Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Pháp Đăng
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 4/3/2020
68. Kinh Nalakapàna (Nalakapàna sutta)
789. Tại sao gọi là Kinh Nalakapàna ?
Tên bài kinh lấy từ địa danh Nalakapàna, một thị trấn của xứ
Kosala nơi Đức Phật giảng bài kinh nầy.
790. Đại ý Kinh Nalakapàna là gì?
Trong một trường hợp khác đặc biệt đó là một ngày mà Đức Thế Tôn
ngồi giữa trời vây quanh là những tỳ kheo trẻ tuổi nhưng đầy ý chí tu tập và có
thành tựu lớn trong đời phạm hạnh. Đức Phật đã nêu lên hai câu hỏi là các vị nầy
có hoan hỷ với đời sống xuất gia và nghĩ gì về Đức Phật. Từ hai câu hỏi nầy Bậc
Đạo sư đã có những gợi ý quan trọng trong sự nhận thức về Đức Phật và giáo pháp.
791. Duyên sự bài kinh nầy bắt đầu thế nào?
Giữa Tăng hội gồm những vị tỳ kheo trẻ nhưng đã trưởng thành trong
giáo pháp Đức Phật đã nêu lên câu hỏi:
Lúc bấy giờ nhiều Thiện gia nam tử có danh tiếng, vì lòng tin Thế
Tôn, đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, như Tôn giả Anuruddha
(A-na-luật-đà), Tôn giả Nandiya, Tôn giả Kimbila, Tôn giả Bhagu, Tôn giả
Kundadhana, Tôn giả Revata, Tôn giả Ananda và một số Thiện gia nam tử danh
tiếng khác.
Lúc bấy giờ, Thế Tôn ngồi ở giữa trời, có chúng Tỷ-kheo vây quanh.
Rồi Thế Tôn nhân vì các Thiện gia nam tử ấy, bảo các Tỷ-kheo:
-- Này các Tỷ-kheo, các Thiện gia nam tử ấy vì lòng tin Ta đã xuất
gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo ấy có
hoan hỷ trong Phạm hạnh không?
Mặc dù không phải là một câu hỏi khó trả lời nhưng tất cả tỳ kheo
đều không biết nên trả lời như tiếng nói đại diện cho tất cả:
Khi được nói vậy, các Tỷ-kheo ấy giữ im lặng. Lần thứ hai... lần
thứ ba, rồi Thế Tôn, nhân vì các Thiện gia nam tử ấy, bảo các Tỷ-kheo:
-- Này các Tỷ-kheo, các Thiện gia nam tử ấy vì lòng tin Ta đã xuất
gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo ấy có
hoan hỷ trong Phạm hạnh không?
Cho đến lần thứ ba, các Tỷ-kheo ấy giữ im lặng.
Đức Thế Tôn nghĩ rằng nên hỏi một trong số đó sẽ dễ có câu trả
lời:
Rồi Thế Tôn suy nghĩ như sau: "Nay Ta hãy hỏi các Thiện gia
nam tử ấy".
Rồi Thế Tôn bảo Tôn giả Anuruddha:
-- Này Anuruddha, các Ông có hoan hỷ trong phạm hạnh không?
-- Bạch Thế Tôn, thật sự chúng con hoan hỷ trong Phạm hạnh.
-- Lành thay, lành thay, Anuruddha. Này Anuruddha, thật
xứng đáng cho các Ông, những Thiện gia nam tử, vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia
đình, sống không gia đình, các Ông có hoan hỷ trong Phạm hạnh. Này Anuruddha, trong khi các Ông với tuổi trẻ tốt đẹp, trong tuổi thanh xuân, với
tóc đen nhánh, có thể hưởng thụ các dục lạc, thời các Ông, này Anuruddha,
với tuổi trẻ tốt đẹp, trong tuổi thanh xuân, với tóc đen nhánh, lại xuất gia,
từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Này Anuruddha, các Ông không vì mệnh
lệnh của vua mà xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Các Ông không vì
mệnh lệnh của kẻ ăn trộm mà xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Các
Ông không vì nợ nần, không vì sợ hãi, không vì mất nghề sinh sống mà xuất gia,
từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Nhưng có phải với tư tưởng như sau:
"Ta bị sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, não áp bức, bị khổ áp bức, bị khổ
chi phối. Tuy vậy, ta mong có thể thấy được sự chấm dứt toàn bộ khổ uẩn
này" mà các Ông, này Anuruddha, vì lòng tin, xuất gia từ bỏ gia đình,
sống không gia đình?
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
-- Và xuất gia như vậy, này Anuruddha, người Thiện gia nam tử
cần phải làm gì? Này các Anuruddha, ly dục, ly bất thiện pháp. Nếu không chứng
được hỷ lạc hay một trạng thái khác an tịnh hơn, thời dục tham xâm chiếm tâm và
an trú, sân xâm chiếm tâm và an trú, hôn trầm thụy miên... trạo cử, hối quá...
nghi hoặc... bất lạc... giải đãi xâm chiếm tâm và an trú. Này Anuruddha,
khi chưa ly dục, chưa ly bất thiện pháp, vị ấy không chứng được hỷ lạc hay một
trạng thái khác an tịnh hơn. Này Anuruddha, ly dục, ly bất thiện pháp, vị
ấy chứng được hỷ lạc hay một trạng thái khác an tịnh hơn, thời dục tham không
xâm chiếm tâm và an trú, sân không xâm chiếm tâm và an trú, hôn trầm thụy
miên... trạo cử hối quá... nghi hoặc... bất lạc... giải đãi không xâm chiếm tâm
và an trú. Này Anuruddha, ly dục, ly bất thiện pháp, vị ấy chứng được hỷ
lạc hay một trạng thái khác an tịnh hơn.
792. Rồì sau đó Đức Thế Tôn đã nói gì?
Đức Phật lại nêu lên một câu hỏi liên quan tới chính bản thân Ngài:
Này Anuruddha, các Ông nghĩ về Ta như thế nào? Các lậu hoặc
nào liên hệ đến phiền não sanh khởi hậu hữu, đáng sợ hãi, đưa đến quả khổ di
thục, hướng đến sanh, già, chết trong tương lai, các lậu hoặc ấy chưa được Như
Lai đoạn trừ. Do vậy, Như Lai sau khi suy tư phân tích, thọ dụng một pháp; sau
khi suy tư phân tích, nhẫn thọ một pháp; sau khi suy tư phân tích, từ bỏ một
pháp, sau khi suy tư phân tích, đoạn trừ một pháp?
-- Bạch Thế Tôn, chúng con không có nghĩ như vậy về Thế Tôn:
"Các lậu hoặc nào liên hệ đến phiền não, sanh khởi hậu hữu, đáng sợ hãi,
đưa đến quả khổ dị thục, hướng đến sanh, già, chết trong tương lai, các lậu
hoặc ấy chưa được Như Lai đoạn trừ. Do vậy, Như Lai sau khi suy tư phân tích,
thọ dụng một pháp; sau khi suy tư phân tích, nhẫn thọ một pháp; sau khi suy tư
phân tích, từ bỏ một pháp; sau khi suy tư phân tích, đoạn trừ một pháp".
Bạch Thế Tôn, chúng con nghĩ về Thế Tôn như sau: "Các lậu hoặc nào liên hệ
đến phiền não, sanh khởi hậu hữu, đáng sợ hãi, đưa đến quả khổ dị thục, hướng
đến sanh, già, chết trong tương lai, các lậu hoặc ấy đã được Như Lai đoạn trừ.
Do vậy, Như Lai sau khi suy tư phân tích, thọ dụng một pháp; sau khi suy tư
phân tích, nhẫn thọ một pháp, sau khi suy tư phân tích, từ bỏ một pháp; sau khi
suy tư phân tích, đoạn trừ một pháp.
-- Lành thay, lành thay, này Anuruddha! Các lậu hoặc liên hệ
đến phiền não, sanh khởi hậu hữu, đáng sợ hãi, đưa đến quả khổ dị thục, hướng
đến sanh, già, chết trong tương lai đã được Như Lai đoạn trừ, cắt tận gốc rễ,
làm cho như thân cây tala không thể sanh lại, không thể sanh khởi trong tương
lai. Ví như, này Anuruddha, cây tala đầu cây đã bị chặt đứt, không thể lớn
lên nữa, cũng vậy này Anuruddha, các lậu hoặc liên hệ đến phiền não... đã
được Như Lai đoạn trừ, cắt tận gốc rễ, làm cho như thân cây tala không thể sanh
lại, không thể sanh khởi trong tương lai. Do vậy, Như Lai sau khi suy tư phân
tích, thọ dụng một pháp; sau khi suy tư phân tích, nhẫn thọ một pháp; sau khi
suy tư phân tích, từ bỏ một pháp; sau khi suy tư phân tích, đoạn trừ một pháp.
793. Đức Phật đã giải thích thế nào khi Ngài đề cập tới sự tái
sanh của một số đệ tử?
Mặc dù khi Đức Thế Tôn còn tại thế Ngài thường dạy về nhân quả
trong hiện kiếp và những thành tựu ngay trong hiện tại của sự tu tập nhưng thỉnh
thoảng Ngài lại đề cập sự tái sanh của một số tỳ kheo, tỳ kheo ni, nam cư sĩ, nữ
cư sĩ không phải vì Đức Phật muốn nói chuyện xa xôi mà vì có những lợi ích thực
tiễn:
-- Bạch Thế Tôn, đối với chúng con, các pháp dựa Thế Tôn làm căn
bản, hướng Thế Tôn làm lãnh đạo, nương tựa Thế Tôn làm y cứ. Bạch Thế Tôn, tốt
lành thay nếu Thế Tôn thuyết giảng cho ý nghĩa này. Sau khi được nghe Thế Tôn,
các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.
-- Này Anuruddha, Như Lai không vì mục đích lường gạt quần
chúng, không vì mục đích nịnh hót quần chúng, không vì mục đích lợi lộc, trọng
vọng, danh xưng, quyền lợi vật chất, không vì với ý nghĩ: Như vậy quần chúng sẽ
biết Ta"; mà Như Lai giải thích sự tái sanh các vị đệ tử đã từ trần đã
mệnh chung, nói rằng: "Vị này tái sanh ở chỗ này, vị này tái sanh ở chỗ
này". Và này Anuruddha, có những Thiện gia nam tử có tin tưởng với tín
thọ cao thượng, với hoan hỷ cao thượng, sau khi được nghe như vậy, sẽ chú tâm
trên như thật (Tathata). Như vậy, này Anuruddha, là hạnh phúc, là an lạc
lâu đời cho các vị ấy.
Cho dù mỗi trường hợp có nhiều khác biệt vẫn hữu ích:
Ở đây, này Anuruddha, Tỷ-kheo có nghe: "Tỷ-kheo với tên
như thế này đã mệnh chung. Thế Tôn có tuyên bố về vị này: "Vị ấy an trú
chánh trí". Vị Tôn giả ấy đã được thấy hay đã được nghe: "Tôn giả này
có giới hạnh như vậy, Tôn giả này có pháp như vậy, Tôn giả này có trí tuệ như
vậy, Tôn giả này có an trú như vậy, Tôn giả này có giải thoát như vậy".
Tỷ-kheo khi nhớ đến lòng tin, giới hạnh, đa văn, bố thí và trí tuệ của vị kia,
bèn chú tâm trên như thật. Như vậy, này Anuruddha, Tỷ-kheo được sống lạc
trú.
Ở đây, này Anuruddha, Tỷ-kheo có nghe: "Tỷ-kheo với tên
như thế này, đã mệnh chung. Thế Tôn có tuyên bố về vị này: "Sau khi đoạn
trừ năm hạ phần kiết sử vị ấy được hóa sanh, nhập Niết-bàn tại chỗ ấy, không
còn phải trở lui ở đời này nữa". Tôn giả ấy đã được thấy hay đã được nghe:
"Tôn giả này có giới hạnh như vậy, Tôn giả này có pháp như vậy... có trí tuệ như vậy,... có an trú như vậy,
Tôn giả này có giải thoát như vậy". Tỷ-kheo khi nhớ đến lòng tin... và trí tuệ của vị kia, bèn chú tâm trên như
thật. Như vậy, này Anuruddha, Tỷ-kheo được sống lạc trú.
Ở đây, này Anuruddha, Tỷ-kheo có nghe: "Tỷ-kheo với tâm
như thế này đã mệnh chung. Thế Tôn có tuyên bố về vị này: "Sau khi diệt
trừ ba kiết sử, sau khi làm cho nhẹ bớt tham, sân, si, vị ấy chứng Nhất Lai,
chỉ phải trở lui đời này một lần nữa rồi sẽ diệt tận khổ đau". Tôn giả ấy
đã được thấy hay đã được nghe: "Tôn giả này có giới hạnh như vậy... Tôn
giả này có giải thoát như vậy". Tỷ-kheo khi nhớ đến lòng tin... và trí tuệ
của vị kia, bèn chú tâm trên như thật. Như vậy, này Anuruddha, Tỷ-kheo được
sống lạc trú.
Ở đây, này Anurudha, Tỷ-kheo có nghe: "Tỷ-kheo với tên
như thế này đã mệnh chung. Thế Tôn có tuyên bố về vị này: "Sau khi diệt
trừ ba kiết sử, chứng quả Dự lưu, không còn bị đọa lạc, chắc chắn chứng được
chánh giác". Tôn giả ấy đã được thấy hay đã được nghe: "Tôn giả này
có giới hạnh như vậy... Tôn giả này có giải thoát như vậy". Tỷ-kheo khi
nhớ đến lòng tin... và trí tuệ của vị kia, bèn chú tâm trên như thật. Như vậy,
này Anuruddha, Tỷ-kheo được sống lạc trú.
Đối với các tỳ kheo ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ cũng đem lại lợi ích
tương tự. Và Đức Phật cũng nhấn mạnh:
Như vậy, này Anuruddha, Như Lại không vì mục đích lường gạt
quần chúng, không vì mục đích nịnh hót quần chúng, không vì mục đích được lợi
lộc, trọng vọng, danh xưng, quyền lợi vật chất, không vì với ý nghĩ: "Như
vậy quần chúng sẽ biết Ta", mà Như Lai giải thích sự tái sanh của các đệ
tử đã từ trần, đã mệnh chung, nói rằng: "Vị này tái sanh ở chỗ này, vị này
tái sanh ở chỗ này". Và này các Anuruddha, có những Thiện gia nam tử có
tin tưởng, với tín thọ cao thượng, với hoan hỷ cao thượng, sau khi được nghe
như vậy, sẽ chú tâm trên như thật. Như vậy, này Anuruddha, là hạnh phúc, là
an lạc lâu đời cho các vị ấy.
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 1. Khi Đức Phật dạy về kiếp trước và đời sau có lợi ích thiết thực gì cho hiện tại? - TT Tuệ Quyền Thảo luận 2. Câu nói “Như Lai sau khi suy tư phân tích, thọ dụng một pháp; sau khi suy tư phân tích, nhẫn thọ một pháp; sau khi suy tư phân tích, từ bỏ một pháp; sau khi suy tư phân tích, đoạn trừ một pháp" không phải vì lậu hoặc chưa đoạn trừ. Điều nầy mang ý nghĩa thế nào? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 3. Này Anuruddha, trong khi các Thầy với tuổi trẻ tốt đẹp, trong tuổi thanh xuân, với tóc đen nhánh, có thể hưởng thụ các dục lạc, thời các Thầy, này Anuruddha, với tuổi trẻ tốt đẹp, trong tuổi thanh xuân, với tóc đen nhánh, lại xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Này các Anuruddha, các Thầy không vì mệnh lệnh của vua mà xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Các Thầy không vì mệnh lệnh của kẻ ăn trộm mà xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Các Thầy không vì nợ nần, không vì sợ hãi, không vì mất nghề sinh sống mà xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Nhưng có phải với tư tưởng như sau: "Ta bị sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, não áp bức, bị khổ áp bức, bị khổ chi phối. Tuy vậy, ta mong có thể thấy được sự chấm dứt toàn bộ khổ uẩn này". Tại sao không nói mục đích của đi tu là để thành chánh quả hay đạt được quả vị nào đó? - ĐĐ Pháp Tín
Thảo luận 4. Đức Phật từng dạy rằng: Như Lai thuyết pháp với sự cẩn thận chứ không phải không cẩn thận. Phải chăng Đức Thế Tôn chưa đủ sự tự tại khi thuyết pháp?
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment