Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Tuệ Siêu & TT Giác Đẳng
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 19/4/2020
105. Kinh Thiện Tinh (Sunakkhatta
sutta)
Tỳ kheo Sunakkhatta (Thiện Tinh) đến bạch hỏi Đức Phật về sự việc
nhiều tỳ kheo tuyên bố đã chứng thánh quả vô sanh như vậy trong số đó ai thực
chứng, ai không thực chứng. Đức Phật đã dạy về nhiều trường hợp khác nhau trong
sự lượng định bản thân trên đường tu tập. Sự nhận thức bản thân thường dựa trên
khuynh hướng cố hữu. Nhiều trường hợp “tưởng vậy nhưng không phải vậy - gọi tăng
thượng mạn” Những khuynh hướng của chúng sanh được đề cập trong bài kinh nầy ít
khi tìm thấy trong những bản kinh khác của Tạng Pàli.
1019. Câu hỏi về sự thực chứng
Biết rõ sự tu tập của chính mình là chuyện khó mà lượng định được
sự tiến bộ và thành tựu bản thân không phải là chuyện dễ:
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú tại Vesali (Tỳ-xá-ly), ở Ðại Lâm, tại Trùng
Các giảng đường (Kutagarasala).
Lúc bấy giờ nhiều Tỷ-kheo, trước mặt Thế Tôn tuyên bố đã chứng trí
giác: "Chúng tôi biết rằng sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những điều nên
làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa".
Sunakkhatta Licchaviputta (Thiện Tinh Ly-xa Tử) được nghe:
"Nhiều Tỷ-kheo, trước mặt Thế Tôn tuyên bố đã chứng trí giác: 'Chúng tôi
biết rằng sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những điều nên làm đã làm, không còn
trở lại trạng thái này nữa'". Rồi Sunakkhatta Licchaviputta đi đến chỗ Thế
Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên,
Sunakkhatta Licchaviputta bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, con có được nghe như sau: "Nhiều Tỷ-kheo,
trước mặt Thế Tôn tuyên bố đã chứng trí giác: 'Chúng tôi biết rằng sanh đã tận,
Phạm hạnh đã thành, những điều nên làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này
nữa'". Bạch Thế Tôn, không biết các Tỷ-kheo ấy đã tuyên bố một cách chơn
chánh chứng trí giác, hay ở đây có một số Tỷ-kheo, vì tăng thượng mạn đã tuyên
bố chứng trí giác?
-- Này Sunakkhatta, những vị Tỷ-kheo trước mặt Ta đã tuyên bố
chứng trí giác: "Chúng tôi biết rằng, sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành,
những việc nên làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa". Ở đây,
có một số Tỷ-kheo đã chơn chánh tuyên bố chứng trí giác; nhưng ở đây, cũng có
một số Tỷ-kheo chính vì tăng thượng mạn, đã tuyên bố chứng trí giác. Ở đây, này
Sunakkhatta, những vị Tỷ-kheo nào đã chơn chánh tuyên bố chứng trí giác, thời
đối với các vị ấy, thật là đúng như vậy. Nhưng đối với các vị Tỷ-kheo nào, vì
tăng thượng mạn đã tuyên bố chứng tri giác, ở đây, này Sunakkhatta, Như Lai
nghĩ như sau: "Ta hãy thuyết pháp cho những vị ấy". Và như vậy, ở
đây, này Sunakkhatta, Như Lai suy nghĩ: "Ta hãy thuyết pháp cho những vị
ấy". Nhưng ở đây, nếu có một số người ngu si, bày đặt câu hỏi, đến hỏi Như
Lai; ở đây, này Sunakkhatta, Như Lai suy nghĩ như sau: "Ta hãy thuyết pháp
cho những người ấy". Như Lai suy nghĩ như vậy, không có làm khác.
1020. Hạng người thiên về
vật chất thế gian
Những người thiên nặng về thị dục của ngũ trần chắc chắn có sự
trói buộc ở ngoại cảnh:
-- Nay đã đúng thời để thuyết pháp, bạch Thế Tôn! Nay đã đúng thời
để thuyết pháp, bạch Thiện Thệ! Thế Tôn thuyết pháp như thế nào, sau khi nghe
Thế Tôn xong, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.
-- Vậy này Sunakkhatta, hãy nghe và khéo tác ý kỹ, Ta sẽ giảng.
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Sunakkhatta Licchaviputta vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
-- Này Sunakkhatta, có năm dục trưởng dưỡng này. Thế nào là năm?
Các sắc do mắt nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, liên hệ đến dục, hấp
dẫn; các tiếng do tai nhận thức... ; các hương do mũi nhận thức... ; các vị do
lưỡi nhận thức... ; các xúc do thân cảm xúc khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý,
liên hệ đến dục, hấp dẫn. Này Sunakkhatta, những pháp này là năm dục trưởng
dưỡng.
Nhưng này Sunakkhatta, sự tình này xảy ra khi ở đây có số người
thiên nặng về vật chất thế gian. Ðối với người thiên nặng về vật chất thế gian,
này Sunakkhatta, câu chuyện (thích hợp với người ấy) phải tùy thuộc như thế nào
để phù hợp với điều người ấy suy tầm và suy tư, và người ấy chỉ giao thiệp với
người nào người ấy thích thú. Nhưng nếu câu chuyện chỉ nói liên hệ đến bất
động, thời người ấy không nghe, không lóng tai, và tâm không an trú vào trí
giác. Và người ấy không giao thiệp với người mà người ấy không thích thú.
Ví như, này Sunakkhatta, có người đã lâu không trú ở trong làng
hay thị trấn của mình, và có thể thấy một người vừa mới từ làng ấy hay thị trấn
ấy lại. Người này sẽ hỏi người ấy về sự an ninh của làng hay thị trấn ấy, về đồ
ăn uống sung túc và về ít bệnh tật, và người ấy sẽ nói cho người này biết về sự
an ổn của làng hay thị trấn ấy, về đồ ăn uống sung túc và về ít bệnh tật. Này
Sunakkhatta, Ông nghĩ thế nào? Có phải người này sẽ nghe người kia, lóng tai,
tâm an trú vào trí giác và người này sẽ giao thiệp với người ấy mà người này
thích thú?
-- Thưa phải vậy, bạch Thế Tôn.
-- Cũng vậy, này Sunakkhatta, sự tình này xảy ra khi ở đây có số
người thiên nặng về vật chất thế gian. Ðối với người thiên nặng về vật chất thế
gian, này Sunakkhatta, câu chuyện thích hợp với người ấy phải tùy thuộc như thế
nào để phù hợp với điều người ấy suy tầm và suy tư, và người ấy chỉ giao thiệp
với người mà người ấy thích thú. Nhưng nếu câu chuyện chỉ nói liên hệ đến Bất
động, thời người ấy không nghe, không lóng tai và tâm không an trú vào thượng
trí, và người ấy không giao thiệp với người mà người ấy không thích thú. Người
ấy cần được hiểu như vầy: "Là hạng người thiên nặng về vật chất thế
gian".
1021. Hạng người thiên nặng về Bất động
Một số thiên nặng về nội tại của định lực thì tâm tư ổn định hơn
nhưng không hẳn là giải thoát hoàn toàn (do khuynh hướng tầm cầu bất động
thôi):
Này Sunakkhatta, sự tình này xảy ra, khi một số người thiên nặng
về Bất động. Ðối với người thiên nặng về Bất động, này Sunakkhatta, câu chuyện
thích hợp (với người ấy) phải tùy thuộc như thế nào để phù hợp với điều người
ấy suy tầm và suy tư, và người ấy chỉ giao thiệp với người mà người ấy thích
thú. Nhưng nếu câu chuyện chỉ nói liên hệ đến vật chất thế gian, thời người ấy
không nghe, không lóng tai và tâm không an trú vào thượng trí, và người ấy
không giao thiệp với người mà người ấy không thích thú.
Ví như, này Sunakkhatta, một lá vàng khô đã rời khỏi cành, không
còn xanh trở lại; cũng vậy, này Sunakkhatta, đối với hạng người thiên nặng về
Bất động, đã rời khỏi kiết sử vật chất thế gian. Người ấy cần được hiểu như
sau: "Ðây là hạng người không liên hệ với kiết sử vật chất thế gian, thiên
nặng về Bất động".
1022 Hạng người thiên nặng về Vô sở hữu xứ
Ngay cả một người có khuynh hướng về sự phủ nhận tất cả nhưng
không hẳn đã chứng trú không tánh của Niết bàn:
Này Sunakkhatta, sự tình này xảy ra. Ở đây, có một số người thiên
nặng về Vô sở hữu. Ðối với người thiên nặng về Vô sở hữu, này Sunakkhatta, câu
chuyện thích hợp với người ấy phải tùy thuộc như thế nào để phù hợp với điều
người ấy suy tầm và suy tư, và người ấy chỉ giao thiệp với người mà người ấy
thích thú. Nhưng nếu câu chuyện chỉ nói liên hệ đến Bất động, thời người ấy
không nghe, không lóng tai, và tâm không an trú vào trí giác, và người ấy không
giao thiệp với người mà người ấy không thích thú.
Ví như, này Sunakkhatta, một hòn đá bị vỡ làm đôi không thể nối
liền lại được; cũng vậy, này Sunakkhatta, đối với hạng người thiên nặng về Vô
sở hữu, đã bị chặt đứt khỏi kiết sử Bất động, người ấy cần được hiểu như sau:
"Ðây là hạng người không liên hệ với kiết sử Bất động, thiên nặng về Vô sở
hữu".
1023. Hạng người thiên về Phi tưởng phi phi tưởng xứ
Trong mức độ cao nhất được lãnh hội đối với nội tại là phi tưởng
phi phi tưởng cũng phải cẩn thận đó chỉ là khuynh hướng:
Này Sunakkhatta, sự tình này xảy ra. Ở đây, có một số người thiên
nặng về Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Ðối với người thiên nặng về Phi tưởng phi
phi tưởng xứ, này Sunakkhatta, câu chuyện thích hợp với người ấy phải tùy thuộc
như thế nào để phù hợp với điều người ấy suy tầm và suy tư, và người ấy chỉ
giao thiệp với người mà người ấy thích thú. Nhưng nếu câu chuyện chỉ nói liên
hệ đến Vô sở hữu xứ, thời người ấy không nghe, không lóng tai, và tâm không an
trú vào trí giác, và người ấy không giao thiệp với người mà người ấy không
thích thú.
Ví như, này Sunakkhatta, một người đã ăn các món ăn mỹ vị và đã
quăng bỏ. Này Sunakkhatta, Ông nghĩ thế nào? Người ấy có ưa ăn lại món ăn ấy
không?
-- Bạch Thế Tôn không. Vì sao vậy? Vì rằng, bạch Thế Tôn, món ăn
ấy được xem là ghê tởm rồi.
-- Cũng vậy, này Sunakkhatta, đối với hạng người thiên nặng về Phi
tưởng phi phi tưởng xứ, đã để một bên kiết sử Vô sở hữu xứ. Người ấy cần được
hiểu như sau: "Ðây là hạng người không liên hệ với kiết sử Vô sở hữu xứ,
thiên nặng về Phi tưởng phi phi tưởng xứ".
1024. Hạng người thiên về
chánh Niết Bàn
Một người tu chứng Niết bàn thật sự vượt khỏi khuynh hướng cá
nhân, đó là cảnh giới không y cứ trên những gì đã từng trãi nghiệm, vượt ngoài
đối đãi thường thức:
Này Sunakkhatta sự tình này xảy ra, khi ở đây, có số người thiên
nặng về chánh Niết-bàn. Ðối với hạng người thiên nặng về chánh Niết-bàn, này
Sunakkhatta, câu chuyện thích hợp với người ấy phải tùy thuộc như thế nào để
phù hợp với điều người ấy suy tầm và suy tư, và người ấy chỉ giao thiệp với
người mà người ấy thích thú. Nhưng nếu câu chuyện chỉ nói liên hệ đến Phi tưởng
phi phi tưởng xứ, thời người ấy không nghe, không lóng tai, và tâm không an trú
vào trí giác. Và người ấy không giao thiệp với người mà người mà ấy không
thích.
Ví như, này Sunakkhatta, cây tala ngọn cây đã bị chặt đứt không
thể lớn được nữa; cũng vậy, này Sunakkhatta, đối với hạng người thiên nặng về
chánh Niết-bàn, đã cắt đứt kiết sử Phi tưởng phi phi tưởng xứ, đã cắt đứt từ
rễ, làm cho như cây tala không thể tái sanh, không thể khởi lên lại trong tương
lai. Người ấy cần phải được hiểu như sau: "Ðây là hạng người không liên hệ
với kiết sử Phi tưởng phi phi tưởng xứ, thiên nặng về chánh Niết-bàn".
Này Sunakkhatta, sự tình này xảy ra, khi ở đây, có một số người
suy nghĩ như sau: "Tham ái được vị Sa-môn gọi là mũi tên. Thuốc độc vô
minh làm não hại con người với dục, tham, sân. Mũi tên tham ái đã được ta đoạn
diệt; thuốc độc vô minh đã được trừ khử; ta thiên nặng về chánh Niết-bàn".
Vị ấy có thể tự hào với mục đích hiện tại. Vị ấy có thể truy cầu những gì không
thích hợp với khuynh hướng chánh Niết-bàn, mắt vị ấy có thể truy cầu sắc không
thích hợp, tai có thể truy cầu tiếng không thích hợp, mũi có thể truy cầu hương
không thích hợp, lưỡi có thể truy cầu vị không thích hợp, thân có thể truy cầu
xúc không thích hợp, ý có thể truy cầu pháp không thích hợp. Khi mắt truy cầu
sắc không thích hợp, tai truy cầu tiếng không thích hợp, mũi truy cầu hương
không thích hợp, lưỡi truy cầu vị không thích hợp, thân truy cầu xúc không
thích hợp, ý truy cầu pháp không thích hợp, thời tham dục nhiễu loạn tâm vị ấy.
Vị ấy do tâm bị tham dục nhiễu loạn đi đến chết hay đi đến khổ gần như chết.
Ví như, này Sunakkhatta, một người bị mũi tên bắn, tên ấy có tẩm
thuốc độc rất dày. Bạn bè thân hữu, bà con huyết thống người ấy cho mời một y
sĩ giải phẫu. Vị y sĩ giải phẫu ấy có thể cắt xung quanh miệng vết thương với
con dao; sau khi cắt xung quanh miệng vết thương với con dao, vị y sĩ giải phẫu
có thể dò tìm mũi tên với một vật dụng dò tìm. Sau khi dò tìm mũi tên với một
vật dụng dò tìm, y sĩ có thể rút mũi tên ra. Y sĩ có thể trừ khử hết thuốc độc,
còn để lại một ít nhưng nghĩ không có thuốc độc nào còn lại, y sĩ nói như sau:
"Này Hiền giả, mũi tên của Bạn đã được rút ra, thuốc độc đã được trừ khử,
không còn dư tàn, và không còn gì nguy hiểm nữa cho Bạn, nhưng Bạn phải chỉ ăn
các đồ ăn thích hợp, và hãy gìn giữ, nếu ăn đồ ăn không thích hợp, vết thương
của Bạn sẽ làm mủ lại, và thường thường phải cho rửa vết thương, thường thường
phải xức thuốc cho miệng vết thương. Trong khi thường thường cho rửa vết
thương, thường thường xức thuốc cho miệng vết thương, chớ có để máu cũ đóng khô
trên miệng vết thương và hãy cẩn thận khi đi ra giữa gió và nắng; hãy cẩn thận
khi đi ra giữa gió và nắng, nếu không, bụi và nhớp có thể nhiễu hại miệng vết
thương. Và này Bạn, nếu Bạn chăm sóc vết thương, thời vết thương sẽ được
lành".
Người ấy suy nghĩ như sau: "Mũi tên đã được rút khỏi (thân)
ta, nọc độc đã được trừ khử, không còn dư tàn, và ta đã thoát khỏi nguy
hiểm". Và người ấy ăn những đồ ăn không thích hợp. Vì người ấy ăn những đồ
ăn không thích hợp, nên vết thương làm mủ lại. Và thường thường người ấy không
rửa vết thương, thường thường không xức thuốc miệng vết thương. Vì người ấy
thường thường không rửa vết thương, vì người ấy thường thường không xức thuốc
miệng vết thương, nên máu cũ đông lại trên miệng vết thương. Và người ấy thường
hay đi giữa gió và nắng. Do người ấy thường hay đi giữa gió và nắng, bụi và
nhớp nhiễu hại miệng vết thương; và vì người ấy không chăm sóc vết thương nên
vết thương không được lành. Vì người ấy làm chính những việc không thích hợp,
và do thuốc độc được trừ khử nhưng còn dư tàn, do cả hai điều ấy nên miệng vết
thương có thể lở to hơn trước. Do vết thương lở to, người ấy có thể đi đến chết
hay đau khổ gần như chết.
Cũng vậy, này Sunakkhatta, sự kiện này xảy ra, khi ở đây một số
Tỷ-kheo nghĩ như sau: "Tham ái được bậc Sa-môn gọi là mũi tên, thuốc độc
vô minh làm não hại (con người) với dục, tham, sân. Mũi tên tham ái đã được ta
đoạn diệt; thuốc độc vô minh đã được trừ khử. Ta thiên nặng về chánh
Niết-bàn". Vị ấy có thể tự hào với mục đích hiện tại. Vị ấy có thể truy
cầu những gì không thích hợp với khuynh hướng chánh Niết-bàn. Mắt có thể truy
cầu sắc không thích hợp, tai có thể truy cầu tiếng không thích hợp, mũi có thể
truy cầu hương không thích hợp, lưỡi có thể truy cầu vị không thích hợp, thân
có thể truy cầu xúc không thích hợp, ý có thể truy cầu pháp không thích hợp.
Khi mắt truy cầu sắc không thích hợp, tai truy cầu tiếng không thích hợp, mũi
truy cầu hương không thích hợp, lưỡi truy cầu vị không thích hợp, thân truy cầu
xúc không thích hợp, ý truy cầu pháp không thích hợp, thời tham dục nhiễu loạn
tâm vị ấy. Vị ấy do tham dục nhiễu loạn tâm, đi đến chết hay đi đến khổ gần như
chết.
Như vậy, này Sunakkhatta, là chết trong giới luật của bậc Thánh,
khi vị ấy từ bỏ tu tập, trở về hoàn tục, và như vậy, này Sunakkhatta, là khổ
như chết, khi vị ấy phạm một ô uế tội nào.
Này Sunakkhatta, sự tình này xảy ra, khi ở đây một số Tỷ-kheo suy
nghĩ như sau: "Tham ái được bậc Sa-môn gọi là mũi tên, thuốc độc vô minh
làm não hại con người với dục, tham, sân. Mũi tên tham ái đã được ta đoạn diệt,
thuốc độc vô minh đã được trừ khử. Ta thiên nặng về chánh Niết-bàn". Chính
vì thiên nặng về chánh Niết-bàn, vị ấy không truy cầu những gì không thích hợp
với khuynh hướng thiên nặng về Niết-bàn, mắt không truy cầu sắc không thích
hợp, tai không truy cầu tiếng không thích hợp, mũi không truy cầu hương không
thích hợp, lưỡi không truy cầu vị không thích hợp, thân không truy cầu xúc
không thích hợp, ý không truy cầu pháp không thích hợp. Vì mắt vị ấy không truy
cầu sắc không thích hợp, vì tai không truy cầu tiếng không thích hợp, vì mũi
không truy cầu hương không thích hợp, vì lưỡi không truy cầu vị không thích
hợp, vì thân không truy cầu xúc không thích hợp, vì ý không truy cầu pháp không
thích hợp, nên tham dục không nhiễu loạn tâm, vì tham dục không nhiễu loạn tâm;
nên vị ấy không đi đến chết hay đi đến khổ gần như chết.
Ví như, này Sunakkhatta, một người bị tên bắn, và mũi tên bị tẩm
thuốc độc rất dày. Bạn bè thân hữu, bà con huyết thống người ấy cho mời một y
sĩ giải phẫu. Vị y sĩ giải phẫu ấy có thể cắt xung quanh miệng vết thương với
con dao; sau khi cắt xung quanh miệng vết thương với con dao, vị y sĩ giải phẫu
có thể dò tìm tên với một vật dụng dò tìm. Sau khi dò tìm mũi tên với một vật
dụng dò tìm, y sĩ có thể rút mũi tên ra... Y sĩ có thể trừ khử hết thuốc độc
không còn để dư lại và biết rằng không còn để dư lại. Vị ấy nói như sau:
"Này Bạn, mũi tên của Bạn đã được rút ra, thuốc độc đã được trừ khử, không
có dư tàn, nhưng vẫn còn nguy hiểm cho Bạn. Và Bạn hãy ăn những đồ ăn thích
hợp, chớ ăn những đồ ăn không thích hợp khiến vết thương có thể làm mủ; và
thường thường hãy rửa vết thương, thường thường hãy xức thuốc miệng vết thương,
thường thường rửa vết thương, thường thường xức thuốc miệng vết thương, chớ để
máu cũ đóng khô lại trên miệng vết thương. Và chớ có đi ra giữa gió và nắng; đi
ra giữa gió và nắng, chớ để bụi và nhớp làm nhiễu hại miệng vết thương, hãy
sống gìn giữ vết thương, này Bạn, và vết thương sẽ lành".
Người ấy suy nghĩ như sau: "Mũi tên đã được rút ra khỏi ta,
thuốc độc đã được trừ khử, không có dư tàn. Và ta chưa thoát khỏi nguy
hiểm". Và vị ấy có thể chỉ ăn các đồ ăn thích hợp. Do chỉ ăn các đồ ăn
thích hợp miệng vết thương có thể không làm mủ. Và thường thường vị ấy có thể
rửa vết thương, thường thường có thể xức thuốc miệng vết thương. Do thường
thường rửa vết thương, do thường thường xức thuốc miệng vết thương, máu cũ
không có thể đóng khô lại trên miệng vết thương. Người ấy không sốt sắng đi
giữa gió và nắng. Do người ấy không sốt sắng đi giữa gió và nắng, bụi và nhớp
không có thể nhiễu hại miệng vết thương và người ấy sống gìn giữ vết thương, và
vết thương được lành. Vì người ấy chỉ làm những điều thích hợp và vì thuốc độc
được trừ khử không còn dư tàn, do hai nhân duyên ấy vết thương được khép kín
lại. Khi vết thương được da che kín lại, người ấy không đi đến chết hay không
đi đến khổ gần như chết.
Cũng vậy, này Sunakkhatta, sự kiện này xảy ra, khi ở đây một số
Tỷ-kheo suy nghĩ như sau: "Tham ái được bậc Sa-môn gọi là mũi tên, thuốc
độc vô minh làm não hại con người với dục, tham, sân. Mũi tên tham ái đã được
ta đoạn diệt.... không có truy cầu những gì không thích hợp. Mắt không truy cầu
sắc không thích hợp, tai không truy cầu tiếng không thích hợp, mũi không truy
cầu hương không thích hợp, lưỡi không truy cầu vị không thích hợp, thân không
truy cầu xúc không thích hợp, ý không truy cầu pháp không thích hợp. Do mắt
người ấy không truy cầu sắc không thích hợp, do tai không truy cầu tiếng không
thích hợp, do mũi không truy cầu hương không thích hợp, do lưỡi không truy cầu
vị không thích hợp, do thân không truy cầu xúc không thích hợp, do ý không truy
cầu pháp không thích hợp, tham dục có thể không nhiễu hại tâm. Do tâm không bị
tham dục nhiễu hại, nên người ấy không đi đến chết, hay không đi đến khổ gần
như chết.
Này Sunakkhatta, Ta nói ví dụ này với mục đích làm sáng tỏ ý
nghĩa. Nghĩa ở đây như sau: Vết thương, này Sunakkhatta, là đồng nghĩa với sáu
xúc xứ (phassayatana); thuốc độc, này Sunakkhatta, là đồng nghĩa với vô minh;
mũi tên, này Sunakkhatta, là đồng nghĩa với ái; vật dụng dò tìm, này
Sunakkhatta, là đồng nghĩa với niệm; con dao, này Sunakkhatta, là đồng nghĩa
với Thánh trí tuệ. Vị y sĩ giải phẫu, này Sunakkhatta, là đồng nghĩa với Như
Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác.
Thật vậy, này Sunakkhatta, Tỷ-kheo tự mình phòng hộ đối với sáu
xúc xứ, nghĩ rằng: "Sanh y (Upadhi) là căn bản của khổ", sau khi biết
như vậy, vị ấy trở thành vô sanh y, giải thoát nhờ đoạn diệt sanh y. Vị ấy còn
chú thân của mình trên sanh y hay để tâm đến sanh y, sự tình như vậy không xảy
ra.
Ví như, này Sunakkhatta, một chén uống nước bằng đồng, đẹp đẽ và
hương thơm, và chén ấy lại tẩm thuốc độc. Rồi một người đến, muốn sống, muốn
không chết, muốn lạc, yếm ly khổ. Này Sunakkhatta, Ông nghĩ thế nào? Người ấy
có uống chén bằng đồng này không, nếu người ấy biết: "Sau khi tôi uống từ
đây, tôi sẽ đi đến chết hoặc đi đến gần như chết?"
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Cũng vậy, này Sunakkhatta, Tỷ-kheo ấy chắc chắn phòng hộ đối
với sáu xúc xứ. "Sanh y là căn bản của đau khổ", sau khi biết vậy, vị
ấy trở thành vô sanh y, giải thoát nhờ đoạn diệt sanh y. Còn chú thân của vị ấy
trên sanh y, để tâm đến sanh y, sự tình như vậy không xảy ra. Ví như, này Sunakkhatta,
một con rắn độc hết sức độc hại, và có một người đến, muốn sống, muốn không
chết, muốn lạc, yếm ly khổ. Này Sunakkhatta, Ông nghĩ thế nào? Người ấy có đưa
tay hay gót chân cho con rắn độc hại này không, nếu người ấy biết: "Nếu ta
bị con rắn này cắn, ta sẽ đi đến chết hay khổ gần như chết?"
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Cũng vậy, này Sunakkhatta, Tỷ-kheo ấy chắc chắn phòng hộ sáu
xúc xứ. "Sanh y là căn bản đau khổ", sau khi biết vậy, vị ấy trở
thành vô sanh y, giải thoát nhờ đoạn diệt sanh y. Còn chú thân của vị ấy trên
sanh y, hay để tâm đến sanh y, sự tình như vậy không xảy ra.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Sunakkhatta Licchaviputta hoan hỷ
tín thọ lời Thế Tôn dạy.
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
TT Giác Đẳng chia sẻ về tình hình đại dịch
TT Giác Đẳng chia sẻ về tình hình đại dịch
III Trắc Nghiệm
Trắc nghiệm 1. Trường hợp nào sau đây được gọi là tăng thượng mạn -Adhimāna?
A. Thực chứng nhưng chưa đến mức cuối cùng /
B. Chưa chứng đạt nhưng lầm tưởng mình đã chứng đạt /
C. Không thực chứng nhưng giả trá rêu rao mình có chứng ngộ /
D. Có thực chứng nhưng không đủ khiêm tốn
TT Tuệ Siêu cho đáp án trắc nghiệm 1:B
Trắc nghiệm 2. Biểu hiện nào sau đây không thể có được ở một vị chứng sơ quả?
A. bao giờ che dấu những lầm lỗi của mình /
B. phạm ngũ giới và huỷ báng Tam Bảo /
C. tin vào những quan kiến đi ngược lại với những nguyên lý vô thường, khổ não, vô ngã và nghiệp báo /
D. Cả ba điều trên.TT Tuệ Quyền cho đáp án trắc nghiệm 2:D
Trắc nghiệm 3. Câu nào sau đây được tìm thấy trong Tam Tạng Pàli?
A. Tất cả chúng sanh sẽ thành Phật/
B. Đường nào cuối cùng cũng dẫn đến Niết Bàn /
C. Một số ít đến được bờ kia, đa số còn lại quanh quẩn bên bờ nầy /
D. Ba câu trên đều không có trong Tam Tạng
TT Pháp Tân cho đáp án trắc nghiệm 3: C
No comments:
Post a Comment