Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Tuệ Quyền
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 31/3/2020
89. Kinh Pháp trang
nghiêm (Dhammacetiya sutta)
Sàvatthi là kinh đô của xứ Kosala. Tại đây Đức Thế tôn đã an cư 24
mùa mưa trong 45 năm hoằng hoá của Ngài. Vua Pasenadi của Kosala với rất nhiều
câu chuyện ghi lại trong kinh điển đã nhiều lần diện kiến Đức Phật và qua lại với
Tăng chúng. Bài kinh nầy ghi lại tâm trạng của nhà vua sau một thời gia ngắn không
gặp được Đức Phật nhưng rất nhớ Ngài. Với sự thể hiện lòng kính thương với Đức
Thế Tôn, nhà vua sau đó trình bày sự cảm nhận đối với Tam Bảo. Những lời của
vua sau nầy được Đức Thế Tôn khuyên dạy chư tỳ kheo lấy đó làm khuôn thước để tự
mình nhắc nhở nên tu tập và trang nghiêm thế nào để gìn giữ niềm ái kính của hàng
tại gia cư sĩ cũng như vun bồi cho đạo hạnh bản thân. Những điểm đề cập trong bài
kinh nầy có ảnh hưởng lớn trong cung cách sinh hoạt ở chùa tại các quốc gia Phật
giáo.
937. Khi vua nhớ Phật
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở giữa dân chúng Sakka (Thích-ca). Medalumpa là
một thị trấn của dân chúng Sakka.
Lúc bấy giờ, vua Pasenadi nước Kosala đi đến Nangaraka vì có một
vài công việc. Rồi vua Pasenadi nước Kosala nói với Digha Karayana:
-- Này Karayana, hãy sửa soạn các cỗ xe thù thắng, ta muốn đi đến
các thượng uyển để ngắm phong cảnh.
-- Thưa vâng, Ðại vương.
Digha Karayana vâng đáp vua Pasenadi nước Kosala, cho sửa soạn các
cỗ xe thù thắng, rồi thưa với vua Pasenadi nước Kosala:
-- Tâu Ðại vương, các cỗ xe thù thắng của Ðại vương đã sửa soạn
xong, nay Ðại vương hãy làm những gì Ðại vương nghĩ là hợp thời.
Rồi vua Pasenadi nước Kosala, leo lên một cỗ xe thù thắng, đi ra
khỏi Nangaraka cùng nhiều cỗ xe thù thắng khác, với tất cả uy vệ của vua chúa,
và đi đến vườn thượng uyển, đi xe cho đến chỗ còn đi xe được, rồi xuống xe đi
bộ, vào vườn thượng uyển, trong khi đi qua đi lại trong vườn thượng uyển, trong
khi tản bộ thưởng ngoạn, vua Pasenadi nước Kosala thấy những gốc cây khả ái,
đẹp mắt, lặng tiếng, ít ồn, vắng người, thoáng gió, xa lánh mọi tụ hội đông
đảo, thích hợp với trầm tư mặc tưởng. Thấy vậy, vua liền nghĩ đến Thế Tôn:
"Những gốc cây khả ái, đẹp mắt, lặng tiếng, ít ồn, vắng người, thoáng gió,
xa lánh mọi tụ hội đông đảo, thích hợp với trầm tư mặc tưởng này, chính tại đây,
chúng ta đảnh lễ Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác". Rồi vua Pasenadi
nước Kosala nói với Digha Karayana:
-- Này Karayana, những gốc cây khả ái... Chánh Ðẳng Giác. Này
Karayana, nay Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác trú tại chỗ nào?
-- Tâu Ðại vương, có một thị trấn của dân chúng Sakka tên là
Medalumpa. Tại đấy, Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đang trú.
-- Này Karayana, Medalumpa, thị trấn của dân chúng Sakka, cách xa
Nangaraka bao nhiêu?
-- Tâu Ðại vương, cách không xa, có ba yojana (do tuần). Có thể đi
đến chỗ ấy trong ngày.
-- Vậy này Karayana, hãy sửa soạn các cỗ xe thù thắng, chúng ta sẽ
đi yết kiến Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác.
-- Thưa vâng, tâu Ðại vương.
Digha Karayana vâng đáp vua Pasenadi nước Kosala, cho sửa soạn các
cỗ xe thù thắng, sau khi sửa soạn xong các cỗ xe thù thắng, liền tâu với vua
Pasenadi nước Kosala:
-- Tâu Ðại vương các cỗ xe thù thắng đã sửa soạn xong, nay Ðại
vương hãy làm những gì Ðại vương nghĩ là hợp thời.
938. Một cử chỉ kính thương vô hạn
Rồi vua Pasenadi nước Kosala, leo lên một cỗ xe thù thắng, và cùng
với các cỗ xe thù thắng khác, từ Nangaraka đi đến Medulampa, thị trấn của dân
chúng Sakka, đến nơi đó nội trong ngày, rồi đi đến tịnh xá. Vua đi xe cho đến
chỗ nào có thể đi xe được, rồi xuống xe đi bộ vào tịnh xá. Lúc bấy giờ một số
đông Tỷ-kheo đang đi kinh hành ngoài trời. Vua Pasenadi nước Kosala đi đến các
Tỷ-kheo ấy, sau khi đến, thưa với các Tỷ-kheo ấy:
-- Chư Tôn giả, nay Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ở đâu?
Chúng tôi muốn yết kiến Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác.
-- Thưa Ðại vương, Thế Tôn ở trong ngôi nhà này với các cửa khép
kín. Hãy im lặng đến gần, bước vào hành lang nhưng không vượt qua, sau khi đằng
hắng, hãy gõ vào khóa cửa. Thế Tôn sẽ mở cửa cho Ðại vương.
Rồi vua Pasenadi nước Kosala, ngay tại chỗ ấy, trao kiếm và vành
khăn cho Digha Karayana. Rồi Digha Karayana tự nghĩ: "Nay vua muốn đi một
mình. Ở đây, ta phải dừng lại". Rồi vua Pasenadi nước Kosala im lặng đi
đến căn nhà đóng cửa, sau khi đến, bước vào hành lang nhưng không vượt qua,
đằng hắng và gõ vào khóa cửa. Thế Tôn mở cửa.
Rồi vua Pasenadi nước Kosala bước vào căn nhà, cúi đầu đảnh lễ
chân Thế Tôn, miệng hôn xung quanh chân Thế Tôn, tay xoa rờ xung quanh chân và
tự xưng tên:
-- Bạch Thế Tôn, con là vua Pasenadi nước Kosala. Bạch Thế Tôn,
con là vua Pasenadi nước Kosala.
940. Những cảm nhận của vua đối với Tam Bảo
-- Thưa Ðại vương, do thấy nguyên nhân gì, Ðại vương lại hạ mình
tột bực như vậy đối với thân này và biểu lộ tình thân ái như vậy?
-- Bạch Thế Tôn, con có pháp truyền thống (Dhammanvaya) này đối
với Thế Tôn. "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo
giảng, chư Tăng đệ tử của Thế Tôn khéo tu tập hành trì". Ở đây, bạch Thế
Tôn, con thấy nhiều vị Sa-môn, Bà-la-môn hành trì Phạm hạnh có giới hạn trong
mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm, bốn mươi năm. Những vị này, sau một thời
gian, khéo tắm, khéo phấn sáp, với râu tóc khéo chải chuốt, sống thụ hưởng một
cách sung mãn, đầy đủ năm dục trưởng dưỡng. Ở đây, Bạch Thế Tôn, con thấy các Tỷ-kheo
sống hành trì Phạm hạnh viên mãn, thanh tịnh cho đến trọn đời, cho đến hơi thở
cuối cùng. Bạch Thế Tôn, con không thấy ngoài đây ra có một Phạm hạnh nào khác
viên mãn, thanh tịnh như vậy. Bạch Thế Tôn, đây là pháp truyền thống của con
đối với Thế Tôn. "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác. Pháp được Thế Tôn khéo
giảng, chư Tăng đệ tử của Thế Tôn khéo tu tập, hành trì".
Lại nữa bạch Thế Tôn, vua chúa cãi lộn với vua chúa, Sát-đế-lị cãi
lộn với Sát-đế-lị, Bà-la-môn cãi lộn với Bà-la-môn, gia chủ cãi lộn với gia
chủ, mẹ cãi lộn với con, con cãi lộn với mẹ, cha cãi lộn với con, con cãi lộn
với cha, anh em cãi lộn với anh em, anh em cãi lộn với chị em, chị em cãi lộn
với anh em, bạn bè cãi lộn với bạn bè. Còn ở đây, bạch Thế Tôn, con thấy các
Tỷ-kheo sống với nhau thuận hòa, thân hữu, không cãi lộn nhau, hòa hợp như nước
với sữa, nhìn nhau với cặp mắt ái kính. Bạch Thế Tôn, con không thấy ngoài đây
ra, có một Phạm hạnh nào khác viên mãn, thanh tịnh như vậy. Bạch Thế Tôn, đây
là pháp truyền thống của con đối với Thế Tôn: "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng
Giác, Pháp được Thế Tôn khéo giảng, đệ tử chúng Tăng của Thế Tôn khéo tu tập,
hành trì".
Lại nữa, bạch Thế Tôn, con đi du hành tản bộ từ công viên này đến
công viên khác, từ cung uyển này đến cung uyển khác. Ở đấy, con thấy một số
Sa-môn, Bà-la-môn gầy mòn, khốn khổ, da xấu, bạc nhợt, tay chân gân nổi, hình
như không có gì đẹp mắt để người ta nhìn. Bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau:
"Thật sự các bậc Tôn giả này sống Phạm hạnh không được hoan hỷ hay có
những ác nghiệp được giấu kín. Do vậy, các vị Tôn giả này mới gầy mòn, khốn
khổ, da xấu, bạc nhợt, tay chân gân nổi, hình như không có gì đẹp mắt để người
ta nhìn. Con đi đến các vị ấy và nói:
"-- Vì sao chư Tôn giả lại gầy mòn, khốn khổ, da xấu, bạc
nhợt, tay chân gân nổi, hình như không có gì đẹp mắt để người ta nhìn?".
Các vị ấy trả lời như sau:
"-- Tâu Ðại vương, chúng tôi bị bệnh gia truyền".
Còn ở đây, bạch Thế Tôn, con thấy các Tỷ-kheo hân hoan, phấn khởi,
hỷ lạc, các căn thoải mái, không dao động, bình tĩnh, sống dựa vào sự hỷ cúng
của người khác, với tâm tư như con thú rừng. Bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như
sau: "Thật sự các bậc Tôn giả này ý thức được một sự tối thắng thù diệu
nào trong giáo lý Thế Tôn, một sự thành đạt tuần tự nên các bậc Tôn giả này hân
hoan, phấn khởi, hỷ lạc, các căn thoải mái, không dao động, bình tĩnh, sống dựa
vào sự hỷ cúng của người khác, với tâm tư như con thú rừng. Bạch Thế Tôn, đây
là pháp truyền thống của con đối với Thế Tôn: "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng
Giác, Pháp được Thế Tôn khéo giảng, đệ tử chúng Tăng của Thế Tôn khéo tu tập
hành trì".
Lại nữa, bạch Thế Tôn, con là một vị vua Sát-đế-lị, đã làm lễ quán
đảnh, có thể hành quyết những ai đáng bị hành quyết, gia phạt những ai đáng bị
gia phạt, trục xuất những ai đáng bị trục xuất. Nhưng bạch Thế Tôn, khi con
ngồi xử kiện, có người đôi khi nói ngắt lời của con. Và con không có dịp để
nói: "Này Quý vị, chớ có ngắt lời nói của ta, khi ta đang ngồi xử kiện.
Quý vị hãy chờ cho đến khi ta nói xong". Bạch Thế Tôn, thế mà có người vẫn
ngắt lời nói của con. Còn ở đây, bạch Thế Tôn, con thấy các Tỷ-kheo, trong khi
Thế Tôn thuyết pháp cho đồ chúng hàng trăm người, trong khi ấy không có một
tiếng nhảy mũi hay tiếng ho khởi lên. Bạch Thế Tôn, thuở xưa, trong khi Thế Tôn
thuyết pháp cho đồ chúng hàng trăm người, có người đệ tử Thế Tôn ho lên. Một
đồng Phạm hạnh khẽ đập vào đầu gối và nói: "Tôn giả hãy im lặng, Tôn giả
chớ có làm ồn. Thế Tôn, bậc Ðạo Sư của chúng ta đang thuyết pháp". Bạch
Thế Tôn, con khởi lên ý nghĩ như sau: "Thật vi diệu thay! Thật hy hữu
thay! Thính chúng này thật khéo được huấn luyện, không gậy, không kiếm. Bạch
Thế Tôn, con không thấy ngoài đồ chúng này có một đồ chúng nào khác được khéo
huấn luyện như đồ chúng này. Bạch Thế Tôn, đây là pháp truyền thống của con đối
với Thế Tôn: "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo
giảng, đệ tử chúng Tăng của Thế Tôn khéo tu tập hành trì".
Lại nữa, bạch Thế Tôn, con thấy ở đây một số Sát-đế-lị bác học, tế
nhị, nghị luận biện tài, biện bác như chia chẻ sợi tóc. Những vị này đi chỗ
này, chỗ kia, như muốn đả phá các tà kiến với trí tuệ của họ. Những vị này
nghe: "Sa-môn Gotama sẽ đến thăm ngôi làng này hay thị trấn này". Họ
sắp đặt câu hỏi: "Chúng ta sau khi đến sẽ hỏi Sa-môn Gotama câu hỏi này.
Khi bị chúng ta hỏi như vậy, nếu Sa-môn Gotama trả lời như thế này, thì chúng
ta sẽ chất vấn như thế này. Khi bị ta hỏi như vậy, nếu Sa-môn Gotama trả lời
như thế kia, thì chúng ta sẽ chất vấn như thế kia". Những vị này nghe:
"Sa-môn Gotama đã đến thăm ngôi làng hay thị trấn này". Những vị này
đến chỗ Sa-môn Gotama ở. Sa-môn Gotama với pháp thoại khai thị cho các vị này,
khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ. Ðược Sa-môn Gotama, với pháp
thoại khai thị, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, họ không hỏi
Sa-môn Gotama câu hỏi (đã định trước), huống nữa là chất vấn! Trái lại, họ trở
thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Bạch Thế Tôn, như vậy là pháp truyền thống của
con đối với Thế Tôn: "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn
khéo giảng, đệ tử chúng Tăng của Thế Tôn khéo tu tập hành trì".
Lại nữa, bạch Thế Tôn, con thấy ở đây một số Bà-la-môn bác học...
Gia chủ bác học, Sa-môn bác học, tế nhị, nghị luận biện tài, biện bác như chia
chẻ sợi tóc, những vị này đi chỗ này chỗ kia như muốn đả phá các tà kiến... họ
không hỏi Sa-môn Gotama câu hỏi (đã định trước), huống nữa là chất vấn. Trái
lại, họ xin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Thế Tôn cho họ được
xuất gia. Ðược xuất gia như vậy, một số các vị ấy sống một mình, không phóng
dật, nỗ lực, tinh cần và không bao lâu sau, tự chứng với thắng trí, chứng ngộ
chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại mục đích tối thượng của Phạm hạnh mà
những Thiện nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình
hướng đến. Họ nói như sau: "Thật sự chúng ta gần hoại vong! Thật sự chúng
ta gần hoại diệt! Xưa kia chúng ta không phải Sa-môn lại tự xem là Sa-môn,
không phải Bà-la-môn lại tự xem là Bà-la-môn, không phải bậc A-la-hán lại tự
xem là bậc A-la-hán. Nay chúng ta mới thật là Sa-môn. Nay chúng ta mới thật là
Bà-la-môn. Nay chúng ta mới thật là A-la-hán". Bạch Thế Tôn, đây là pháp
truyền thống của con đối với Thế Tôn: "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác,
Pháp được Thế Tôn khéo giảng, đệ tử chúng Tăng của Thế Tôn khéo tu tập hành
trì".
Lại nữa, bạch Thế Tôn, Isidatta và Purana là hai quan giữ ngựa, ăn
cơm của con, đi xe của con, sinh sống do con cho, và chính con đem danh vọng
lại cho họ. Nhưng họ không hạ mình đối với con như họ hạ mình đối với Thế Tôn.
Thuở xưa, bạch Thế Tôn, trong khi hành quân chống với đội quân đối nghịch, và muốn
thử thách Isidatta và Purana, hai quan giữ ngựa, con đến ở tại một căn nhà chật
hẹp. Rồi bạch Thế Tôn, hai quan giữ ngựa, Isidatta và Purana, sau khi cùng nhau
đàm luận về chánh pháp hơn nửa đêm, rồi nằm xuống ngủ, với đầu của họ hướng về
phía mà họ được nghe là chỗ Thế Tôn ở và với chân hướng về chỗ con. Bạch Thế
Tôn, con suy nghĩ như sau: "Thật vi diệu thay! Thật hy hữu thay! Hai quan
giữ ngựa Isidatta và Purana này ăn cơm của ta, đi xe của ta, sinh sống do ta
cho, và chính ta đem danh vọng lại cho họ. Nhưng họ không hạ mình đối với ta
như họ hạ mình đối với Thế Tôn. Thật sự những vị này ý thức được một sự tối
thắng thù diệu nào trong giáo lý Thế Tôn, một sự thành đạt tuần tự". Bạch
Thế Tôn, đây là pháp truyền thống của con đối với Thế Tôn: "Thế Tôn là bậc
Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo giảng, đệ tử chúng Tăng của Thế Tôn
khéo tu tập hành trì".
Lại nữa, bạch Thế Tôn, Thế Tôn thuộc dòng Sát-đế-lị, con cũng
thuộc dòng Sát-đế-lị. Thế Tôn là người nước Kosala, con cũng thuộc người nước
Kosala. Thế Tôn được tám mươi tuổi, con cũng được tám mươi tuổi. Vì Thế Tôn
thuộc dòng Sát-đế-lị và con cũng thuộc dòng Sát-đế-lị; vì Thế Tôn là người nước
Kosala, con cũng thuộc người Kosala; vì Thế Tôn được tám mươi tuổi, con cũng
được tám mươi tuổi; nên con sẵn sàng hạ mình tột bực đối với Thế Tôn, và biểu
lộ tình thân ái. Bạch Thế Tôn, nay chúng con phải đi, chúng con nhiều công
việc, có nhiều bổn phận phải làm.
-- Thưa Ðại vương, Ðại vương hãy làm những gì Ðại vương nghĩ là
hợp thời.
Rồi vua Pasenadi nước Kosala từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế
Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài rồi ra đi.
941. Giáo huấn của Đức Phật
Khi vua Pasenadi nước Kosala ra đi không bao lâu, Thế Tôn cho gọi
các Tỷ-kheo:
-- Này các Tỷ-kheo, đấy là vua Pasenadi nước Kosala. Sau khi nói lên
những pháp trang nghiêm, vua đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. Này các Tỷ-kheo,
hãy học các pháp trang nghiêm. Hãy thấu triệt các pháp trang nghiêm. Này các
Tỷ-kheo, hãy thọ trì các pháp trang nghiêm. Này các Tỷ-kheo, các pháp trang
nghiêm này liên hệ đến mục tiêu, là căn bản của Phạm hạnh.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời
Thế Tôn dạy.
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 1: TT Tuệ Siêu
Thảo luận 2. Câu nói của vua Pasenadi: “Còn ở đây, bạch Thế Tôn, con thấy các Tỷ-kheo hân hoan, phấn khởi, hỷ lạc, các căn thoải mái, không dao động, bình tĩnh, sống dựa vào sự hỷ cúng của người khác, với tâm tư như con thú rừng”. Cho chúng ta gợi ý gì về hình ảnh tăng chúng thời Đức Phật tại thế? - TT Pháp Tân
Thảo luận 3. Sự “đồng hội đồng thuyền” có ảnh hưởng gì đến cảm xúc của chúng ta? - ĐĐ Nguyên Thông
Thảo luận 4. Giữa không khí trang nghiêm và không khí thoải mái tự nhiên thì cái nào thích hợp cho một đạo tràng tu học hơn? - TT Tuệ Quyền
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment