một sức nóng kinh khủng khởi lên trong thân Ta. Này Vương
tử, dầu cho Ta có chí tâm, tinh cần, tinh tấn, tận lực, dầu cho niệm được an
trú, không dao động, nhưng thân của Ta vẫn bị khích động, không được khinh an,
vì Ta bị chi phối bởi sự tinh tấn, do tinh tấn chống lại khổ thọ ấy.
Lại nữa, này Vương tử, chư Thiên thấy vậy nói như sau:
"Sa-môn Gotama đã chết rồi". Một số chư Thiên nói như sau:
"Sa-môn Gotama chưa chết, nhưng Sa-môn Gotama sắp sửa chết". Một số
chư Thiên nói như sau: "Sa-môn Gotama chưa chết. Sa-môn Gotama, cũng không
phải sắp chết. Sa-môn Gotama là bậc A-la-hán, đời sống của một A-la-hán là như
vậy".
Này Vương tử, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Ta hãy hoàn toàn
tuyệt thực". Rồi này Vương tử, chư Thiên đến Ta và nói như sau: "Này
Thiện hữu, Hiền giả chớ có hoàn toàn tuyệt thực. Này Thiện hữu, nếu Hiền giả có
hoàn toàn tuyệt thực, chúng tôi sẽ đổ các món ăn chư Thiên ngang qua các lỗ
chân lông cho Hiền giả, và nhờ vậy Hiền giả vẫn sống". Rồi này Vương tử,
Ta suy nghĩ như sau: "Nếu Ta hoàn toàn tuyệt thực và chư Thiên này đổ các
món ăn chư Thiên ngang qua các lỗ chân lông cho Ta và nhờ vậy Ta vẫn sống, thời
như vậy Ta tự dối Ta". Này Vương tử, Ta bác bỏ chư Thiên ấy và nói:
"Như vậy là đủ".
Này Vương tử, rồi Ta tự suy nghĩ như sau: "Ta hãy giảm thiểu
tối đa ăn uống, ăn ít từng giọt một, như xúp đậu xanh, xúp đậu đen hay xúp đậu
hột hay xúp đậu nhỏ". Và này Vương tử, trong khi Ta giảm thiểu tối đa sự
ăn uống, ăn từng giọt một, như xúp đậu xanh, xúp đậu đen hay xúp đậu hột hay
xúp đậu nhỏ, thân của Ta trở thành hết sức gầy yếu. Vì Ta ăn quá ít, tay chân
Ta trở thành như những gọng cỏ hay những đốt cây leo khô héo; vì Ta ăn quá ít,
bàn trôn của Ta trở thành như móng chân con lạc đà; vì Ta ăn quá ít, xương sống
phô bày của Ta giống như một chuỗi banh; vì Ta ăn quá ít, các xương sườn gầy
mòn của Ta giống như rui cột một nhà sàn hư nát; vì Ta ăn quá ít, nên con ngươi
long lanh của Ta nằm sâu thẳm trong lỗ con mắt, giống như ánh nước long lanh
nằm sâu thẳm trong một giếng nước thâm sâu; vì Ta ăn quá ít, da đầu Ta trở
thành nhăn nhiu khô cằn như trái bí trắng và đắng bị cắt trước khi chín, bị cơn
gió nóng làm cho nhăn nhíu khô cằn. Này Vương tử, nếu Ta nghĩ: "Ta hãy rờ
da bụng", thì chính xương sống bị Ta nắm lấy. Nếu Ta nghĩ: "Ta hãy rờ
xương sống", thì chính da bụng bị Ta nắm lấy. Vì Ta ăn quá ít, nên này
Vương tử, da bụng của Ta đến bám chặt xương sống. Này Vương tử, nếu Ta nghĩ:
"Ta đi đại tiện, hay đi tiểu tiện" thì Ta ngã qu? úp mặt xuống đất,
vì Ta ăn quá ít. Này Vương tử, nếu Ta muốn xoa dịu thân Ta, lấy tay xoa bóp
chân tay, thì này Vương tử, trong khi Ta xoa bóp chân tay, các lông tóc hư mục
rụng khỏi thân Ta, vì Ta ăn quá ít.
Lại nữa, này Vương tử, có người thấy vậy nói như sau: "Sa-môn
Gotama có da đen". Một số người nói như sau: "Sa-môn Gotama, da không
đen, Sa-môn Gotama có da màu xám". Một số người nói như sau: "Sa-môn
Gotama da không đen, da không xám." Một số người nói như sau: "Sa-môn
Gotama da không đen, da không xám, Sa-môn Gotama có da màu vàng sẫm". Cho
đến mức độ như vậy, này Vương tử, da của Ta vốn thanh tịnh, trong sáng bị hư
hoại, vì Ta ăn quá ít.
919. Ý nghĩ nào dẫn đến con
đường Trung đạo?
Khi nhận ra sự vô ích của khổ hạnh, bỗng nhiên Đức Bồ Tát nhớ lạ
kinh nghiệm khi còn tấm bé. Ngài đã thể nhập tam muội định tuy ở trạng thái sơ
thiền nhưng nhưng mở ra một cánh cửa của tâm giải thoát và tuệ giải thoát:
Này Vương tử, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Thuở xưa có những
Sa-môn hay Bà-la-môn thình lình cảm thọ những cảm giác chói đau, khổ đau, kịch
liệt, khốc liệt. Những sự đau khổ này là tối thượng, không thể có gì hơn nữa.
Về tương lai, có những Sa-môn hay Bà-la-môn thình lình cảm thọ những cảm giác
chói đau, khổ đau, kịch liệt, khốc liệt. Những sự đau khổ này là tối thượng
không thể có gì hơn nữa. Trong hiện tại, có những Sa-môn hay Bà-la-môn thình
lình cảm thọ những cảm giác chói đau, khổ đau, kịch liệt, khốc liệt. Những sự
đau khổ này là tối thượng, không thể có gì hơn nữa. Nhưng Ta, với sự khổ hạnh
khốc liệt như thế này, vẫn không chứng được pháp thượng nhân, tri kiến thù
thắng xứng đáng bậc Thánh. Hay là có đạo lộ nào khác đưa đến giác ngộ?"
Này Vương tử, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Ta biết, trong khi
phụ thân Ta, thuộc giòng Sakka (Thích-ca) đang cày và Ta đang ngồi dưới bóng
mát cây diêm-phù (jambu), Ta ly dục, ly pháp bất thiện chứng và trú Thiền thứ
nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ". Khi an trú như
vậy, Ta nghĩ: "Ðạo lộ này có thể đưa đến giác ngộ chăng?" Và này
Vương tử, tiếp theo ý niệm ấy, ý thức này khởi lên nơi Ta: "Ðây là đạo lộ
đưa đến giác ngộ".
Này Vương tử, rồi Ta suy nghĩ: "Ta có sợ chăng lạc thọ này,
một lạc thọ ly dục, ly pháp bất thiện?" Này Vương tử, rồi Ta suy nghĩ:
"Ta không sợ lạc thọ này, một lạc thọ ly dục, ly pháp bất thiện".'
Rồi này Vương tử, Ta suy nghĩ: "Nay thật không dễ gì chứng
đạt lạc thọ ấy, với thân thể ốm yếu kinh khủng như thế này. Ta hãy ăn thô thực,
ăn cơm chua". Rồi này Vương tử, Ta ăn thô thực, ăn cơm chua. Này Vương tử,
lúc bấy giờ, năm Tỷ-kheo đang hầu hạ Ta suy nghĩ: "Khi nào Sa-môn Gotama
chứng pháp, vị ấy sẽ nói cho chúng ta biết". Này Vương tử, khi thấy Ta ăn
thô thực, ăn cơm chua, các vị ấy chán ghét Ta, bỏ đi và nói: "Sa-môn
Gotama nay sống đầy đủ vật chất, từ bỏ tinh tấn, trở lui đời sống sung
túc".
Và này Vương tử, sau khi ăn thô thực và được sức lực trở lại, Ta
ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc
do ly dục sanh, có tầm có tứ. Này Vương tử, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta
được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
Diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc
do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Này Vương tử, như vậy lạc
thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc
Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Này Vương tử, như vậy
lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ
tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này Vương tử, như vậy lạc thọ khởi
lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng không cấu nhiễm, không
phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm,
hướng tâm đến Túc mạng minh. Ta nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai
đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi
đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại
kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Ta nhớ rằng: "Tại chỗ
kia, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ
lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, Ta
được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế
này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế
này". Như vậy, Ta nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại
cương và các chi tiết. Này Vương tử, đó là minh thứ nhất Ta đã chứng được trong
đêm canh một, vô minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống không
phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng không cấu nhiễm, không
phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm,
hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của chúng sanh. Ta với thiên nhãn thuần tịnh,
siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Ta biết rõ rằng chúng sanh,
người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh
đều do hạnh nghiệp của họ. Những chúng sanh làm những ác hạnh về thân, lời và
ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến; những người
này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa
ngục. Còn những chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, lời và ý, không
phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến; những
vị này sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, cõi trời,
trên đời này. Như vậy Ta với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống
chết của chúng sanh. Ta biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang,
người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của
họ. Này Vương tử, đó là minh thứ hai Ta đã chứng được trong đêm canh giữa, vô
minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng dật, nhiệt
tâm, tinh cần.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng không cấu nhiễm, không
phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm,
hướng tâm đến Lậu tận trí. Ta biết như thật: "Ðây là Khổ", biết như
thật: "Ðây là Nguyên nhân của khổ", biết như thật: "Ðây là sự
Diệt khổ", biết như thật: "Ðây là Con đường đưa đến diệt khổ",
biết như thật: "Ðây là những lậu hoặc", biết như thật: "Ðây là
nguyên nhân của lậu hoặc", biết như thật: "Ðây là sự diệt trừ các lậu
hoặc", biết như thật: "Ðây là con đường đưa đến sự diệt trừ các lậu
hoặc". Nhờ biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của Ta thoát khỏi dục lậu,
thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Ðối với tự thân đã giải thoát như
vậy, Ta khởi lên sự hiểu biết: "Ta đã giải thoát" Ta đã biết:
"Sanh đã diệt, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại
không có đời sống nào khác nữa". Này Vương tử, đó là minh thứ ba mà Ta đã
chứng được trong canh cuối, vô minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do
Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm tinh cần.
920. Tại sao Đức Thế Tôn tự đặt câu hỏi có nên thuyết pháp độ đời?
Chúng sanh vốn thiên về hai thứ: cực đoan và chấp thủ. Pháp mà Đức
Thế Tôn chứng ngộ là con đường trung đạo không thuộc cả hai cực đoan. Hơn thế nữa
là hành trình của sự không chấp thủ, một điều khó chấp nhận với hầu hết chúng
sanh ở đời:
Rồi này Vương tử, Ta suy nghĩ như sau: "Pháp này do Ta chứng
được, thật là sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý
luận, vi diệu, chỉ người trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng này thì ưa ái dục,
khoái ái dục, ham thích ái dục. Ðối với quần chúng ưa ái dục, khoái ái dục, ham
thích ái dục, thật khó mà thấy được định lý Idapaccàyata Paticcasamuppada (Y
Tánh Duyên Khởi Pháp); sự kiện này thật khó thấy; tức là sự tịnh chỉ tất cả
hành, sự trừ bỏ tất cả sanh y, ái diệt, ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn. Nếu nay
Ta thuyết pháp mà các người khác không hiểu Ta, thời như vậy thật khổ não cho
Ta, như vậy thật bực mình cho Ta!" Này Vương tử, rồi những kệ bất khả tư
nghì, từ trước chưa từng được nghe, được khởi lên nơi Ta:
Sao Ta nói Chánh pháp,
Ðược chứng ngộ khó khăn?
Những ai còn tham sân,
Khó chứng ngộ pháp này.
Ði ngược dòng, thâm diệu,
Khó thấy, thật tế nhị,
Kẻ ái nhiễm vô minh,
Không thấy được pháp này.
Rồi này Vương tử, với những suy tư như vậy, tâm của Ta hướng về vô
vi thụ động, không muốn thuyết pháp.
Này Vương tử, lúc bấy giờ Phạm thiên Sahampati khi biết được tâm
tư của Ta; với tâm tư của mình, liền suy nghĩ: "Than ôi, thế giới sẽ tiêu
diệt, thế giới sẽ bi hoại vong, nếu tâm của Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng
Giác hướng về vô vi thụ động, không muốn thuyết pháp". Rồi này Vương tử,
Phạm thiên Sahampati, như một nhà lực sĩ duỗi cánh tay đang co, hay co cánh tay
đang duỗi; cũng vậy, vị ấy biến mất từ thế giới Phạm thiên, và hiện ra trước
mặt Ta. Này Vương tử, rồi Phạm thiên Sahampati đắp thượng y một bên vai chắp
tay hướng vái Ta và bạch với Ta: "Bạch Thế Tôn, hãy thuyết pháp! Bạch
Thiện Thệ, hãy thuyết pháp! Có những chúng sanh ít nhiễm bụi trần sẽ bị nguy
hại nếu không được nghe Chánh pháp. Nếu được nghe, những vị này có thể thâm hiểu
Chánh pháp". Này Vương tử, Phạm thiện Sahampati nói như vậy. Sau khi nói
vậy, lại nói thêm như sau:
Xưa tại Magadha,
Hiện ra pháp bất tịnh,
Pháp do tâm cấu uế,
Do suy tư tác thành.
Hãy mở tung mở rộng,
Cánh cửa bất tử này.
Hãy để họ nghe Pháp,
Bậc Thanh tịnh Chứng Ngộ.
Như đứng trên tảng đá,
Trên đỉnh núi tột cao
Có người đứng nhìn xuống,
Ðám chúng sanh quây quần.
Cũng vậy, ôi Thiện Tuệ,
Bậc Biến Nhãn cùng khắp,
Leo lên ngôi lâu đài,
Xây dựng bằng Chánh pháp
Bậc Thoát Ly sầu muộn,
Nhìn xuống đám quần sanh,
Bị sầu khổ áp bức,
Bị sanh già chi phối,
Ðứng lên vị Anh Hùng,
Bậc Chiến Thắng chiến trường.
Vị trưởng đoàn lữ khách,
Bậc Thoát Ly nợ nần.
Hãy đi khắp thế giới,
Bậc Thế Tôn Chánh Giác!
Hãy thuyết vi diệu pháp,
Người nghe sẽ thâm hiểu!
Này Vương tử, sau khi biết được lời Phạm thiên yêu cầu, vì lòng từ
bi đối với chúng sanh, với Phật nhãn, Ta nhìn quanh thế giới. Này Vương tử, với
Phật nhãn, Ta thấy có hạng chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi đời, có
hạng lợi căn, độn căn, có hạng thiện tánh, ác tánh, có hạng dễ dạy, khó dạy, và
một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sanh thế giới khác và sự nguy hiểm làm
những hành động lỗi lầm. Như trong hồ sen xanh, hồ sen hồng hay hồ sen trắng có
một số hoa sen xanh, sen hồng, hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới
nước, không vượt lên khỏi mặt nước, được nuôi dưỡng dưới nước. Có một hoa sen
xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, sống vươn
lên tới mặt nước. Có một số hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới
nước, lớn lên dưới nước, vươn lên khỏi mặt nước, không bị nước đẫm ướt. Cũng
vậy, này Vương tử, với Phật nhãn, Ta thấy có hạng chúng sanh ít nhiễm bụi đời,
nhiều nhiễm bụi đời, có hạng lợi căn, độn căn, có hạng thiện tánh, ác tánh, có
hạng dễ dạy khó dạy, và một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sanh thế giới khác
và sự nguy hiểm làm những hành động lỗi lầm. Và này Vương tử, Ta nói lên bài kệ
sau đây với Phạm thiên Sahampati:
Cửa bất tử rộng mở,
Cho những ai chịu nghe.
Hãy từ bỏ tín tâm,
Không chính xác của mình.
Tự nghĩ đến phiền toái,
Ta đã không muốn giảng,
Tối thượng vi diệu pháp,
Giữa chúng sanh loài Người.
(Ôi Phạm thiên)
Này Vương tử, rồi Phạm thiên Sahampati tự nghĩ: "Ta đã tạo cơ
hội cho Thế Tôn thuyết pháp", đảnh lễ Ta, thân phía hữu hướng về Ta, rồi biến
mất tại chỗ.
921. Tại sao ý nghĩ của Thế Tôn quả đúng mà ý nghĩ của Phạm thiên
cũng đúng?
Đức Thế Tôn hoàn toàn đúng khi Ngài quán chiếu sự thậm thâm của giáo
pháp so với căn tánh nặng thiên chấp của chúng sanh khi Ngài vừa giác ngộ. Phạm
thiên Sahampati cũng hiểu điều đó nhưng cũng tin là giáo pháp một khi được tuyên
thuyết cũng mang lại ít nhiều sự lãnh hội của chúng sanh trong đời. Không ai có
thể quán triệt các pháp như Đức Phật nhưng cũng có nhiều người giác ngộ giải
thoát. Người đầu tiên được nghe một ít về giáo pháp là Upaka không liễu ngộ liền
mà phải đời nhiều năm sau (…); nhóm Năm thầy Kondanna thoạt đầu không chấp nhận
con đường trung đạo nhưng với sự kiên nhẫn của Bậc Đạo Sư cả năm thầy cuối cùng
hoàn toàn giác ngộ:
Này Vương tử, rồi Ta tự suy nghĩ: "Ta sẽ thuyết pháp cho ai
đầu tiên, ai sẽ mau hiểu Chánh pháp này?" Này Vương tử, rồi Ta tự nghĩ:
"Nay có Alara Kalama là bậc trí thức, đa văn, sáng suốt, đã từ lâu sống ít
nhiễm bụi đời. Ta hãy thuyết pháp đầu tiên cho Alara Kalama, vị này sẽ mau hiểu
Chánh pháp này". Này Vương tử, rồi chư Thiên đến Ta và nói như sau:
"Bạch Thế Tôn, Alara Kalama đã mệnh chung bảy ngày rồi". Rồi tri kiến
khởi lên nơi Ta: "Alara Kalama đã mệnh chung bảy ngày rồi". Này Vương
tử, Ta nghĩ: "Thật là một thiệt hại lớn cho Alara Kalama: Nếu nghe pháp
này, Alara Kalama sẽ mau thâm hiểu".
Rồi này Vương tử, Ta lại nghĩ: "Ta sẽ thuyết pháp cho ai đầu
tiên? Ai sẽ mau hiểu Chánh pháp này?" Rồi này Vương tử, Ta lại nghĩ:
"Nay có Uddaka Ramaputta là bậc tri thức, đa văn, sáng suốt, đã từ lâu
sống ít nhiễm bụi đời. Ta hãy thuyết pháp đầu tiên cho Uddaka Ramaputta. Vị này
sẽ mau hiểu Chánh pháp này." Rồi chư Thiên đến Ta và nói như sau:
"Bạch Thế Tôn Uddaka Ramaputta đã mệnh chung ngày hôm qua". Rồi tri kiến
khởi lên nơi Ta: "Uddaka Ramaputta đã mệnh chung hôm qua". Này Vương
tử, Ta nghĩ: "Thật là một thiệt hại lớn cho Uddaka Ramaputta. Nếu nghe
pháp này, Uddaka Ramaputta sẽ mau thâm hiểu".
Này Vương tử, rồi Ta suy nghĩ: "Ta sẽ thuyết pháp cho ai đầu
tiên? Ai sẽ mau hiểu Chánh pháp này?" Rồi này Vương tử, Ta lại nghĩ:
"Nhóm năm Tỷ-kheo này đã hầu hạ Ta khi Ta còn nỗ lực tinh cần, nhóm ấy
thật giúp ích nhiều. Vậy ta hãy thuyết pháp đầu tiên cho nhóm năm
Tỷ-kheo!" Rồi này Vương tử, Ta lại nghĩ: "Nay nhóm năm Tỷ-kheo ở tại
đâu?" Này Vương tử, với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, Ta thấy nhóm năm
Tỷ-kheo hiện ở Baranasi (Ba la nại), tại Isipatana, vườn Lộc Uyển. Rồi này
Vương tử, sau khi ở tại Uruvela lâu cho đến khi mãn ý, Ta lên đường đi đến
Baranasi.
Này Vương tử, một tà mạng ngoại đạo tên là Upaka, đã thấy Ta khi
Ta còn đi trên con đường giữa Gaya và cây Bồ-đề. Sau khi thấy, vị ấy nói với
Ta:
"-- Các căn của Hiền giả thật sáng suốt. Da sắc của Hiền giả
thật thanh tịnh, thật thanh khiết. Này Hiền giả, vì mục đích gì, Hiền giả xuất
gia? Ai là bậc Ðạo Sư của Hiền giả? Hiền giả hoan hỷ thọ trì pháp của ai?"
Này Vương tử, khi nghe nói vậy, Ta nói với tà mạng đạo Upaka bài
kệ như sau:
"-- Ta, bậc Thắng tất cả,
Ta, bậc Nhất thiết Trí.
Hết thảy pháp, không nhiễm,
Hết thảy pháp, xả ly.
Ta sống chân giải thoát,
Ðoạn tận mọi khát ái.
Như vậy Ta tự giác,
Còn phải y chỉ ai?
Ta không có Ðạo Sư,
Bậc như Ta không có.
Giữa thế giới Nhơn, Thiên,
Không có ai bằng Ta.
Bậc Ứng Cúng trên đời,
Bậc Ðạo Sư vô thượng.
Tự mình Chánh Ðẳng Giác,
Ta an tịnh, thanh thoát.
Ðể chuyển bánh xe Pháp.
Ta đến thành Kàsi.
Gióng lên trống bất tử,
Trong thế giới mù lòa."
"-- Như Hiền giả đã tự xưng, Hiền giả xứng đáng là bậc Chiến
thắng Vô tận. "
"-- Như Ta, bậc Thắng giả,
Những ai chứng lậu tận,
Ác pháp, Ta nhiếp phục,
Do vậy, Ta vô địch".
(Này Upaka)
Này Vương tử, sau khi được nói vậy, tà mạng ngoại đạo Upaka nói
với Ta:
"-- Này Hiền giả, mong rằng sự việc là vậy".
Nói xong, Upaka lắc đầu rồi đi theo một ngã khác.
Này Vương tử, rồi Ta tuần tự đi đến Baranasi, Isipatana, vườn Lộc
Uyển, đi đến chỗ nhóm năm Tỷ-kheo ở. Này Vương tử, nhóm năm Tỷ-kheo khi thấy Ta
từ xa đi đến, đã cùng nhau thỏa thuận như sau: "Này các Hiền giả, nay
Sa-môn Gotama đang đi đến; vị này sống trong sự sung túc, đã từ bỏ tinh cần, đã
trở lui đời sống đầy đủ vật chất. Chúng ta chớ có đảnh lễ, chớ có đứng dậy, chớ
có lấy y bát. Hãy đặt một chỗ ngồi, và nếu vị ấy muốn, vị ấy sẽ ngồi". Này
Vương tử, nhưng khi Ta đi đến gần, năm Tỷ-kheo ấy không thể giữ đúng điều đã
thỏa thuận với nhau. Có người đến đón Ta và cầm lấy y bát, có người sắp đặt chỗ
ngồi, có người đem nước rửa chân đến. Nhưng các vị ấy gọi Ta bằng tên với danh
từ Hiền giả (Avuso).
Này Vương tử khi ta nghe nói vậy, Ta nói với nhóm năm Tỷ-kheo:
"-- Này các Tỷ-kheo, chớ có gọi Ta bằng tên và dùng danh từ
Hiền giả. Này các Tỷ-kheo, Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Hãy lóng
tai, Pháp bất tử đã chứng được, Ta giảng dạy, Ta thuyết pháp. Sống đúng theo
lời khuyến giáo, các Ông không bao lâu, sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt ngay
trong hiện tại, mục đích vô thượng của phạm hạnh mà các Thiện nam tử chơn chánh
xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, các Ông sẽ an trú."
Này Vương tử, khi nghe nói vậy, nhóm năm Tỷ-kheo nói Ta:
"-- Hiền giả Gotama, với nếp sống này, với đạo tu này, với
khổ hạnh này, Hiền giả đã không chứng được Pháp siêu nhân, tri kiến, thù thắng
xứng đáng bậc Thánh, thì này làm sao Hiền giả, với nếp sống sung túc, với sự từ
bỏ tinh cần, với sự trở lui đời sống vật chất đầy đủ, lại có thể chứng được
Pháp siêu nhân, tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh?"
Này Vương tử, khi nghe nói vậy, Ta nói với nhóm năm Tỷ-kheo:
"-- Này các Tỷ-kheo, Như Lai không sống sung túc, không từ bỏ
tinh cần, không trở lui đời sống vật chất đầy đủ. Này các Tỷ-kheo, Như Lai là
bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Này các Tỷ-kheo, hãy lóng tai, Pháp bất tử đã
chứng được, Ta giảng dạy, Ta thuyết pháp. Sống đúng theo lời khuyến giáo, các
Ông không bao lâu, sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt ngay trong hiện tại mục
đích vô thượng của Phạm hạnh mà các Thiện nam tử xuất gia, từ bỏ gia đình, sống
không gia đình, các Ông sẽ an trú."
Này Vương tử, lại lần thứ hai, nhóm năm Tỷ-kheo nói với Ta:
"-- Hiền giả Gotama, với nếp sống này... tri kiến thù thắng
xứng đáng bậc Thánh?"
Này Vương tử, lại lần thứ hai Ta nói với nhóm năm Tỷ-kheo:
"-- Này các Tỷ-kheo, Như Lai không sống sung túc... các Ông
sẽ an trú."
Này Vương tử, lại lần thứ ba, nhóm năm Tỷ-kheo nói với Ta:
"-- Hiền giả Gotama, với nếp sống này... tri kiến thù thắng
xứng đáng bậc Thánh?"
Này Vương tử, khi nghe nói vậy, Ta nói với nhóm năm Tỷ-kheo:
"-- Này các Tỷ-kheo, từ trước đến nay, các Ông có chấp nhận
là Ta chưa bao giờ nói như vậy chăng?"
"-- Bạch Thế Tôn chưa bao giờ như vậy. "
"-- Này các Tỷ-kheo, Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng
Giác. Hãy lóng tai, Pháp bất tử đã chứng được, Ta giảng dạy, Ta thuyết pháp.
Sống đúng theo lời khuyến giáo, các Ông không bao lâu, sau khi tự tri, tư
chứng, tự đạt được ngay trong hiện tại mục đích vô thượng của phạm hạnh mà các
Thiện nam tử xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, các Ông sẽ an
trú".
Sáu người sống, với các đồ ăn mà hai Tỳ Kheo này khất thực đem về.
Như vậy, này Vương tử, chúng năm vị Tỷ-kheo được Ta giáo giới như vậy, giáo
huấn như vậy, không bao lâu chứng được với thượng trí ngay trong hiện tại,
chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô thượng cứu cánh Phạm hạnh mà con cháu các
lương gia xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng đến.
922. Hạng người nào được xem là có lợi căn giác ngộ?
Vương tử Bodhi lại hỏi người như thế nào được xem là có lợi căn học
và hành giáo pháp của Đức Phật:
Khi được nói vậy, vương tử Bodhi bạch Thế Tôn:
-- Ðộ bao lâu, bạch Thế Tôn, một vị Tỷ-kheo chấp nhận Như Lai là
vị lãnh đạo, chứng được mục đích tối cao...
và an trú.
-- Này Vương tử, ở đây, Ta sẽ hỏi Vương tử. Tùy theo Vương tử có
thể kham nhẫn, Vương tử hãy trả lời. Này Vương tử, Vương tử nghĩ thế nào? Vương
tử có thiện xảo trong nghề cưỡi voi và trong kỹ thuật dùng câu móc không?
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn, con thiện xảo trong nghề cưỡi voi và
kỹ thuật dùng câu móc.
-- Này Vương tử, Vương tử nghĩ thế nào? Ở đây có người đến và nói:
"Vương tử Bodhi biết kỹ thuật cưỡi voi và dùng câu móc. Tôi sẽ học kỹ
thuật cưỡi voi và dùng câu móc với Vương tử". Nếu người ấy không có lòng
tin, thời những gì lòng tin có thể đạt được, người ấy không thể đạt được. Nếu
người ấy nhiều bệnh, thời những gì ít bệnh có thể đạt được, người ấy không thể
đạt được. Nếu người ấy gian trá, xảo trá, thời những gì không gian trá, không
xảo trá có thể đạt được, người ấy không đạt được. Nếu người ấy biếng nhác, thời
những gì tinh tấn, cần mẫn có thể đạt được, người ấy không đạt được. Nếu người
ấy có liệt tuệ, thời những gì trí tuệ có thể đạt được, người ấy không đạt được.
Này Vương tử, Vương tử nghĩ thế nào? Người ấy có thể học kỹ thuật cỡi voi và
dùng câu móc với Vương tử không?
-- Bạch Thế Tôn, người ấy, dầu thành tựu chỉ một đức tánh, người
ấy cũng không có thể học kỹ thuật cỡi voi và dùng câu móc với con; huống chi
(nếu người ấy thành tựu) cả năm đức tánh!
-- Này Vương tử, Vương tử nghĩ thế nào? Ở đây, có người đến và
nói: "Vương tử Bodhi biết kỹ thuật cỡi voi và dùng câu móc. Tôi sẽ học kỹ
thuật cưỡi voi và dùng câu móc với Vương tử". Nếu người ấy có lòng tin,
thời những gì lòng tin có thể đạt được, người ấy đạt được. Nếu người ấy ít
bệnh, thời những gì ít bệnh có thể đạt được, người ấy đạt được. Nếu người ấy
không gian trá, không xảo trá, thời những gì không gian trá, không xảo trá có
thể đạt được, người ấy đạt được. Nếu người ấy tinh tấn, cần mẫn, thời những gì
tinh tấn, cần mẫn có thể đạt được, người ấy đạt được. Nếu người ấy có trí tuệ,
thời những gì trí tuệ có thể đạt được, người ấy đạt được. Này Vương tử, Vương
tử nghĩ thế nào? Người ấy có thể học kỹ thuật cỡi voi và dùng câu móc với Vương
tử không?
-- Bạch Thế Tôn, người ấy, dầu cho thành tựu chỉ một đức tánh,
cũng có thể học kỹ thuật cỡi voi và dùng câu móc với con; huống chi (nếu người
ấy thành tựu) cả năm đức tánh.
-- Cũng vậy, này Vương tử, có năm tinh tấn chi này. Thế nào là
năm? Ở đây, này Vương tử, vị Tỷ-kheo có lòng tin, tin tưởng sự giác ngộ của Như
Lai. Ngài là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ,
Thế Gian Giải, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
Vị ấy ít bệnh, ít não, với bộ tiêu hóa được điều hòa, không quá
lạnh, không quá nóng, trung bình, hợp với tinh tấn.
Vị ấy không gian trá, xảo trá, tự mình xử sự như chơn đối với bậc
Ðạo sư, đối với các vị có trí hay đối với các vị đồng Phạm hạnh.
Vị ấy sống tinh cần, tinh tấn từ bỏ các bất thiện pháp, làm cho
khởi lên các thiện pháp, kiên cố, kiên trì, không từ bỏ gánh nặng đối với các
thiện pháp.
Vị ấy có trí tuệ thành tựu trí tuệ về sự sanh diệt (của các pháp),
với sự thể nhập bậc Thánh đưa đến sự chơn chánh đoạn diệt khổ đau. Này Vương Tử,
như vậy là năm tinh cần chi.
Này Vương tử, vị Tỷ-kheo thành tựu năm tinh cần chi này, chấp nhận
Như Lai là bậc lãnh đạo, sau khi đã tự chứng tri với thượng trí ngay trong hiện
tại vô thượng cứu cánh Phạm hạnh mà vì mục đích này các Thiện nam tử chơn chánh
xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, và vị ấy có thể chứng ngộ, chứng
đạt và an trú trong bảy năm.
Này Vương tử, đừng nói chi bảy năm, một vị Tỷ-kheo thành tựu năm
tinh cần chi này... và an trú sáu năm... năm năm, bốn năm, ba năm, hai năm, một
năm. Này Vương tử, đừng nói chi một năm, một Tỷ-kheo thành tựu năm tinh cần chi
này... và an trú bảy tháng. Này Vương tử, đừng nói chi bảy tháng, một Tỷ-kheo
thành tựu năm tinh cần chi này... và an trú ngay trong sáu tháng... trong năm
tháng, bốn tháng, ba tháng, hai tháng, một tháng, nửa tháng. Này Vương tử, đừng
nói chi nửa tháng, một Tỷ-kheo thành tựu năm tinh cần chi này... và an trú
trong bảy đêm ngày. Này Vương tử, đừng nói chi bảy đêm ngày, Tỷ-kheo thành tựu
năm tinh cần chi này sáu đêm ngày... năm đêm ngày, bốn đêm ngày, ba đêm ngày,
hai đêm ngày, một đêm ngày.
Này Vương tử, đừng nói chi một đêm ngày, một Tỷ-kheo thành tựu năm
tinh cần chi này, chấp nhận Như Lai là bậc lãnh đạo, nếu được giảng dạy buổi
chiều thời chứng được sự thù thắng buổi sáng, nếu được giảng dạy buổi sáng,
thời sẽ chứng được sự thù thắng buổi chiều.
923. Đoạn kết của bài kinh có chi tiết thú vị gì?
Với tất cả niềm hoan hỷ kính tin ở Đức Phật, vương tử Bodhi nói lên
lời hoan hỷ nhưng không nói lời quy y Tam Bảo. Điều nầy khiến thanh niên
Sanjikaputta không hài lòng nhưng vương tử Bodhi đã giải thích lý do tại sao:
Khi được nghe nói vậy, Vương tử Bodhi bạch Thế Tôn:
-- Ôi, thật là Phật! Ôi, thật là Pháp! Ôi, thật là khéo thuyết
pháp thay! Nếu được giảng dạy buổi chiều thời chứng được sự thù thắng buổi
sáng, nếu được giảng dạy buổi sáng thời chứng được sự thù thắng buổi chiều.
Khi nghe nói vậy, thanh niên Sanjikaputta thưa với Vương tử Bodhi:
-- Như vậy, Tôn giả Bodhi này đã nói: "Ôi, thật là Phật! Ôi,
thật là Pháp! Ôi, thật là khéo thuyết pháp thay! " Nhưng Vương tử không
nói thêm: "Tôi quy y Tôn giả Gotama này, quy y Pháp và quy y Tỷ-kheo
Tăng".
-- Này Sanjikaputta, chớ có nói như vậy! Này Sanjikaputta, chớ có
nói như vậy! Này Sanjikaputta, mặt trước mặt đối diện với mẫu thân của ta, ta
tự nghe như sau: "Một thời, này Sanjikaputta, Thế Tôn trú ở Kosambi, tại
tu viện Ghosita. Mẫu thân ta đang mang thai, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh
lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, mẫu thân ta bạch với Thế
Tôn: "Bạch Thế Tôn, đứa con này của con, dù là con trai hay con gái, cũng
xin quy y với Thế Tôn, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo. Mong Thế Tôn nhận nó
làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, nó trọn đời quy ngưỡng". Lại một
thời, này Sanjikaputta, Thế Tôn trú giữa dân chúng Bhagga, tại Sumsumaragira,
rừng Bhesakala, vườn Lộc Uyển. Rồi người vú của ta, ẳm ta bên hông, đi đến Thế
Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên, người vú của
ta bạch Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, vương tử Bodhi nay xin quy y Thế Tôn, quy
y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo. Mong Thế Tôn nhận vương tử này làm cư sĩ, từ nay
cho đến mạng chung, xin trọn đời quy ngưỡng". Và nay, này Sanjikaputta,
lần thứ ba ta quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo. "Mong Thế
Tôn nhận con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy
ngưỡng".
Ba lần quy y Tam Bảo của vương tử: một lần do mẹ phát tâm khi mang
thai, một lần do người vú xin cho vương tử quy y lúc còn tấm bé, và bây giờ,
với sự hiểu biết của một người trưởng thành vương tử xin quy y lần thứ ba. Sự
kiện nầy có thể là câu trả lời cho nhiều Phật tử khi muốn quy y bằng sự hiểu
biết chân thành mặc dù trước đã quy y vì phong tục tập quán.
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
TT Giác Đẳng chia sẻ thêm về bài học
TT Giác Đẳng chia sẻ thêm về bài học
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment