Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Tuệ Siêu
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 18/3/2020
77. Ðại kinh Sakuludàyi (Mahàsakuludàyin sutta)(tiếp theo)
(V. Con đường hành trì)
(1. Tứ Niệm xứ)
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ
tử. Và các đệ tử của Ta y cứ theo đường tu hành này, tu tập Bốn Niệm xứ. Ở đây,
này Udayi, vị Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm tỉnh giác, chánh niệm
để nhiếp phục tham ưu trên đời, quán thọ trên các cảm thọ... quán tâm trên các
tâm... quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để nhiếp phục
tham ưu trên đời. Và ở đây, các đệ tử của Ta phần đông an trú, sau khi chứng
ngộ nhờ thắng trí và chứng đắc cứu cánh viên mãn.
(2. Tứ Chánh cần)
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ
tử. Và các đệ tử của Ta y cứ con đường tu hành này, tu tập Bốn Chánh cần. Ở
đây, này Udayi, vị Tỷ-kheo với mục đích khiến cho các ác, bất thiện pháp từ
trước chưa sanh không cho sanh khởi, khởi lên ý muốn cố gắng, tinh tấn, sách
tâm, trì tâm; với mục đích khiến cho các ác, bất thiện pháp đã sanh ra được trừ
diệt, khởi lên ý muốn cố gắng, tinh tấn, sách tâm, trì tâm; với mục đích khiến
cho các thiện pháp từ trước chưa sanh nay cho sanh khởi, khởi lên ý muốn cố
gắng, tinh tấn, sách tâm, trì tâm; với mục đích khiến cho các thiện pháp đã
được sanh có thể duy trì, không có mù mờ, được tăng trưởng, được quảng đại,
được tu tập, được viên mãn, khởi lên ý muốn cố gắng, tinh tấn, sách tâm, trì
tâm... Và ở đây, các đệ tử của Ta phần đông an trú, sau khi chứng ngộ nhờ thắng
trí và chứng đắc cứu cánh viên mãn.
(3. Tứ Thần túc)
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ
tử. Và các đệ tử của Ta y cứ theo đường tu hành này, tu tập Bốn Thần túc. Ở
đây, này Udayi, vị Tỷ-kheo tu tập thần túc, câu hữu với dục Thiền định tinh cần
hành... tinh tấn Thiền định... tâm Thiền định tinh cần hành, tu tập thần túc,
câu hữu với tư duy Thiền định tinh cần hành. Và ở đây, các đệ tử của Ta phần
đông an trú, sau khi chứng ngộ nhờ thắng trí và chứng đắc cứu cánh viên mãn.
(4. Ngũ căn)
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ
tử. Và các đệ tử của Ta y cứ theo đường tu hành này, tu tập Năm Căn. Ở đây, này
Udayi, vị Tỷ-kheo tu tập tín căn hướng đến an tịnh, đưa đến giác ngộ, tu tập
tinh tấn căn... tu tập niệm căn... tu tập định căn... tu tập tuệ căn, hướng đến
an tịnh, đưa đến giác ngộ. Và ở đây, này Udayi, các đệ tử của Ta phần đông an
trú, sau khi chứng ngộ nhờ thắng trí và chứng đắc cứu cánh viên mãn.
(5. Ngũ lực)
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ
tử. Và các đệ tử của Ta y cứ theo đường tu hành này, tu tập Năm Lực. Ở đây, này
Udayi, vị Tỷ-kheo tu tập tín lực, hướng đến an tịnh, đưa đến giác ngộ, tu tập
tinh tấn lực... tu tập niệm lực... tu tập định lực...tu tập tuệ lực, hướng đến
an tịnh, đưa đến giác ngộ. Ở đây, này Udayi, các đệ tử của Ta phần đông an trú,
sau khi chứng ngộ nhờ thắng trí, và chứng đắc cứu cánh viên mãn.
(6. Thất Giác chi)
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ
tử. Và các đệ tử của Ta y cứ con đường tu hành này, tu tập Bảy Giác chi. Ở đây,
này các Udayi, vị Tỷ-kheo tu tập niệm giác chi, y chỉ viễn ly, y chỉ ly tham, y
chỉ diệt, hướng đến xả, tu tập trạch pháp giác chi... tu tập tinh tấn giác
chi... tu tập hỷ giác chi... tu tập khinh an giác chi... tu tập định giác chi,
tu tập xả giác chi, y chỉ viễn ly, y chỉ ly tham, y chỉ diệt, hướng đến xả. Và
ở đây, này Udayi, các đệ tử của Ta phần đông an trú, sau khi chứng ngộ nhờ
thắng trí, và chứng đắc cứu cánh viên mãn.
(7. Bát Chánh đạo)
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ
tử. Và các đệ tử của Ta y cứ con đường tu hành này, tu tập Thánh đạo Tám ngành.
Ở đây, này Udayi, vị Tỷ-kheo tu tập chánh tri kiến, tu tập chánh tư duy, tu tập
chánh ngữ, tu tập chánh nghiệp, tu tập chánh mạng, tu tập chánh tinh tấn, tu
tập chánh niệm, tu tập chánh định. Và ở đây, này Udayi, các vị đệ tử của Ta
phần đông an trú, sau khi chứng ngộ nhờ thắng trí và chứng đắc cứu cánh viên
mãn.
(8. Tám Giải thoát)
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ
tử. Và đệ tử của Ta y cứ con đường tu hành này, tu tập Tám Giải thoát. "Tự
mình có sắc, thấy các sắc", đó là giải thoát thứ nhất. "Quán tưởng
nội sắc, thấy các ngoại sắc", đó là giải thoát thứ hai. "Quán tưởng
(sắc là) tịnh, chú tâm trên suy tưởng ấy", đó là giải thoát thứ ba. Vượt
hoàn toàn sắc tưởng, diệt trừ các tưởng đối ngại, không suy tư đến những tưởng khác
biệt, với suy tư "Hư không là vô biên", chứng và trú "Không vô
biên xứ", đó là giải thoát thứ tư. Vượt hoàn toàn Hư không vô biên xứ, với
suy tư "Thức là vô biên", chứng và trú "Thức vô biên xứ",
đó là giải thoát thứ năm. Vượt hoàn toàn "Thức vô biên xứ", với suy
tư "không có vật gì", chứng và trú "Vô sở hữu xứ", đó là
giải thoát thứ sáu. Vượt hoàn toàn Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi
tưởng xứ, đó là giải thoát thứ bảy. Vượt hoàn toàn Phi tưởng phi phi tưởng xứ,
chứng và trú Diệt thọ tưởng, đó là giải thoát thứ tám. Và ở đây, này Udayi, các
đệ tử của Ta phần đông an trú, sau khi chứng ngộ nhờ thắng trí, và chứng đắc
cứu cánh viên mãn.
(9. Tám Thắng xứ)
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ
tử. Và các đệ tử của Ta y cứ con đường tu hành này, tu tập Tám Thắng xứ. Một vị
quán tưởng nội sắc, thấy các loại ngoại sắc, có hạn lượng, đẹp, xấu. Vị ấy nhận
thức rằng. "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng
xứ thứ nhất. Một vị quán tưởng nội sắc, thấy các loại ngoại sắc vô lượng, đẹp,
xấu. Vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta
thấy", đó là thắng xứ thứ hai. Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy
các loại ngoại sắc có hạn lượng, đẹp, xấu. Vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi
nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng xứ thứ ba. Một vị quán
tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc vô lượng, đẹp, xấu. Vị ấy nhận
thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng
xứ thứ tư. Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu
xanh, sắc màu xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh... như bông gai màu xanh, sắc
màu xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh... như lụa Ba la nại, cả hai mặt láng
trơn, màu xanh, sắc màu xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh. Như vậy vị này quán
tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu xanh, sắc màu xanh, hình
sắc xanh, ánh sáng xanh. Vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng,
ta thấy, ta biết", đó là thắng xứ thứ năm. Một vị quán tưởng vô sắc ở nội
tâm, thấy các loại ngoại sắc màu vàng, hình sắc vàng, ánh sáng vàng... như bông
Kanikara màu vàng, sắc màu vàng, hình sắc vàng, ánh sáng vàng... như lụa Ba la
nại, cả hai mặt láng trơn màu vàng, sắc màu vàng, hình sắc vàng, ánh sáng vàng.
Như vậy vị này quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu vàng,
sắc màu vàng, hình sắc vàng, ánh sáng vàng, vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi
nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng xứ thứ sáu. Một vị quán
tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu đỏ, sắc màu đỏ, hình sắc
màu đỏ, ánh sáng đỏ... như bông Bandhujivaka màu đỏ, sắc màu đỏ, hình sắc đỏ,
ánh sáng đỏ... như lụa Ba la nại, cả hai mặt láng trơn màu đỏ, sắc màu đỏ, hình
sắc đỏ, ánh sáng đỏ. Như vậy vị này quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại
ngoại sắc màu đỏ, sắc màu đỏ, hình sắc đỏ, ánh sáng đỏ, vị ấy nhận thức rằng:
"Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng xứ thứ
bảy. Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu trắng, sắc
màu trắng, hình sắc trắng, ánh sáng trắng... như sao mai Osadhi màu trắng, sắc
màu trắng, hình sắc trắng, ánh sáng trắng... như lụa Ba la nại, cả hai mặt láng
trơn màu trắng, sắc màu trắng, hình sắc trắng, ánh sáng trắng. Như vậy vị này
quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu trắng, sắc màu trắng,
hình sắc trắng, ánh sáng trắng. Vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng
chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng xứ thứ tám. Và ở đây, này Udayi, các
đệ tử của Ta phần đông an trú, sau khi chứng ngộ nhờ thắng trí, và chứng đắc
cứu cánh viên mãn.
(10. Mười Biến xứ)
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ
tử. Và các đệ tử của Ta y cứ con đường tu hành này, tu tập Mười Biến xứ. Một vị
biết được đất biến xứ: trên dưới, ngang, bất nhị, vô lượng. Một vị biết được
nước biến xứ... Một vị biết được lửa biến... Một vị biết được gió biến... Một
vị biết được xanh biến... Một vị biết được vàng biến... Một vị biết được đỏ
biến... Một vị biết được trắng biến... Một vị biết được hư không biến... Một vị
biết được thức biến xứ: trên, dưới, ngang, bất nhị, vô lượng. Và ở đây, này
Udayi, các đệ tử của Ta phần đông an trú, sau khi chứng ngộ nhờ thắng trí, và
chứng đắc cứu cánh viên mãn.
(11. Bốn Thiền-na)
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ
tử. Và các đệ tử của Ta y cứ con đường tu hành này, tu tập Bốn Thiền. Ở đây,
này Udayi, vị Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất,
một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm, với tứ. Vị Tỷ-kheo thấm nhuần
tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình với hỷ lạc do ly dục sanh, không
một chỗ nào trên toàn thân không có hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần. Này
Udayi, như một người hầu tắm lão luyện, hay đệ tử người hầu tắm, sau khi rắc
bột tắm trong thau bằng đồng, liền nhồi bột ấy với nước, cục bột tắm ấy được
thấm nhuần nước ướt, trào trộn với nước ướt, thấm ướt cả trong lẫn ngoài với
nước, nhưng không chảy thành giọt, cũng vậy, này Udayi, vị Tỷ-kheo thấm nhuần,
tẩm ướt, làm sung mãn, tràn đầy thân mình với hỷ lạc do ly dục sanh, không một
chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần.
Lại nữa, này Udayi, vị Tỷ-kheo ấy diệt tầm và tứ, chứng và trú
Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội
tĩnh nhất tâm. Vị Tỷ-kheo ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy
thân mình với hỷ lạc do định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được
hỷ lạc do định sanh ấy thấm nhuần. Này Udayi, ví như một hồ nước, nước từ trong
dâng lên, phương Ðông không có lỗ nước chảy ra, phương Tây không có lỗ nước
chảy ra, phương Bắc không có lỗ nước chảy ra, phương Nam không có lỗ nước chảy
ra, và thỉnh thoảng trời lại mưa lớn. Suối nước mát từ hồ nước ấy phun ra thấm
nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy hồ nước ấy, với nước mát lạnh, không
một chỗ nào của hồ nước ấy không được nước mát lạnh ấy thấm nhuần; cũng vậy,
này Udayi, vị Tỷ-kheo thấm nhuần; tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy thân mình
với hỷ lạc do định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do
định sanh ấy thấm nhuần.
Lại nữa, này Udayi, vị Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác,
thân cảm sự lạc thọ và các bậc Thánh gọi là "xả niệm lạc trú", chứng
và an trú vào Thiền thứ ba. Vị Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn,
tràn đầy thân mình với lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân
không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần. Này Udayi, ví như trong hồ sen
xanh, hồ sen hồng, hồ sen trắng, có những sen xanh, sen hồng hay sen trắng;
những bông sen ấy sanh trong nước, lớn lên trong nước, không vượt khỏi nước,
nuôi sống dưới nước, từ đầu ngọn cho đến gốc rễ đều thấm nhuần, tẩm ướt, đầy
tràn thấu suốt bởi nước mát lạnh ấy, không một chỗ nào của toàn thể sen xanh,
sen hồng hay sen trắng không được nước mát lạnh ấy thấm nhuần; cũng vậy, này
Udayi, vị Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình với
lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân không được lạc thọ
không có hỷ ấy thấm nhuần.
Lại nữa, này Udayi, vị Tỷ-kheo xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm
thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.
Vị Tỷ-kheo ấy ngồi thấm nhuần toàn thân mình với tâm thuần tịnh trong sáng,
không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm
nhuần. Này Udayi, ví như một người ngồi, dùng tấm vải trắng trùm đầu, không một
chỗ nào trên toàn thân không được vải trắng ấy che thấu; cũng vậy, này Udayi,
vị Tỷ-kheo ngồi thấm nhuần toàn thân mình với tâm thuần tịnh, trong sáng, không
một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần.
Và ở đây, này Udayi, các đệ tử của Ta phần đông an trú, sau khi chứng ngộ nhờ
thắng trí và chứng đắc cứu cánh viên mãn.
(12. Tuệ tri)
Lại nữa, này Udayi. Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ
tử. Và các đệ tử của Ta y cứ con đường tu hành này, tuệ tri như sau: "Thân
này của ta là sắc pháp, do bốn đại thành, do cha mẹ sanh, nhờ cơm cháo nuôi
dưỡng, vô thường, biến hoại, phấn toái, đoạn tuyệt, hoại diệt, trong thân ấy
thức ta lại nương tựa và bị trói buộc. Ví như, này Udayi, một hòn lưu ly bảo
châu, đẹp đẽ, trong suốt, có tám mặt, khéo dũa, khéo mài, sáng chói, không uế
trược, đầy đủ tất cả mỹ tướng. Và một sợi dây được xâu qua hòn ngọc ấy, sợi dây
màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng, hay màu vàng nhạt. Một người có mắt cầm
hòn ngọc ấy trên tay sẽ thấy: "Hòn lưu ly bảo châu này, đẹp đẽ, trong
suốt, có tám mặt, khéo dũa, khéo mài, sáng chói, không uế trược, đầy đủ tất cả
mỹ tướng. Và sợi dây này được xâu qua hòn ngọc ấy, sợi dây màu xanh, màu vàng,
màu đỏ, màu trắng hay màu vàng nhạt". Cũng vậy, này Udayi, Ta thuyết giảng
con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y cứ con đường tu hành này
biết được như sau: "Thân này của ta là sắc pháp, do bốn đại thành, do cha
mẹ sanh, nhờ cơm cháo nuôi dưỡng, vô thường, biến hoại, phấn toái, đoạn tuyệt,
hoại diệt, trong thân ấy thức ta lại nương tựa và bị trói buộc. Và ở đây, này
Udayi, các đệ tử của Ta phần đông an trú, sau khi chứng ngộ nhờ thắng trí và chứng
đắc cứu cánh viên mãn.
(13. Thân do ý)
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ
tử. Và các đệ tử của Ta y cứ con đường tu hành này, chú tâm, hướng tâm đến sự
hóa hiện một thân do ý làm ra. Vị ấy tạo một thân khác từ nơi thân này, cũng là
sắc pháp, do ý làm ra, đầy đủ các chi tiết lớn nhỏ, không thiếu một căn nào. Ví
như, này Udayi, một người rút một cây lau ra ngoài vỏ, người ấy nghĩ: "Ðây
là vỏ, đây là cây lau, vỏ khác, cây lau khác, và cây lau từ vỏ rút ra". Ví
như, này Udayi, một người rút thanh kiếm từ bao kiếm. Người ấy nghĩ: "Ðây
là thanh kiếm, đây là bao kiếm; thanh kiếm khác, bao kiếm khác; và thanh kiếm
từ nơi bao kiếm rút ra. Ví như, này Udayi, một người lột xác một con rắn. Người
ấy nghĩ: "Ðây là con rắn, đây là xác rắn; con rắn khác, xác rắn khác; và
con rắn từ nơi xác rắn được lột ra". Cũng vậy, này Udayi, Ta thuyết giảng
con đường tu hành cho các đệ tử . Và các đệ tử của Ta y cứ con đường tu hành
này, chú tâm, hướng tâm đến sự hóa hiện một thân do ý làm ra. Vị ấy tạo một
thân khác từ nơi thân này, cũng là sắc pháp, do ý làm ra, đầy đủ các chi tiết
lớn nhỏ, không thiếu một căn nào. Và ở đây, này Udayi, các đệ tử của Ta phần
đông an trú, sau khi chứng ngộ nhờ thắng trí và chứng đắc cứu cánh viên mãn.
(14. Thần túc thông)
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ
tử. Và các đệ tử của Ta y cứ con đường tu hành này, dẫn tâm, hướng tâm đến các
thần thông. Vị ấy chứng được các loại thần thông, một thân hiện ra nhiều thân,
nhiều thân hiện ra một thân; hiện hình, biến hình đi ngang qua vách, qua tường,
qua núi như đi ngang hư không; độn thổ, trồi lên ngang qua đất liền, như ở
trong nước; đi trên nước không chìm như trên đất liền; ngồi kiết già đi trên hư
không như con chim; với bàn tay chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có
đại oai lực, đại oai thần như vậy; có thể tự thân bay đến cõi Phạm thiên. Ví
như, này Udayi, một người thợ gốm khéo tay, hay đệ tử người thợ gốm, với đất
sét khéo nhồi nhuyễn, có thể làm các loại đồ gốm tùy theo sở thích. Ví như, này
Udayi, một người thợ ngà khéo tay, hay đệ tử người thợ ngà, với ngà khéo đẽo
khéo dũa, có thể làm các loại đồ ngà tùy theo sở thích. Ví như, này Udayi,
người thợ vàng khéo tay, hay đệ tử người thợ vàng, với vàng khéo tinh nhuyễn có
thể làm các loại đồ vàng tùy theo sở thích; cũng vậy, này Udayi, Ta thuyết
giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y cứ con đường tu
hành này, dẫn tâm, hướng tâm đến các thần thông. Vị ấy chứng được các thần
thông, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân; hiện hình biến
hình đi ngang qua vách, qua tường, qua núi, như đi ngang qua hư không; độn thổ,
trồi lên ngang qua đất liền như ở trong nước; đi trong nước không chìm như đi
trên đất liền; ngồi kiết già đi trên hư không như con chim; với bàn tay chạm và
rờ mặt trời và mặt trăng, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy; có
thể tự thân bay đến cõi Phạm thiên. Và ở đây, này Udayi, các đệ tử của Ta phần
đông an trú, sau khi chứng ngộ nhờ thắng trí và chứng đắc cứu cánh viên mãn.
(15. Thiên nhĩ thông)
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ
tử. Và các đệ tử của Ta y cứ con đường tu hành này, với thiên nhĩ thanh tịnh
siêu nhân, có thể nghe được hai loại tiếng, chư Thiên và Người, xa và gần. Ví
như, này Udayi, một người đang đi qua đường, nghe tiếng trống lớn, tiếng trống
nhỏ, tiếng loa, tiếng xập xỏa và tiếng kiểng. Người ấy nghĩ: "Ðây là tiếng
trống lớn, đây là tiếng trống nhỏ, đây là tiếng loa, tiếng xập xỏa, tiếng
kiểng. Cũng vậy, này Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và
các đệ tử của Ta, y cứ con đường tu hành này, với thiên nhĩ, thanh tịnh, siêu
nhân, có thể nghe được hai loại tiếng, chư Thiên và Người, xa và gần. Và ở đây,
này Udayi, các đệ tử của Ta phần đông an trú, sau khi chứng ngộ nhờ thắng trí
và chứng đắc cứu cánh viên mãn.
(16. Tha tâm thông)
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ
tử. Và các đệ tử của Ta y cứ con đường tu hành này, sau khi đi sâu vào tâm của
chúng sanh, của loài người với tâm của mình được biết như sau: "Tâm tham
biết là tâm tham; tâm không tham, biết là tâm không tham. Tâm sân, biết là tâm
sân; tâm không sân, biết là tâm không sân. Tâm si, biết là tâm si; tâm không
si, biết là tâm không si. Tâm chuyên chú, biết là tâm chuyên chú; tâm không
chuyên chú, biết là tâm không chuyên chú. Tâm đại hành, biết là tâm đại hành;
tâm không đại hành, biết là tâm không đại hành. Tâm chưa vô thượng, biết là tâm
chưa vô thượng; tâm vô thượng biết là tâm vô thượng. Tâm Thiền định, biết là
tâm Thiền định; tâm không Thiền định, biết là tâm không Thiền định. Tâm giải
thoát, biết là tâm giải thoát; tâm không giải thoát, biết là tâm không giải
thoát". Ví như, này Udayi, một người đàn bà, một người đàn ông, một thiếu
niên trẻ hay một thanh niên ưa trang sức, nhìn mặt của mình trong tấm gương
trong sạch sáng suốt, hay một chậu nước trong; nếu mặt có tỳ vết, liền biết mặt
có tỳ vết; nếu mặt không có tỳ vết, liền biết mặt không có tỳ vết. Cũng vậy,
này Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của
Ta, y cứ con đường tu hành này, sau khi đi sâu vào tâm của chúng sanh, của loài
người với tâm của mình được biết như sau: "Tâm tham, biết là tâm tham; tâm
không tham biết là tâm không tham. Tâm sân, biết là tâm sân; tâm không sân,
biết là tâm không sân. Tâm si biết là tâm si; tâm không si biết là tâm không
si. Tâm chuyên chú, biết là tâm chuyên chú; tâm không chuyên chú; biết là tâm
không chuyên chú. Tâm đại hành, biết là tâm đại hành; tâm không đại hành, biết
là tâm không đại hành. Tâm chưa vô thượng, biết là tâm chưa vô thượng; tâm vô
thượng biết là tâm vô thượng. Tâm Thiền định, biết là tâm Thiền định; tâm không
Thiền định, biết là tâm không Thiền định. Tâm giải thoát; biết là tâm giải
thoát; tâm không giải thoát, biết là tâm không giải thoát". Và ở đây, này
Udayi, các đệ tử của Ta phần đông an trú, sau khi chứng ngộ nhờ thắng trí và
chứng đắc cứu cánh viên mãn.
(17. Túc mạng thông)
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ
tử. Và các đệ tử của Ta y cứ con đường tu hành này, nhớ đến các đời sống quá
khứ như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba
mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời,
một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp.
Vị ấy nhớ rằng: "Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này,
giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này.
Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như
thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này,
tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở
đây". Như vậy các vị ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với nét đại
cương và các chi tiết. Ví như, này Udayi, một người đi từ làng mình đến làng
khác, từ làng ấy đi đến một làng khác nữa, và từ làng này lại trở về làng của
mình. Người ấy nghĩ: "Ta từ làng của mình đi đến làng kia, nơi đây ta đã
đứng như thế này, đã ngồi như thế này, đã nói như thế này, đã yên lặng như thế
này. Từ nơi làng nọ, ta đã trở về làng của ta". Cũng vậy, này Udayi, Ta
thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y cứ con
đường tu hành này, nhớ đến các đời sống quá khứ như một đời, hai đời... Như vậy
các vị ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi
tiết. Và ở đây, này Udayi, các đệ tử của Ta phần đông an trú, sau khi chứng ngộ
nhờ thắng trí và chứng đắc cứu cánh viên mãn.
(18. Thiên nhãn thông)
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ
tử. Và các đệ tử của Ta y cứ con đường tu hành này, với thiên nhãn thuần tịnh
siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Những vị ấy biết rõ rằng chúng
sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất
hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Những chúng sanh nào làm những ác hạnh về
thân, lời và ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà
kiến; những người này sau khi thân hoại mạng chung phải sanh vào cõi dữ, ác
thú, đọa xứ, địa ngục. Còn những chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân,
lời và ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo
chánh kiến; những người này, sau khi thân hoại mạng chung được sanh lên các
thiện thú, cõi Trời, trên đời này. Như vậy, các vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh
siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Những vị ấy biết rõ rằng chúng
sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất
hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Ví như, này Udayi, một tòa lầu có thượng đài giữa
ngã tư đường, một người có mắt đứng trên ấy, sẽ thấy những người đi vào nhà, đi
từ nhà ra, đi qua lại trên đường, ngồi ở giữa ngã tư hay trên đài thượng. Người
ấy nghĩ: "Những người này đi vào nhà, những người này đi từ nhà ra, những
người này đi qua lại trên đường, những người này ngồi giữa ngã tư hay trên đài
thượng". Cũng vậy, này Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ
tử. Và các đệ tử của Ta y cứ con đường tu hành này, với thiên nhãn thuần tịnh,
siêu nhân, thấy sự sống và sự chết của chúng sanh. Những vị ấy biết rõ rằng
chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn
kẻ bất hạnh... đều do hạnh nghiệp của
họ. Và ở đây, này Udayi, các đệ tử của Ta phần đông an trú sau khi chứng ngộ
nhờ thắng trí và chứng đắc cứu cánh viên mãn.
(19. Lậu tận thông)
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ
tử. Và các đệ tử của Ta y cứ con đường tu hành này, sau khi đoạn tận các lậu
hoặc, tự mình chứng ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại
vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Ví như, này Udayi, tại dãy núi lớn có
một hồ nước thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, một người có mắt đứng trên
bờ sông thấy con hến, con sò, những hòn đá, hòn sạn, những đàn cá bơi qua lại,
hay đứng một chỗ. Vị ấy nghĩ: "Ðây là hồ nước thuần tịnh, trong sáng,
không cấu nhiễm. Ðây là những con hến, con sò, những hòn đá, hòn sạn, những đàn
cá đang bơi qua lại hay đứng yên một chỗ". Cũng vậy, này Udayi, Ta thuyết
giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y cứ con đường tu
hành này, sau khi đoạn tận các lậu hoặc, tự mình chứng ngộ với thắng trí, chứng
đạt và an trú ngay trong hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Và ở
đây, này Udayi, các đệ tử của Ta phần đông an trú, sau khi chứng ngộ nhờ thắng
trí và chứng đắc cứu cánh viên mãn.
Này Udayi, đây là pháp thứ năm, do pháp này các đệ tử của Ta cung
kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường Ta và sau khi cung kính, tôn trọng, sống
nương tựa vào Ta.
Này Udayi, do năm pháp này, các đệ tử của Ta cung kính, tôn trọng,
kính lễ, cúng dường Ta và sau khi cung kính, tôn trọng, sống nương tựa vào Ta.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Du sĩ Sakuludayi hoan hỷ, tín thọ
lời Thế Tôn dạy.
.
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 1. Bài kinh nầy là một trong số ít bài kinh chứng đựng Phật ngôn trình bày về hành trình tu tập với rất nhiều chi tiết quan trọng. Con đường phạm hạnh hoàn chỉnh như vậy có phải là hành trình mà tất cả người tu Phật phải thành tựu đầy đủ? - TT Tuệ Quyền
Thảo luận 2. Ngày nay người ta thường chú trọng một pháp môn nào đó để tu tập. Sự ứng dụng nhiều pháp hành khác nhau có tạo nên trở ngại phân tâm? - TT Pháp Tân
Thảo luận 3. Tại sao Đức Phật thường dùng nhiều thí dụ minh hoạ thay vì mô tả trực tiếp? - ĐĐ Pháp Tín
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment