Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Giác Đẳng
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 16/3/2020
76. Kinh Sandaka (Sandaka sutta)(tiếp theo)
847. Bốn điều bất an cho người tu tập được Tôn giả Ananda trình
bày là gì?
Những người tu tập sẽ bị ảnh hưởng lớn từ các bậc thầy của mình.
Đức Phật dạy có bốn trường hợp các đạo sự khiến đệ tử không an tâm tu tập:
Tôn giả Ananda, thế nào là bốn pháp bất an phạm hạnh được Thế Tôn,
bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tuyên bố, và ở đây người
có trí không thể tự mình sống theo hạnh ấy, và nếu sống, thời không thể thành
đạt chánh đạo, pháp, và chí thiện?
[Vị giáo chủ tuyên bố có toàn tri toàn thời gian]
Ở đây, này Sandaka, có bậc Ðạo sư nhứt thiết tri, nhứt thiết kiến,
tự xem đã chứng được tri kiến hoàn toàn: "Khi ta đi, ta đứng, ta ngủ và ta
thức, tri, kiến được an trú ở trong ta, liên tục, không gián đoạn". Vị ấy
đi vào một nhà trống, không nhận được đồ ăn khất thực, và con chó cắn vị ấy, vị
ấy gặp voi dữ, gặp người dữ, gặp bò dữ, và vị ấy hỏi tên và họ một người đàn
bà, một người đàn ông, và hỏi tên những con đường của làng, của trị trấn. Vị ấy
được hỏi: "Sao như thế này?", và trả lời: "Ta phải vào một nhà
trống, do vậy ta đã vào; ta phải không nhận được đồ ăn khất thực, do vậy ta đã
không nhận được đồ ăn khất thực. Có người phải bị chó cắn, do vậy ta đã bị chó
cắn. Có người phải gặp voi dữ, do vậy ta đã gặp; phải gặp ngựa dữ, do vậy ta đã
gặp, phải gặp bò dữ, do vậy ta đã gặp. Có người phải hỏi tên và họ một người
đàn bà, một người đàn ông, do vậy ta đã hỏi. Có người phải hỏi tên những con
đường của làng, của thị trấn, do vậy ta đã hỏi".
Ở đây, này Sandaka, người có trí suy tư như sau: "Vị Tôn sư
này là nhất thiết tri, nhứt thiết kiến... , do vậy ta đã hỏi". Vị ấy sau
khi biết: "Hạnh này là bất an", nên yểm ly hạnh ấy và bỏ đi.
Này Sandaka, đây là bất an phạm hạnh thứ nhất, được Thế Tôn, bậc
Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tuyên bố, và ở đây người có
trí không thể tự mình sống theo hạnh ấy, và nếu sống, thời không thể thành đạt
chánh đạo, pháp và chí thiện.
[Vị giáo chủ luôn tuyên bố sự trung thành với sự truyền thừa nhưng
không nắm rõ, nhớ rõ những giá trị truyền thống]
Lại nữa, này Sandaka, ở đây, có vị Ðạo sư y cứ truyền thuyết, xem
truyền thuyết là chân thật, vị này thuyết pháp theo truyền thuyết, theo tương
truyền và truyền thống, theo uy tín Thánh tạng. Này Sandaka, nếu vị Ðạo sư y cứ
truyền thuyết, xem truyền thuyết là chân thật, vị ấy có phần khéo nhớ, có phần
không khéo nhớ, khi thì như thế này, khi thì như thế khác.
Ở đây, này Sandaka, người có trí suy tư: "Vị Tôn sư này y cứ
truyền thuyết, xem truyền thuyết là chơn thật, vị này thuyết pháp theo truyền
thuyết, theo tương truyền và truyền thống, theo uy tín Thánh tạng. Nếu vị Ðạo
sư y cứ truyền thuyết, xem truyền thuyết là chơn thật, vị ấy có phần khéo nhớ,
có phần không khéo nhớ, khi thì như thế này, khi thì như thế khác. Vị ấy sau
khi biết: "Hạnh này là bất an", nên yểm ly hạnh ấy và bỏ đi.
Này Sandaka, đây là bất an phạm hạnh thứ hai, được Thế Tôn, bậc
Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tuyên bố, và ở đây người có
trí không thể tự mình sống theo hạnh ấy, và nếu sống, thời không thể thành đạt
chánh đạo, pháp, và chí thiện.
[Vị giáo chủ luôn tuyên bố chân lý dựa trên lý luận nhưng lập luận
không vững]
Lại nữa, này Sandaka, ở đây có vị Ðạo sư là nhà lý luận, là nhà
suy luận. Do sự đả phá của lý luận và y cứ theo suy luận, vị này thuyết pháp
theo nguyên tắc tự mình sáng tác. Này Sandaka, nếu vị Ðạo sư là nhà lý luận, là
nhà suy luận, vị ấy có phần khéo lý luận, có phần không khéo lý luận, khi thì
như thế này, khi thì như thế khác.
Ở đây, này Sandaka, người có trí suy nghĩ: "Vị Tôn sư này là
nhà lý luận, là nhà suy luận. Do sự đả phá của lý luận và y cứ theo suy luận,
vị này thuyết pháp theo nguyên tắc tự mình sáng tác. Nếu vị Ðạo sư là nhà lý
luận, là nhà suy luận, vị ấy có phần khéo lý luận, có phần không khéo lý luận,
khi thì như thế này, khi thì như thế khác. Vị ấy sau khi biết: "Hạnh này
là bất an" nên yểm ly hạnh ấy và bỏ đi.
Này Sandaka đây là bất an phạm hạnh thứ ba, được Thế Tôn, bậc Tri
Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tuyên bố, và ở đây người có trí
không thể tự mình sống theo hạnh ấy, và nếu sống, thì không thể thành đạt chánh
lý, pháp, và chí thiện.
[Vị giáo chủ thường nguỵ biện không trình bày vấn đề một cách tinh
xác]
Lại nữa, này Sandaka, ở đây có vị Ðạo sư là người đần độn, là
người ngu si. Vì đần độn ngu si, khi được hỏi về vấn đề này, vấn đề khác, vị ấy
dùng những lời ngụy biện trườn uốn như con lươn: "Theo tôi không phải như
vậy, theo tôi không phải như kia, theo tôi không khác như thế, theo tôi không
phải như thế, theo tôi không không phải như thế".
Ở đây, này Sandaka, người có trí suy tư: "Vị Tôn sư này là
người đần độn, là người ngu si... , theo tôi không phải như thế". Vị ấy
sau khi biết: "Hạnh này là bất an", nên yểm ly hạnh ấy và bỏ đi.
Này Sandaka, đây là bất an phạm hạnh thứ tư, được Thế Tôn, bậc Tri
Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tuyên bố, và ở đây người có trí
không thể tự mình sống theo hạnh ấy, và nếu sống, thì không thể thành đạt chánh
đạo, pháp và chí thiện.
Này Sandaka, bốn bất an phạm hạnh này được Thế Tôn, bậc Tri Giả,
Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tuyên bố, và ở đây người có trí không
thể tự mình sống theo hạnh ấy, và nếu sống, thì không thể thành đạt chánh lý,
pháp và chí thiện.
-- Thật vi diệu thay, Tôn giả Ananda! Thật hy hữu thay, Tôn giả
Ananda! Bốn pháp bất an phạm hạnh này đã được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả,
bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tuyên bố là bất an phạm hạnh, và ở đây người trí
không thể tự mình sống theo hạnh ấy, và nếu sống, thì không thể thành đạt chánh
lý, pháp, và chí thiện.
848. Thế nào là con đường phạm hạnh được Đức Thế Tôn truyền dạy?
Rồi Sandaka hỏi về hành trình tu tu tập. Tôn giả Ananda cho biết
đó là con đường có nhiều giai đoạn:
Thưa Tôn giả Ananda, vị Ðạo sư ấy dạy những gì, tuyên bố những gì,
mà ở đây, người có trí có thể tự mình sống Phạm hạnh, và khi sống, có thể thành
đạt chánh lý, pháp, và chí thiện?
[Thành tựu niềm tin hay tín thành tựu]
-- Ở đây, này Sandaka, Như Lai xuất hiện ở đời là bậc A-la-hán,
Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự
Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Như Lai sau khi riêng tự chứng ngộ
với thượng trí, thế giới này là Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, gồm cả
thế giới này với Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Nhơn, lại tuyên bố điều Ngài đã
chứng ngộ. Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, đầy đủ văn nghĩa,
Ngài truyền dạy Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh.
