TU TẬP THỜI ĐẠI DỊCH
Pháp thoại
NHẪN NẠI
Tỳ khưu Hộ Pháp Dhammarakkhita
Tỳ khưu Hộ Pháp Dhammarakkhita
Đức tính
nhẫn nại là một đức hạnh cao thượng, một thiện pháp đặc biệt, biết chấp nhận,
biết chịu đựng mọi cảnh trái ý nghịch lòng, mà không hề có thái độ sân hận, bực
tức, vẫn giữ vững thiện tâm trong sạch một cách tự nhiên, không bị dao động khi
gặp đối tượng làm cho bất bình nào.
Đức tính
nhẫn nại đặc biệt hơn các thiện pháp khác, là chỉ có thể tạo được trong những
trường hợp sau:
-- Khi
tiếp xúc với cảnh thiên nhiên khắc nghiệt như: khí hậu lạnh lẽo quá, nóng bức
quá, muỗi mòng cắn khó chịu quá, rắn rít cắn đau đớn quá v.v… mà vẫn chấp nhận
chịu đựng, không hề có thái độ sân hận, bực mình, khó chịu, vẫn giữ vững thiện
tâm trong sạch một cách tự nhiên, không bị dao động bởi những đối tượng làm cho
bất bình ấy. Đó gọi là đức tính nhẫn nại.
-- Khi
tiếp xúc với người ác nghiệt như: chửi rủa, mắng nhiếc thậm tệ, vu oan giá hoạ
tày trời, đánh đập tàn nhẫn, v.v… mà vẫn chấp nhận chịu đựng, không hề có thái
độ sân hận, tức giận người ấy, vẫn giữ vững thiện tâm trong sạch một cách tự
nhiên, không bị dao động bởi những đối tượng làm cho bất bình ấy. Đó gọi là đức
tính nhẫn nại.
Như vậy,
pháp hạnh nhẫn nại không phải tạo được bất cứ lúc nào, bất cứ đối tượng nào, mà
chỉ có thể tạo được khi tiếp xúc với đối tượng làm cho bất bình, nghịch cảnh,
nghịch duyên mà thôi. Những đối tượng làm cho bất bình ấy dễ phát sanh tâm sân
hận; nhưng người có phát nguyện hành pháp hạnh nhẫn nại, đó là cơ hội tốt đối
với họ, thay vì tâm sân hận thì tâm vô sân phát sanh, tạo được pháp hạnh nhẫn
nại trở thành một đức tính nhẫn nại cao thượng.
Do đó,
đức hạnh nhẫn nại là một thiện pháp rất đặc biệt hơn các thiện pháp khác. Các
thiện pháp khác như: bố thí, giữ giới, hành thiền… người ta có thể tạo bất cứ
lúc nào mình muốn, bất cứ đối tượng nào mình chọn; nhưng đối tượng làm cho bất
bình, nghịch cảnh, nghịch duyên này chỉ xảy ra một cách tự nhiên, người có đức
tính nhẫn nại tiếp xúc với đối tượng làm cho bất bình ấy vẫn giữ vững thiện tâm
trong sạch, mọi thiện pháp được phát triển tốt. Cho nên, đức tính nhẫn nại có
một vai trò rất quan trọng, hỗ trợ cho mọi thiện pháp được phát sanh và tăng
trưởng, đem lại sự lợi ích cả cho mình lẫn cho người.
Trong đời
này, người không có đức tính nhẫn nại, thật khó mà tiến hoá trong mọi thiện
pháp, dễ gây ra sự tai hại, điều bất lợi cho mình và người. Cho nên, Đức Phật
khuyên dạy chư Tỳ khưu khi đi truyền bá chánh pháp rằng:
"Khanṭī
paramaṃ ṭapo ṭiṭikkhā…". (Bộ Dhammapadaṭṭhakaṭhā bài kệ thứ 184.)
(Này các
con, pháp hạnh nhẫn nại là đức tính cao thượng nhất).
Vậy nên
hiểu sự tai hại của pháp không nhẫn nại và quả báu lợi ích của pháp hạnh nhẫn
nại.
Trong Chi
bộ kinh, kinh Akkhanṭisuṭṭa (Aṅguṭṭaranikāya, Pañcakanipāṭa, kinh
Akkhanṭisuṭṭa), Đức Phật dạy rằng:
-- Này
chư Tỳ khưu, 5 điều tai hại đối với người không có pháp hạnh nhẫn nại là:
1-Người
không có pháp hạnh nhẫn nại là người không được phần đông yêu mến, không hài
lòng.
2- Là
người gây nhiều oan trái với người khác.
3- Là
người tạo nên nhiều tội ác.
4- Là
người mê muội lúc lâm chung.
5- Sau
khi chết, do ác nghiệp cho quả tái sanh cõi ác giới, điạ ngục, atula, ngạ quỷ,
súc sanh.
-- Này
chư Tỳ khưu, 5 quả báu lợi ích của người có pháp hạnh nhẫn nại là:
1- Người
có pháp hạnh nhẫn nại là người được phần đông yêu mến, hài lòng.
2- Là
người không gây oan trái với người khác.
3- Là
người không tạo nên tội ác, tạo phước thiện.
4- Là
người không mê muội, có tâm sáng suốt, minh mẫn lúc lâm chung.
5- Sau
khi chết, do thiện nghiệp cho quả tái sanh cõi thiện giới, cõi trời….
-- Này
chư Tỳ khưu, đó là 5 quả báu lợi ích của người có pháp hạnh nhẫn nại.
Và trong
bài kinh khác, Đức Phật dạy:
-- Này
chư Tỳ khưu, 5 điều tai hại đối với người không có pháp hạnh nhẫn nại là:
1- Người
không có pháp hạnh nhẫn nại là người không được phần đông yêu mến, không hài
lòng.
2- Là
người có tâm tàn nhẫn với người khác.
3- Là
người hay tức giận, nóng nảy.
4- Là
người mê muội lúc lâm chung.
5- Sau
khi chết, do ác nghiệp cho quả tái sanh vào cõi ác giới, điạ ngục, atula, ngạ
quỷ, súc sanh….
Đó là 5
điều tai hại đối với người không có pháp hạnh nhẫn nại.
-- Này
chư Tỳ khưu, 5 quả báu lợi ích của người có pháp hạnh nhẫn nại là:
1- Người
có pháp hạnh nhẫn nại là người được phần đông yêu mến, hài lòng.
2- Là
người không có tâm tàn nhẫn, có tâm từ thương yêu mọi chúng sinh.
3- Là
người không tức giận, không nóng nảy, có tâm từ mát mẻ.
4- Là
người không mê muội, có tâm sáng suốt, minh mẫn lúc lâm chung.
5- Sau
khi chết, do thiện nghiệp cho quả tái sanh cõi thiện giới, cõi trời….
-- Này
chư Tỳ khưu, đó là 5 quả báu lợi ích của người có pháp hạnh nhẫn nại.
Đức tính
nhẫn nại không gây oan trái
Oan trái
là một điều đáng kinh sợ trong vòng tử sanh luân hồi của mỗi chúng sinh.
Sự oan
trái lẫn nhau giữa đôi bên: Người này gây oan trái với người kia và ngược lại,
người kia gây oan trái với người này; người này trả thù người kia, rồi người
kia trả thù lại người này. Cứ như thế, sự oan trái lẫn nhau từ đời này sang
kiếp khác, mỗi khi gặp lại nhau, nối tiếp kéo dài đến vô chung.
Sự oan
trái một bên: Như trường hợp những tiền thân của Tỳ khưu Devadaṭṭa gây oan trái
với những tiền thân của Đức Phật, qua nhiều đời nhiều kiếp. Cho đến kiếp chót
của Đức Phật, Tỳ khưu Devadaṭṭa vẫn tìm mọi cách để sát hại Đức Phật; nhưng
điều ấy không bao giờ có thể xảy ra, bởi vì không có một ai có thể sát hại Đức
Phật được; chắc chắn Đức Phật tịch diệt Niết Bàn theo hết tuổi thọ của Ngài.
Chúng
sinh thấy rõ sự oan trái là điều đáng kinh sợ trong vòng tử sanh luân hồi của
mình, cho nên không còn muốn gây oan trái với nhau, đó là điều tốt hơn hết.
Người có đức tính nhẫn nại là người không gây oan trái với tất cả chúng sinh.
Nếu người khác gây oan trái với ta, thì ta làm thế nào để giải oan trái?
Trong
tích Kāḷayakkhinīvaṭṭhu Đức Phật thuyết dạy bài kệ rằng:
"Na
hi verena verāni,
Sammaṭīdha
kudācanaṃ.
Averena
ca sammaṭi,
Esa
dhammo sananṭano".
(Dhammpadaṭṭhakaṭhā,
kệ thứ 5, tích Kāḷayakkhinīvaṭṭhu)
(Sự thật
trong đời này,
Chẳng bao
giờ oan trái,
Dập tắt
bằng oan trái.
Oan trái
dập tắt được,
Bằng sự
không oan trái,
Đây thật
sự là pháp,
Bậc trí
tự ngàn xưa).
Thật vậy,
những đồ dơ bẩn không thể rửa sạch bằng thứ nước dơ bẩn, mà chỉ có thể rửa sạch
bằng thứ nước trong sạch mà thôi. Cũng như vậy, người ác này chửi rủa, mắng
nhiếc, hăm doạ, đánh đập người kia… đã gây oan trái với người kia; nếu người
kia lại chửi rủa, mắng nhiếc, hăm doạ, đánh đập trả đũa lại người ác này một
cách tàn nhẫn hơn, hòng dập tắt oan trái, thì chẳng những không dập tắt được
oan trái, mà còn gây thêm sự oan trái lâu dài, càng chồng chất thêm nhiều nữa.
Sự thật,
oan trái không bao giời dập tắt được bằng sự oan trái. Bậc Thiện trí có đức
tính nhẫn nại, có tâm từ, tâm không oan trái với tất cả chúng sinh, mới có thể
dập tắt được sự oan trái.
* Nhân
diệt sân tâm
Tâm sân
bị diệt do 2 nguyên nhân là:
--
Yonisomanasikāra: trí tuệ hiểu biết rõ thực tánh của danh pháp, sắc pháp trong
tam giới, hoặc biết rõ đối tượng chúng sinh đáng thương yêu.
--
Meṭṭaceṭovimuṭṭa: tiến hành thiền định, niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh,
không phân biệt bạn với kẻ thù, để chứng đắc đến cận định và các bậc thiền sắc
giới (trừ bậc đệ ngũ thiền sắc giới).
* Các
pháp để diệt sân tâm
Sáu pháp
để diệt sân tâm:
1- Học
hiểu rõ đề mục niệm rải tâm từ cho mình và đến tất cả chúng sinh, không phân
biệt bạn và kẻ thù. Đó là pháp có thể diệt được sân tâm.
2- Tiến
hành thiền định đề mục niệm rải tâm từ cho mình và đến tất cả chúng sinh, không
phân biệt bạn và kẻ thù. Đó là pháp có thể diệt được sân tâm
3- Quán
xét mọi chúng sinh có nghiệp là của riêng mình. Hành giả tự dạy mình rằng: Ta thù
hận người ấy, ta có thể phá hoại được mọi thiện pháp của người ấy được hay
không? Hay ta chỉ phá hoại mọi thiện pháp của ta mà thôi. Người nào có tâm sân
hận phát sanh, giận dữ người khác; người ấy tự làm khổ cả tâm lẫn thân của mình
trước, rồi mới làm khổ đến người khác sau; chỉ có thể làm khổ thân người khác,
còn có làm khổ tâm người khác được hay không, hoàn toàn tuỳ thuộc vào sự hiểu
biết của họ. Đó là pháp có thể diệt được sân tâm.
4- Biết
quán xét về nghiệp rằng: Người nào tạo thiện nghiệp hoặc ác nghiệp, người ấy sẽ
thọ hưởng quả của thiện nghiệp hoặc ác nghiệp; nếu ta tạo ác nghiệp, thì ta
phải chịu quả khổ của ác nghiệp ấy. Đó là pháp có thể diệt được sân tâm.
5- Gần
gũi, thân cận với các bậc thầy khả kính để nương nhờ, học hỏi về pháp hành thiền
định, đề mục niệm rải tâm từ. Đó là pháp có thể diệt được sân tâm.
6- Lời
nói thuận lợi: nói về pháp hành, đề mục niệm rải tâm từ, quả báu của pháp hành
niệm rải tâm từ. Đó là pháp có thể diệt được sân tâm.
2) Pháp
nhẫn nại: thuộc về loại vô sân tâm sở.
Vô sân
tâm sở (adosacetasika) đồng sanh trong thiện tâm, có trạng thái không sân hận,
tâm mát mẻ, không tự làm khổ mình, không làm khổ người và không tự làm khổ cả
mình lẫn người.
Vô sân
tâm sở có 4 tính chất là:
1- Có
trạng thái không bực tức, không nóng giận.
2- Có
phận sự diệt tâm sân hận, thù oán.
3- Tâm
mát mẻ an lạc là quả.
4- Có trí
tuệ hiểu biết đúng thực tánh của các pháp là nguyên nhân gần để phát sanh vô
sân tâm sở đồng sanh trong thiện tâm.
Người nào
có thiện tâm, có vô sân tâm sở nhiều năng lực, thì thân tâm của người ấy thường
được mát mẻ an lạc, giúp giữ gìn duy trì sắc thân được trẻ trung, lâu già, được
phần đông mọi người yêu thương, kính mến. Mỗi khi người ta gần gũi, thân cận
với người vô sân, nhẫn nại ấy, họ có cảm giác mát mẻ an lạc.
Pháp nhẫn
nại là vô sân tâm sở đồng sanh trong thiện tâm, tạo nên thiện nghiệp, có tính
chất đặc biệt, sau khi chết, nếu thiện nghiệp ấy cho quả tái sanh làm người,
thì người ấy sẽ là người rất xinh đẹp tuyệt vời, đáng chiêm ngưỡng, được phần
đông mọi người thương yêu, kính mến, ai ai cũng muốn gần gũi, thân cận với
người ấy.
Kinh tụng
Kinh Châu
Báu
Ratanasutta
Yānīdha
bhūtāni samāgatāni
Bhummāni vā yāniva antalikkhe
Sabbe va bhūtā sumanā bhavantu
Athopi sakkacca suṇantu bhāsitaṃ
Tasmā hi bhūtāni sāmetha sabbe
Mettaṃ karotha mānusiyā pajāya
Divā ca ratto ca haranti ye baliṃ
Tasmā hi ne rakkhatha appamattā
Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Mong khởi lòng hoan hỷ
Thành kính nghe lời nầy
Rồi với tâm bi mẫn
Năng hộ trì nhơn loại
Vốn đêm ngày hồi hướng
Phước lành đến chư thiên
Yaṅkiñci vittaṃ idha vā huraṃ vā
Saggesu vā yaṃ ratanaṃ paṇītaṃ
Na no samaṃ atthi tathāgatena
Idampi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
Etena saccena suvatthi hotu.
Những vật quí trong đời
Chốn nầy hay nơi khác
Cả châu báu cõi trời
Không gì sánh bằng được
Với Như Lai Thiện Thệ
Do vậy chính đức Phật
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Khayaṃ virāgaṃ amataṃ paṇītaṃ
yadajjhagā sakyamunī samāhito
Na tena dhammena samatthi kiñci
idaṃ pi dhamme ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Pháp bất tử tối thượng
Ly dục diệt phiền não
Phật Thích Ca Mâu Ni
Chứng pháp ấy trong thiền
Không gì sánh bằng được
Pháp thiền vi diệu ấy
Do vậy chính Chánh Pháp
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Yaṃ
buddhaseṭṭho parivaṇṇayī suciṃ
samādhimānantarikaññamāhu
samādhinā tena samo na vijjati
idaṃ pi dhamme ratanaṃ paṇītam
etena saccena suvatthi hotu
Con đường thanh lọc tâm
Là tu tập thiền định
Chứng hiện tại lạc trú
Ðức Phật hằng ngợi khen
Không gì so sánh được
Do vậy chính Chánh Pháp
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Ye puggalā
aṭṭhasataṃ pasaṭṭhā
cattāri etāni yugāni honti
te dakkhiṇeyyā sugatassa sāvakā
etesu dinnāni mahapphalāni
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Thánh tám vị bốn đôi
Là những bậc ứng cúng
Ðệ tử đấng Thiện Thệ
Ðược trí giả tán thán
Cúng dường đến các ngài
Hưởng vô lượng công đức
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Ye
suppayuttā manasā daḷhena
nikkāmino gotamasāsanamhi
te pattipattā amataṃ vigayha
laddhā mudhā nibbutiṃ bhuñjamānā
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Bậc tu hành thiểu dục
Với ý chí kiên trì
Khéo chơn chánh phụng hành
Lời dạy đức Ðiều Ngự
Chứng đạt quả giải thoát
Thể nhập đạo bất tử
Lạc trú quả tịch tịnh
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Yathindakhīlo
paṭhaviṃ sito siyā
catubbhi vātebhi asampakampiyo
tathūpamaṃ suppurisaṃ vadāmi
yo ariyasaccāni aveccapassati
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Ví như cột trụ đá
Khéo chôn chặt xuống đất
Dầu bốn hướng cuồng phong
Cũng không thể lay động
Ta nói bậc chân nhân
Liễu ngộ tứ thánh đế
Cũng tự tại bất động
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Ye
ariyasaccāni vibhāvayanti
gambhīrapaññena sudesitāni
kiñcāpi te honti bhusappamattā
na te bhavaṃ aṭṭhamamādiyanti
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Bậc thánh tu đà huờn
Chứng tri lý thánh đế
Ðược đức Gô Ta Ma
Khéo thuyết giảng tường tận
Các ngài dù phóng dật
Thì cũng không bao giờ
Tái sanh kiếp thứ tám
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Sahāvassa
dassanasampadāya
tayassu dhammā jahitā bhavanti
sakkāyadiṭṭhi vicikicchitañca
sīlabbataṃ vāpi yadatthi kiñci
catūhapāyehi ca vippamutto
cha cābhiṭṭhānāni abhabbo kātuṃ
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Nhờ chứng đạt chánh trí
Ðọan trừ ba kiết sử
Thân kiến và hoài nghi
Luôn cả giới cấm thủ
Thoát khỏi bốn đọa xứ
Bậc nhập lưu không tạo
Sáu bất thiện trọng nghiệp
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Kiñcāpi so
kammaṃ karoti
pāpakaṃ kāyena vācāyuda cetasā vā
abhabbo so tassa paṭicchadāya
abhabbatā diṭṭhapadassa vuttā
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇtītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Bậc thánh tu đà huờn
Dù vô tâm phạm lỗi
Bằng thân lời hay ý
Cũng không hề che dấu
Ðược xứng danh hiền thánh
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Vanappagumbe
yathā phussitagge
gimhānamāse paṭhamasmiṃ gimhe
tathūpamaṃ dhammavaraṃ adesayi
nibbānagāmiṃ paramaṃ hitāya
idaṃ pi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Ðức Thế Tôn thuyết giảng
Pháp đưa đến niết bàn
Tịnh lạc và thù thắng
Lợi ích chúng hữu tình
Ví như mưa đầu hạ
Khiến ngàn cây đâm chồi
Do vậy chính đức Phật
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Varo
varaññū varado varāharo
anuttaro dhammavaraṃ adesayi
Idaṃ pi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Ðức Phật bậc vô thượng
Liễu thông pháp vô thượng
Ban bố pháp vô thượng
Chuyển đạt pháp vô thượng
Tuyên thuyết pháp vô thượng
Do vậy chính đức Phật
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Khīṇaṃ
purāṇaṃ navaṃ natthisambhavaṃ
virattacittāyatike bhavasmiṃ
te khīṇabījā aviruḷhichandā
nibbanti dhīrā yathāyampadīpo
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ panītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Nhân quá khứ đã đoạn
Mầm tương lai không gieo
Với tâm không ái chấp
Trong sanh hữu đời sau
Bởi tham muốn đã đọan
Các chủng tử không còn
Ví như ngọn đèn tắt
Bậc trí chứng niết bàn
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
[phân đoạn 14, 15, 16]
Yānīdha
bhūtāni samāgatāni
bhummāni vā yāniva antalikkhe
tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ
buddhaṃ namassāma suvatthi hotu
Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Hãy chí thành đảnh lễ
Ðức Phật bậc như lai
Ðược chư thiên nhân loại
Ðảnh lễ và cúng dường
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Yānīdha bhūtāni samāgatāni
bhummāni vā yāniva antalikhe
tathāgataṃ devamanussapùjitaṃ
dhammaṃ namassāma suvatthi hotu
Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Hãy chí thành đảnh lễ
Chánh Pháp đạo như chân
Ðược chư thiên nhân loại
Ðảnh lễ và cúng dường
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Yanītha bhūtāni samāgatāni
bhummāni vā yāniva antalikkhe
tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ
saṅghaṃ namassāma suvatthi hotu
Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Hãy chí thành đảnh lễ
Tăng Chúng bậc như đức
Ðược chư thiên nhân loại
Ðảnh lễ và cúng dường
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
No comments:
Post a Comment