Người gia trưởng hay con người gia trưởng, hay một người sanh ở
giai cấp (hạ tiện) nghe pháp ấy, sau khi nghe pháp, người ấy sanh lòng tín
ngưỡng Như Lai. Khi có lòng tín ngưỡng ấy, người ấy suy nghĩ: "Ðời sống
gia đình đầy những triền phược, con đường đầy những bụi đời. Ðời sống xuất gia
phóng khoáng như hư không. Thật không dễ gì cho một người sống ở gia đình có
thể sống theo Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như
vỏ ốc. Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống
không gia đình". Một thời gian sau, người ấy bỏ tài sản nhỏ, hay bỏ tài
sản lớn, bỏ bà con quyến thuộc nhỏ, hay bỏ bà con quyến thuộc lớn, cạo bỏ râu
tóc, đắp áo cà-sa, và xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
[Thành tựu giới hạnh hay giới thành tựu]
Vị ấy xuất gia như vậy, hành trì các học giới và hạnh sống các
Tỷ-kheo, từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết xấu hổ, sợ
hãi, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu
tình. Vị ấy từ bỏ lấy của không cho, tránh xa lấy của không cho, chỉ mong những
vật đã cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp. Vị ấy từ bỏ đời sống không
Phạm hạnh, sống theo Phạm hạnh, sống đời sống viễn ly, tránh xa dâm dục hạ
liệt.
Vị ấy từ bỏ nói láo, nói những lời chân thật, liên hệ đến sự thật,
chắc chắn, đáng tin cậy, không lường gạt đời. Vị ấy từ bỏ nói hai lưỡi, tránh
xa nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, không đến chỗ kia nói để sanh chia rẽ
ở những người này; nghe điều gì ở chỗ kia, không đi nói với những người này để
sanh chuyện chia rẽ ở những người kia. Như vậy, vị ấy sống hòa hợp những kẻ ly
gián, khuyến khích những kẻ hòa hợp, hoan hỷ trong hòa hợp, thích thú trong hòa
hợp, hân hoan trong hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp. Vị ấy từ bỏ nói độc
ác, tránh xa lời nói độc ác, nói những lời nói dịu hiền, đẹp tai, dễ thương,
thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người; vị ấy nói những lời nói như
vậy. Vị ấy từ bỏ lời nói phù phiếm, tránh xa lời nói phù phiếm, nói đúng thời,
nói chân thật, nói có ý nghĩa, nói pháp, nói luật, nói những lời đáng được gìn
giữ, những lời hợp thời, hợp lý, có mạch lạc hệ thống, có ích lợi.
Vị ấy từ bỏ không làm hại đến các hạt giống và các loại cây cỏ,
dùng một ngày một bữa, không ăn ban đêm; từ bỏ các món ăn phi thời; từ bỏ không
đi xem múa, hát, nhạc, các cuộc trình diễn; từ bỏ không dùng vòng hoa, hương
liệu, dầu thoa, trang sức, và các thời trang; từ bỏ không dùng giường cao và
giường lớn; từ bỏ không nhận vàng và bạc; từ bỏ không nhận các hạt sống; từ bỏ
không nhận thịt sống, từ bỏ không nhận đàn bà con gái; từ bỏ không nhận nô tỳ
gái và trai; từ bỏ không nhận cừu và dê; từ bỏ không nhận gia cầm và heo; từ bỏ
không nhận voi, bò, ngựa và ngựa cái; từ bỏ không nhận ruộng nương đất đai; từ
bỏ không dùng người làm môi giới hoặc tự mình làm môi giới; từ bỏ không buôn
bán; từ bỏ các sự gian lận bằng cân, tiền bạc và đo lường; từ bỏ các tà hạnh
như hối lộ, gian trá, lừa đảo; từ bỏ không làm thương tổn, sát hại, câu thúc,
bức đoạt, trộm cắp, cướp phá.
Vị ấy sống biết đủ, bằng lòng với tấm y để che thân với đồ ăn khất
thực để nuôi sống, đi tại chỗ nào cũng mang theo y và bình bát. Như con chim
bay đến chỗ nào cũng mang theo hai cánh, cũng vậy, Tỷ-kheo bằng lòng với tấm y
để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo.
Vị ấy thành tựu Thánh giới uẩn này, nội tâm hưởng lạc thọ không khuyết phạm.
Khi mắt thấy sắc, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ
tướng riêng. Những nguyên nhân gì, vì con mắt không được chế ngự, khiến tham
ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, vị ấy tự chế ngự các nguyên nhân
ấy, hộ trì con mắt, thực hành sự hộ trì con mắt. Khi tai nghe tiếng... mũi ngửi
hương... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc... ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm
giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng, những nguyên nhân gì, vì ý căn
không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, vị ấy
chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn. Vị ấy thành
tựu Thánh hộ trì các căn này, nội tâm hưởng lạc thọ không uế nhiễm.
Vị ấy khi đi tới, khi đi lui đều tỉnh giác; khi nhìn thẳng, khi
nhìn quanh đều tỉnh giác; khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác; khi mang y
kép, bình bát, thượng y đều tỉnh giác; khi ăn, uống, nhai, nuốt đều tỉnh giác;
khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác; khi đi, đứng, ngồi, nằm, thức, nói,
yên lặng đều tỉnh giác.
[Thành tựu thiền định]
Vị ấy thành tựu Thánh giới uẩn này, thành tựu Thánh hộ trì các căn
này, thành tựu Thánh chánh niệm tỉnh giác này, lựa một trú xứ thanh vắng, như
khu rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây ngoài trời, đống rơm.
Sau khi ăn xong và đi khất thực trở về, vị ấy ngồi kiết-già, lưng
thẳng tại chỗ nói trên, và an trú chánh niệm trước mặt. Vị ấy từ bỏ dục tham ở
đời, sống với tâm thoát ly dục tham, gột rửa tâm hết dục tham. Từ bỏ sân hận,
vị ấy sống với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng sanh hữu
tình, gột rửa tâm hết sân hận. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, vị ấy sống thoát ly
hôn trầm thụy miên, với tâm tưởng hướng về ánh sáng, chánh niệm tỉnh giác, gột
rửa tâm hết hôn trầm thụy miên. Từ bỏ trạo cử, hối quá, vị ấy sống không trạo
cử, nội tâm trầm lặng, gột rửa tâm hết trạo cử, hối quá. Từ bỏ nghi ngờ, vị ấy
sống thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối
với thiện pháp.
Sau khi trừ bỏ năm triền cái này, các pháp làm tâm cấu uế, làm trí
tuệ trở thành yếu ớt, vị ấy ly dục, ly bất thiện pháp, chứng đạt và an trú Sơ
thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm, với tứ. Này Sandaka, nếu
một đệ tử chứng được ưu thắng đặc thù như vậy dưới một vị Ðạo sư, thời ở đây
người có trí có thể tự mình sống Phạm hạnh, và khi sống có thể thành đạt chánh
đạo, pháp, và chí thiện.
Lại nữa, này Sandaka, vị Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng đạt và an
trú Nhị thiền... chứng đạt và an trú Tam thiền... chứng đạt và an trú Tứ thiền.
Này Sandaka, nếu một đệ tử chiếm được ưu thắng đặc thù như vậy dưới một Ðạo
sư... thành đạt chánh đạo, pháp, và chí thiện.
[Thành tựu giải thoát]
Với tâm định tĩnh, thanh tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không
phiền não, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc, bất động như vậy, vị ấy, hướng
tâm đến túc mạng trí. Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai
đời... như vậy, vị ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương
và các chi tiết. Này Sandaka, nếu một đệ tử chiếm được ưu thắng đặc thù như vậy
dưới một vị Ðạo sư... thành đạt chánh đạo, pháp, và chí thiện.
Với tâm định tĩnh, thanh tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không
phiền não, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc, bất động như vậy, vị ấy hướng tâm
đến trí tuệ về sanh tử của chúng sanh. Vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh, siêu
nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng, chúng sanh người
hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh... đều
do hạnh nghiệp của họ. Này Sandaka nếu một đệ tử chứng được ưu thắng đặc thù
như vậy dưới một vị Ðạo sư... thành đạt chánh đạo, pháp và chí thiện.
Với tâm định tĩnh thanh tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không
phiền não, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc, bất động như vậy, vị ấy hướng tâm
đến lậu tận trí. Vị ấy như thật biết: "Ðây là Khổ"... vị ấy như thật
biết: "Ðây là con đường đưa đến lậu hoặc diệt".
Vị ấy do biết vậy, do thấy vậy, tâm được giải thoát khỏi dục lậu,
tâm được giải thoát khỏi hữu lậu, tâm được giải thoát khỏi vô minh lậu. Ðối với
tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: "Ta đã giải
thoát". Vị ấy biết: "Sanh đã diệt, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm
đã làm; sau đời hiện tại, không có đời sống nào khác nữa". Này Sandaka,
nếu một đệ tử chứng được ưu thắng đặc thù như vậy dưới một Ðạo sư nào, thời ở
đây người có trí có thể tự mình sống Phạm hạnh, và khi sống có thể thành đạt
chánh đạo, pháp, và chí thiện.
849. Thế nào là hình ảnh của một bậc hoàn toàn giải thoát?
Du sĩ Sandaka cũng hỏi thêm thế nào là hình ảnh của một bậc thánh
viên mãn giải thoát trong giáo lý Phật đà:
-- Nhưng, thưa Tôn giả Ananda, một Tỷ-kheo nào là bậc A-la-hán,
các lậu đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng
xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, đã giải thoát nhờ chánh
trí, vị Tỷ-kheo ấy có thể thọ dụng các dục vọng không?
-- Này Sandaka, vị Tỷ-kheo nào là bậc A-la-hán, các lậu đã tận, tu
hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt
lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, đã giải thoát nhờ chánh trí, vị ấy không thể
vi phạm năm điều: Vị Tỷ-kheo, các lậu đã tận không có thể cố ý sát hại mạng
sống chúng sanh; vị Tỷ-kheo các lậu đã tận không có thể lấy của không cho, được
gọi là ăn trộm; vị Tỷ-kheo các lậu đã tận không có thể hành dâm dục; vị Tỷ-kheo
các lậu đã tận không có thể cố ý nói láo; vị Tỷ-kheo các lậu đã tận không có
thể hưởng thọ các dục đối với các vật được tàng trữ như trước khi còn tại gia.
Này Sandaka, một vị Tỷ-kheo nào là bậc A-la-hán, các lậu đã tận, tu hành thành
mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã
tận trừ hữu kiết sử, đã giải thoát nhờ chánh trí, vị ấy không có thể vi phạm
năm điều này.
-- Thưa Tôn giả Ananda, vị Tỷ-kheo nào là bậc A-la-hán, các lậu đã
tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã
thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, đã giải thoát nhờ chánh trí, khi vị
ấy đi, đứng, ngủ và thức, có phải tri kiến vị ấy được an trú một cách liên tục,
không gián đoạn: "Các lậu hoặc của ta đã được đoạn tận"?
-- Này Sandaka, tôi sẽ cho Ông một ví dụ, nhờ ví dụ ở đây, một số
người có trí sẽ biết ý nghĩa câu nói. Ví như, này Sandaka, một người tay chân
bị chặt; khi người ấy đi, đứng, ngủ và thức, tay chân bị chặt một cách liên
tục, không gián đoạn, và khi người ấy suy tư về vấn đề này, người ấy biết:
"Tay chân của ta bị chặt". Cũng vậy, này Sandaka, vị Tỷ-kheo nào là
bậc A-la-hán, các lậu đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã
đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, đã giải
thoát nhờ chánh trí, khi vị ấy đi, đứng, ngủ và thức, các lậu hoặc được đoạn
tận một cách liên tục, không gián đoạn, và khi vị ấy suy tư về vấn đề này, vị
ấy biết: "Các lậu hoặc của ta đã được đoạn tận".
-- Nhưng thưa Tôn giả Ananda, có bao nhiêu vị lãnh đạo tối thắng
trong Pháp và Luật này?
-- Này Sandaka, không phải chỉ có một trăm, hai trăm, ba trăm, bốn
trăm, năm trăm, mà còn nhiều vị lãnh đạo tối thắng hơn nữa trong Pháp và Luật
này.
850. Sau khi nghe tôn giả Ananda trình bày, du si Sandaka có thái
độ thế nào?
Sandaka thật sự hoan hỷ và cùng toàn thể đồ chúng của mình xuất
gia theo Phật:
-- Thật vi diệu thay, Tôn giả Ananda! Thật hy hữu thay, Tôn giả
Ananda! Không có sự tự tán thán pháp của mình, không có sự hủy báng pháp của
người khác, nhưng cả hai sự thuyết pháp với các hành trì (ayatane) và rất nhiều
vị lãnh đạo tối thắng như vậy đã được thấy (ở đây). Còn các tà mạn ngoại đạo
này là những đứa con của người mẹ không con, họ tự tán thán, khen mình chê
người, và họ chỉ có ba vị lãnh đạo tối thắng, tức là Nanda Vaccha, Kisa
Sankicca và Makkhali Gosala.
Rồi du sĩ Sandaka nói với đồ chúng của mình:
-- Chư Tôn giả, hãy đi và sống Phạm hạnh dưới Sa-môn Gotama, tuy
rằng nay không có dễ gì cho chúng ta từ bỏ quyền lợi, tôn kính và danh tiếng.
Như vậy, du sĩ Sandaka đã đưa đồ chúng của mình sống Phạm hạnh
dưới Sa-môn Gotama.
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 2. Bốn giai đoạn: tín thành tựu, giới thành tựu, thiền định thành tựu, giải thoát thành tựu so sánh thế nào với tam học giới, định, tuệ? - TT Tuệ Siêu
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment