Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Pháp Tân
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 11/4/2020
100. Kinh Sangārava (Sangārava
sutta)
Sangārava là một thanh niên bà la môn trí thức.Vị nầy đến gặp Đức
Phật hỏi về sự tuyên bố chứng đạo của một số các vị giáo chủ. Đức Phật dạy về sự
tuyên bố củ sở chứng của bốn hạng người.
990. Lòng tịnh tín của người nầy tạo nên sự bất mãn của người kia
Sangārava tình cờ nghe người chị dâu là Dhānañjānı̄ (Theo Sớ giải thì Dhānañjānı̄ là một thánh cư sĩ chứng sơ quả) trong lúc
thảng thốt nói lên lời đãnh lễ Đức Phật. Ban đầu thì Sangārava phẫn nộ nhưng từ
đó là đi tìm gặp Đức Phật:
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn du hành trong nước Kosala với đại chúng Tỷ-kheo.
Lúc bấy giờ, một nữ Bà-la-môn tên Dhananjani (Ða-na-xa-ni) trú ở
Candalakappa (Ðan-đạt-la-kiếp-ba) có lòng tín thành Phật, Pháp và Tăng. Rồi nữ
Bà-la-môn Dhananjani sau khi bị trợt chân, thốt lên ba lần cảm hứng ngữ:
"Ðảnh lễ đức Thế Tôn ấy, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác! Ðảnh lễ đức Thế
Tôn ấy, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác! Ðảnh lễ đức Thế Tôn ấy, bậc A-la-hán, Chánh
Ðẳng Giác!"
Lúc bấy giờ, một thanh niên Bà-la-môn tên Sangarava trú ở
Candalakappa, tinh thông ba tập Veda, với tự vững, lễ nghi, ngữ nguyên và thứ
năm là các cổ truyện, thông hiểu từ ngữ và văn phạm, thâm hiểu Thuận thế luận
và Ðại nhân tướng. Thanh niên Bà-la-môn Sangarava nghe nữ Bà-la-môn Dhananjani
nói như vậy, sau khi nghe, liền nói với nữ Bà-la-môn Dhanajani:
-- Nữ Bà-la-môn Dhananjani này thật là hạ liệt! Nữ Bà-la-môn
Dhananjani này thật là suy đồi, vì rằng trong khi các Bà-la-môn đang còn sống
lại nói lời ta thán Sa-môn trọc đầu ấy.
-- Này Hiền giả thân mến, có phải Hiền giả chưa biết đến giới đức
và tuệ đức của Như Lai? Này Hiền giả thân mến, nếu Hiền giả biết đến giới đức
và tuệ đức của Như Lai, tôi nghĩ rằng, này Hiền giả thân mến, Hiền giả sẽ không
nghĩ rằng Thế Tôn đáng bị mạ lỵ, đáng bị mắng nhiếc.
-- Vậy thưa Bà, khi nào Sa-môn Gotama đến tại Candalakappa, Bà hãy
báo tin cho tôi biết.
-- Thưa vâng, Hiền giả.
Nữ Bà-la-môn Dhananjani vâng đáp thanh niên Bà-la-môn Sangarava.
Rồi Thế Tôn tiếp tục du hành trong nước Kosala và đến
Candalakappa. Tại đây, Thế Tôn trú tại Candalakappa, trong rừng xoài của các
Bà-la-môn của bộ tộc Todeyya.
Nữ Bà-la-môn Dhananjani được nghe: "Thế Tôn đã đến
Candalakappa, trú tại Candalakappa, trong rừng xoài của các Bà-la-môn của bộ
tộc Todeyya". Rồi nữ Bà-la-môn Dhananjani đi đến thanh niên Bà-la-môn
Sangarava, sau khi đến, nói với thanh niên Bà-la-môn Sangarava:
-- Này Hiền giả thân mến, bậc Thế Tôn ấy đã đến Candalakappa trú
tại Candalakappa, trong rừng xoài của các vị Bà-la-môn của bộ tộc Todeyya. Này
Hiền giả thân mến, nay Hiền giả làm những gì mà Hiền giả nghĩ là hợp thời.
-- Thưa Bà, vâng.
991. Bốn hạng sa môn tự nhận là chứng đạo.
Đa số những người tuyên bố mình là người nắm được chân lý vốn dụa
trên những cơ sở thiếu thực nghiệm thực chứng:
Thanh niên Bà-la-môn Sangarava, vâng đáp nữ Bà-la-môn Dhananjani,
đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm,
sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, ngồi xuống một bên. Ngồi
xuống một bên, thanh niên Bà-la-môn Sangarava bạch Thế Tôn:
-- Thưa Tôn giả Gotama, có một số Sa-môn, Bà-la-môn tự nhận rằng
về căn bản Phạm hạnh, họ đã chứng đạt được ngay hiện tại thông trí và cứu cánh
bỉ ngạn nhờ thượng trí (abinnavesanaparamipatta). Tôn giả Gotama là thế nào đối
với các vị ấy?
-- Này Bharadvaja, Ta nói rằng, có sự sai khác giữa những vị tự
nhận rằng về căn bản Phạm hạnh, họ đã chứng đạt được ngay trong hiện tại thông
trí và cứu cánh bỉ ngạn nhờ thượng trí. Này Bharadvaja, có một số Sa-môn,
Bà-la-môn theo tin đồn (hay truyền thống), do tin đồn (hay truyền thống), họ tự
nhận rằng về căn bản Phạm hạnh, họ đã chứng đạt được ngay hiện tại thông trí
với cứu cánh bỉ ngạn nhờ thượng trí, như các Bà-la-môn thông hiểu ba tập Veda. Nhưng
này Bharadvaja, có một số Sa-môn Bà-la-môn hoàn toàn chỉ do lòng tin, tự nhận
rằng về căn bản Phạm hạnh, họ đã chứng đạt ngay trong hiện tại thông trí và cứu
cánh bỉ ngạn nhờ thượng trí, như các nhà lý luận (các nhà suy tư). Này
Bharadvaja, có một số Sa-môn, Bà-la-môn đối với các pháp từ trước chưa từng
được nghe, tự mình chứng tri hoàn toàn pháp ấy, tự nhận rằng về căn bản Phạm
hạnh, do đã chứng đạt ngay trong hiện tại thông trí và cứu cánh bỉ ngạn nhờ
thượng trí. Ở đây, này Bharadvaja, các vị Sa-môn, Bà-la-môn ấy đối với các pháp
từ trước chưa từng được nghe, tự mình chứng tri hoàn toàn pháp ấy, tự nhận rằng
về căn bản Phạm hạnh, họ đã chứng đạt ngay trong hiện tại thông trí và cứu cánh
bỉ ngạn nhờ thượng trí.
Ta là một trong những vị ấy. Này Bharadvaja, Ông cần phải hiểu
theo nghĩa như vậy. Các vị Sa-môn, Bà-la-môn ấy đối với các pháp từ trước chưa
từng được nghe, tự mình chứng tri hoàn toàn pháp ấy, tự nhận rằng, về căn bản
Phạm hạnh, họ đã chứng đạt ngay trong hiện tại thông trí và cứu cánh bỉ ngạn
nhờ thượng trí, Ta là một trong những vị ấy.
992. Hành trình của Đức Phật
Cuộc đời của Bậc Đạo Sư, ngay trong kiếp chót, vẫn là những trang
sử của một bậc hướng cầu giải thoát bằng sự thể nghiệm tự thân:
Ở đây, này Bharadvaja, thuở xưa, khi Ta chưa thành bậc Chánh Ðẳng
Giác, còn là Bồ-tát, Ta suy nghĩ như sau: "Ðời sống tại gia chật hẹp,
nhiễm đầy bụi đời; đời sống xuất gia phóng khoáng như ngoài trời. Thật không dễ
gì sống tại gia, có thể sống đời sống Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn, hoàn toàn thanh
tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy Ta hãy cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà-sa, xuất
gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình".
Rồi này Bharadvaja, sau một thời gian, khi Ta còn trẻ, niên thiếu,
tóc đen nhánh, đầy đủ huyết khí của tuổi thanh xuân, trong thời vàng son cuộc
đời, mặc dầu cha mẹ không bằng lòng, nước mắt đầy mặt, than khóc, Ta cạo bỏ râu
tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Ta xuất gia như vậy, một người đi tìm cái gì chí thiện, tìm cầu vô
thượng tối thắng an tịnh đạo lộ. Ta đến chỗ Alara Kalama ở, khi đến xong liền
thưa với Alara Kalama: "Hiền giả Kalama, tôi muốn sống phạm hạnh trong
pháp luật này". Này Bharadvaja, được nghe nói vậy, Alara Kalama nói với
Ta: "Này Tôn giả, hãy sống và an trú. Pháp này là như vậy, khiến kẻ có
trí, không bao lâu như vị Bổn sư của mình chỉ dạy, tự tri, tự chứng, tự đạt và
an trú". Này Bharadvaja, và không bao lâu Ta đã thông suốt pháp ấy một
cách mau chóng. Và này Bharadvaja, cho đến vấn đề khua môi và vấn đề phát ngôn
mà nói, thời Ta nói giáo lý của kẻ trí và giáo lý của bậc Trưởng lão (Thượng
tọa), và Ta tự cho rằng Ta như kẻ khác cũng vậy, Ta biết và Ta thấy.
Này Bharadvaja, Ta suy nghĩ như sau: "Alara Kalama tuyên bố
pháp này không phải chỉ vì lòng tin: "Sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt, Ta
mới an trú". Chắc chắn Alara Kalama biết pháp này, thấy pháp này rồi mới
an trú". Này Bharadvaja, rồi Ta đi đến chỗ Alara Kalama ở, sau khi đến Ta
nói với Alara Kalama: "Hiền giả Kalama, cho đến mức độ nào, Ngài tự tri,
tự chứng, tự đạt, và tuyên bố pháp này?" Này Bharadvaja, được nói vậy,
Alara Kalama tuyên bố về Vô sở hữu xứ.
Rồi này Bharadvaja, Ta suy nghĩ: "Không phải chỉ có Alara
Kalama có lòng tin, Ta cũng có lòng tin. Không phải chỉ có Alara Kalama mới có
tinh tấn, Ta cũng có tinh tấn. Không phải chỉ có Alara Kalama mới có niệm, Ta
cũng có niệm. Không phải chỉ có Alara Kalama mới có định, Ta cũng có định.
Không phải chỉ có Alara Kalama mới có tuệ, Ta cũng có tuệ. Vậy Ta hãy cố gắng
chứng cho được pháp mà Alara Kalama tuyên bố: "Sau khi tự tri, tự chứng,
tự đạt, ta an trú".
Rồi này Bharadvaja, không bao lâu sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt
pháp ấy một cách mau chóng, Ta an trú. Rồi này Bharadvaja, Ta đi đến chỗ Alara
Kalama ở, sau khi đến, Ta nói với Alara Kalama: "Này Hiền giả Kalama, có
phải Hiền giả đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như
vậy?" --"Vâng, Hiền giả, tôi đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố
pháp này đến mức độ như vậy". --"Này Hiền giả, tôi cũng tự tri, tự
chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy". --"Thật lợi
ích thay cho chúng tôi, Thật khéo lợi ích thay cho chúng tôi, khi chúng tôi
được thấy một đồng phạm hạnh như Tôn giả! Pháp mà tôi tự tri, tự chứng, tự đạt,
và tuyên bố, chính pháp ấy Hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú; pháp mà
Hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú, chính pháp ấy tôi tự tri, tự chứng
tự đạt và tuyên bố; pháp mà tôi biết, chính pháp ấy Hiền giả biết; pháp mà Hiền
giả biết, chính pháp ấy tôi biết. Tôi như thế nào, Hiền giả là như vậy; Hiền
giả như thế nào, tôi là như vậy. Nay hãy đến đây, Hiền giả, hai chúng ta hãy
chăm sóc hội chúng này!"
Như vậy này Bharadvaja, Alara Kalama là Ðạo Sư của Ta, lại đặt Ta,
đệ tử của vị ấy ngang hàng với mình, và tôn sùng Ta với sự tôn sùng tối thượng.
Này Bharadvaja, rồi Ta tự suy nghĩ: "Pháp này không hướng đến yểm ly,
không hướng đến ly tham, không hướng đến đoạn diệt, không hướng đến an tịnh,
không hướng đến thượng trí, không hướng đến giác ngộ, không hướng đến Niết-bàn,
mà chỉ đưa đến sự chứng đạt Vô sở hữu xứ". Như vậy này Bharadvaja, Ta
không tôn kính pháp này, và từ bỏ pháp ấy, Ta bỏ đi.
Rồi này Bharadvaja, Ta, kẻ đi tìm cái gì chí thiện, tìm cầu vô
thượng tối thắng an tịnh đạo lộ. Ta đi đến chỗ Uddaka Ramaputta, khi đến xong
Ta nói với Uddaka Ramaputta: "Hiền giả, tôi muốn sống phạm hạnh trong pháp
luật này. Ðược nói vậy, này Bharadvaja, Uddaka Ramaputta nói với Ta: "Này
Tôn giả, hãy sống (và an trú), pháp này là như vậy, khiến người có trí không
bao lâu như vị Bổn sư của mình (chỉ dạy) tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú".
Này Bharadvaja, Ta đã thông suốt pháp ấy một cách mau chóng. Và này Bharadvaja,
cho đến vấn đề khua môi và vấn đề phát ngôn mà nói, thời Ta nói giáo lý của kẻ
trí, và giáo lý của bậc Trưởng lão (Thượng Tọa), và Ta tự cho rằng Ta như người
khác cũng vậy, Ta biết và Ta thấy.
Này Bharadvaja, Ta suy nghĩ như sau: "Rama tuyên bố pháp này
không phải vì lòng tin: "Sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt, ta mới an
trú". Chắc chắn Rama thấy pháp này, biết pháp này, rồi mới an trú".
Này Bharadvaja, rồi Ta đi đến chỗ Uddaka Ramaputta ở, sau khi đến Ta nói với
Uddaka Ramaputta: "Hiền giả Rama, cho đến mức độ nào, Ngài tự tri, tự
chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này?" Này Bharadvaja được nghe nói vậy,
Uddaka Ramaputta tuyên bố về Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Rồi này Bharadvaja, Ta suy nghĩ: "Không phải chỉ có Rama mới
có lòng tin. Ta cũng có lòng tin. Không phải chỉ có Rama mới có tinh tấn, Ta
cũng có tinh tấn. Không phải chỉ có Rama mới có niệm, Ta cũng có niệm. Không
phải chỉ có Rama mới có định, Ta cũng có định. Không phải chỉ có Rama mới có
tuệ, Ta cũng có tuệ. Vậy ta hãy cố gắng chứng cho được pháp mà Rama tuyên bố:
"Sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt, tự an trú".
Rồi này Bharadvaja, không bao lâu sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt
pháp ấy một cách mau chóng, Ta an trú. Rồi này Bharadvaja, Ta đi đến chỗ Uddaka
Ramaputta ở, sau khi đến, Ta nói với Uddaka Ramaputta: "Này Hiền giả Rama,
có phải Hiền giả đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ
như vậy?" --"Vâng Hiền giả, tôi đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên
bố pháp này đến mức độ như vậy". --"Này Hiền giả, tôi cũng đã tự tri,
tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy." Thật lợi ích
thay cho chúng tôi! Thật khéo lợi ích thay cho chúng tôi, khi chúng tôi được
thấy một đồng phạm hạnh như Tôn giả! Pháp mà tôi, tự tri, tự chứng, tự đạt và
tuyên bố, chính pháp ấy Hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú; pháp mà
Hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú, chính pháp ấy tôi tự tri, tự
chứng, tự đạt và tuyên bố; pháp mà tôi biết, chính pháp ấy Hiền giả biết; pháp
mà Hiền giả biết, chính pháp ấy tôi biết. Tôi như thế nào, Hiền giả là như vậy;
Hiền giả như thế nào, Tôi là như vậy. Nay hãy đến đây, Hiền giả, hai chúng ta
hãy chăm sóc hội chúng này!"
Như vậy, này Bharadvaja, Uddaka Ramaputta là Ðạo Sư của Ta, lại
đặt Ta, đệ tử của vị ấy ngang hàng với mình, và tôn sùng Ta với sự tôn sùng tối
thượng. Này Bharadvaja, rồi Ta suy nghĩ: "Pháp này không hướng đến yểm ly,
không hướng đến ly tham, không hướng đến đoạn diệt, không hướng đến an tịnh,
không hướng đến thượng trí, không hướng đến giác ngộ, không hướng đến Niết-bàn,
mà chỉ đưa đến sự chứng đạt Phi tưởng phi phi tưởng xứ". Như vậy, này
Bharadvaja, Ta không tôn kính pháp ấy và từ bỏ pháp ấy, Ta bỏ đi.
Này Bharadvaja, Ta, kẻ đi tìm cái gì chí thiện, tìm cầu vô thượng
tối thắng an tịnh đạo lộ, tuần tự du hành tại nước Magadha (Ma kiệt đà) và đến
tại tụ lạc Uruvela (Ưu lâu tần loa). Tại đây, Ta thấy một địa điểm khả ái, một
khóm rừng thoải mái, có con sông trong sáng chảy gần, với một chỗ lội qua dễ
dàng khả ái, và xung quanh có làng mạc bao bọc dễ dàng đi khất thực. Này
Bharadvaja, rồi Ta tự nghĩ: "Thật là một địa điểm khả ái, một khóm rừng
thoải mái, có con sông trong sáng chảy gần, với một chỗ lội qua dễ dàng khả ái,
và xung quanh có làng mạc bao bọc dễ dàng đi khất thực. Thật là một chỗ vừa đủ
cho một Thiện nam tử tha thiết tinh cần có thể tinh tấn". Và này
Bharadvaja, Ta ngồi xuống tại chỗ ấy và nghĩ: "Thật là vừa đủ để tinh
tấn".
Rồi này Bharadvaja, ba ví dụ khởi lên nơi Ta, vi diệu, từ trước
chưa từng được nghe: Này Bharadvaja, ví như có một khúc cây đẫm ướt, đầy nhựa
sống và đặt trong nước. Có một người đến, cầm dụng cụ làm lửa với ý nghĩ:
"Ta sẽ nhen lửa, hơi nóng sẽ hiện ra". Này Bharadvaja, Ông nghĩ thế
nào? Người ấy lấy khúc cây đẫm ướt, đầy nhựa sống đặt trong nước ấy, rồi cọ xát
với dụng cụ làm lửa thì có thể nhen lửa, khiến lửa nóng hiện ra được không?
-- Thưa không, Tôn giả Gotama. Vì sao vậy? Này Tôn giả Gotama, vì
cành cây ấy đẫm ướt, đầy nhựa sống lại bị ngâm trong nước, nên người ấy chỉ bị
mệt nhọc và bực bội.
-- Cũng vậy, này Bharadvaja, những Sa-môn hay những Bà-la-môn sống
không xả ly các dục về thân, những gì đối với chúng thuộc các dục như dục tham,
dục ái, dục hôn ám, dục khát vọng, dục nhiệt não, về nội tâm chưa được khéo
đoạn trừ, chưa được khéo làm cho nhẹ bớt, nếu những Tôn giả Sa-môn hay
Bà-la-môn này thình lình cảm thọ những cảm giác chói đau, khổ đau, kịch liệt,
khốc liệt, các vị ấy không có thể chứng được tri kiến, vô thượng Chánh Ðẳng
Giác, và nếu những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn này không thình lình cảm thọ
những cảm giác chói đau, khổ đau, kịch liệt, khốc liệt, các vị ấy cũng không có
thể chứng được tri kiến, vô thượng Chánh Ðẳng Giác. Này Bharadvaja, đó là ví dụ
thứ nhất, vi diệu, từ trước chưa từng được nghe, được khởi lên nơi Ta.
Này Bharadvaja, rồi một ví dụ thứ hai, vi diệu, từ trước chưa từng
được nghe, được khởi lên nơi Ta. Này Bharadvaja, ví như có một khúc cây đẫm
ướt, đầy nhựa sống, được vớt khỏi nước, được đặt trên đất khô. Có một người
đến, cầm dụng cụ làm lửa với ý nghĩ: "Ta sẽ nhen lửa, hơi nóng sẽ hiện
ra". Này Bharadvaja, Ông nghĩ thế nào? Người ấy lấy khúc cây đẫm ướt, đầy
nhựa sống, được vớt khỏi nước, được đặt trên đất khô ấy, rồi cọ xát với dụng cụ
làm lửa, có thể nhen lửa, khiến hơi nóng hiện ra được không?
-- Thưa không, Tôn giả Gotama. Vì sao vậy? Này Tôn giả Gotama, vì
khúc cây ấy đẫm ướt, đầy nhựa sống, dầu được vớt khỏi nước, được đặt trên đất
khô, nên người ấy chỉ bị mệt nhọc và bực bội.
-- Cũng vậy, này Bharadvaja, những Sa-môn hay Bà-la-môn sống không
xả ly các dục về thân, những gì đối với các vị ấy thuộc các dục như dục tham,
dục ái, dục hôm ám, dục khát vọng, dục nhiệt não, về nội tâm chưa được khéo
đoạn trừ, chưa được khéo làm cho nhẹ bớt. Nếu những Tôn giả Sa-môn, hay
Bà-la-môn này thình lình cảm thọ những cảm giác chói đau, khổ đau, kịch liệt,
khốc liệt, các vị ấy không có thể chứng được tri kiến, vô thượng Chánh Ðẳng
Giác. Và nếu những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn này không thình lình cảm thọ
những cảm giác chói đau, khổ đau, kịch liệt, khốc liệt, các vị ấy cũng không có
thể chứng được tri kiến, vô thượng Chánh Ðẳng Giác. Này Bharadvaja, đó là ví dụ
thứ hai, vi diệu, từ trước chưa từng được nghe, được khởi lên nơi Ta.
Này Bharadvaja, rồi một ví dụ thứ ba, vi diệu, từ trước chưa từng
được nghe, được khởi lên nơi Ta. Này Bharadvaja, ví như có một khúc cây khô,
không nhựa, được vớt khỏi nước, được đặt trên đất khô. Có một người đến cầm
dụng cụ làm lửa với ý nghĩ: "Ta sẽ nhen lửa, lửa nóng sẽ hiện ra".
Này Bharadvaja, Ông nghĩ thế nào? Người ấy lấy khúc cây khô, không nhựa, được
vớt khỏi nước, được đặt trên đất khô, rồi cọ xát với dụng cụ làm lửa, có thể
nhen lửa, khiến nơi nóng hiện ra được không?
-- Thưa được, Tôn giả Gotama. Vì sao vậy? Này Tôn giả Gotama, vì
khúc cây ấy khô, không nhựa, lại được vớt khỏi nước, được đặt trên đất khô.
-- Cũng vậy, này Bharadvaja, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn
sống xả ly các dục về thân, những gì đối với các vị ấy thuộc các dục, như dục
tham, dục ái, dục hôn ám, dục khác vọng, dục nhiệt não, về nội tâm được khéo
đoạn trừ. Nếu những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn này thình lình cảm thọ những
cảm giác chói đau, khổ đau, kịch liệt, khốc liệt, các vị ấy có thể chứng được
tri kiến vô thượng Chánh Ðẳng Giác. Và nếu những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn
này không thình lình cảm thọ những cảm giác khổ đau, kịch liệt, khốc liệt, các
vị này cũng có thể chứng được tri kiến vô thượng Chánh Ðẳng Giác. Này
Bharadvaja, đó là ví dụ thứ ba, vi diệu, từ trước chưa từng được nghe, được
khởi lên nơi Ta.
Này Bharadvaja, rồi Ta suy nghĩ: "Ta hãy nghiến răng, dán
chặt lên lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại
tâm!" Này Bharadvaja, rồi Ta nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy
tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm. Khi Ta đang nghiến răng, dán
chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm, mồ
hôi thoát ra từ nơi nách của Ta. Này Bharadvaja, như một người lực sĩ nắm lấy
đầu một người ốm yếu hay nắm lấy vai, có thể chế ngự, nhiếp phục và đánh bại
người ấy. Này Bharadvaja, khi Ta đang nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng,
lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm, mồ hôi thoát ra từ nơi nách
của Ta, này Bharadvaja, dầu cho Ta có chí tâm tinh cần, tinh tấn, tận lực, dầu
cho niệm được an trú không dao động, nhưng thân của Ta vẫn bị khích động, không
được khinh an, vì Ta bị chi phối bởi sự tinh tấn, do tinh tấn chống lại khổ thọ
ấy.
Này Bharadvaja, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Ta hãy tu Thiền nín
thở". Và này Bharadvaja, rồi Ta nín thở vô, thở ra ngang qua miệng và
ngang qua mũi. Này Bharadvaja, khi Ta nín thở vô, thở ra ngang qua miệng và
ngang qua mũi, thì một tiếng gió động kinh khủng thổi lên, ngang qua lỗ tai.
Này Bharadvaja, ví như tiếng kinh khủng phát ra từ ống thổi bệ đang thổi của
người thợ rèn. Cũng vậy, này Bharadvaja, khi Ta nín thở vô, thở ra ngang qua
miệng và ngang qua mũi, thời một tiếng gió động kinh khủng thổi lên, ngang qua
lỗ tai. Này Bharadvaja, dầu cho Ta có chí tâm tinh cần, tinh tấn, tận lực, dầu
cho niệm được an trú không dao động, nhưng thân của Ta vẫn bị kích động, không
được khinh an, vì Ta bị chi phối bởi sự tinh tấn do tinh tấn chống lại khổ thọ
ấy.
Này Bharadvaja, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Ta hãy tu thêm
Thiền nín thở". Và này Bharadvaja, rồi Ta nín thở vô, thở ra ngang qua
miệng, ngang qua mũi, và ngang qua tai. Này Bharadvaja, khi Ta nín thở vô, thở
ra ngang qua miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai, thì có ngọn gió kinh khủng
thổi lên đau nhói trong đầu Ta. Này Bharadvaja, ví như một người lực sĩ chém
đầu một người khác với một thanh kiếm sắc, cũng vậy này Bharadvaja, khi ta nín
thở vô, thở ra, ngang qua miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai, thì có ngọn
gió kinh khủng thổi lên đau nhói trong đầu Ta. Này Bharadvaja, dầu cho Ta có
chí tâm, tinh cần, tinh tấn, tận lực, dầu cho niệm được an trú không dao động,
nhưng thân của Ta vẫn bị khích động, không được khinh an, vì Ta bị chi phối bởi
sự tinh tấn, do tinh tấn chống lại khổ thọ ấy.
Này Bharadvaja, rồi Ta suy nghĩ như sau : "Ta hãy tu thêm
Thiền nín thở". Và này Bharadvaja, rồi Ta nín thở vô, thở ra, ngang qua
miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai, Ta cảm giác đau đầu, một cách kinh
khủng. Này Bharadvaja, ví như một người lực sĩ lấy một dây nịt bằng da cứng
quấn tròn quanh đầu rồi xiết mạnh; cũng vậy, này Bharadvaja, khi Ta nín thở vô,
thở ra, ngang qua miệng, ngang qua mũi, và ngang qua tai, Ta cảm giác đau đầu
một cách kinh khủng. Này Bharadvaja, dầu cho Ta có chí tâm, tinh cần, tinh tấn
tận lực, dầu cho niệm được an trú không dao động, nhưng thân của Ta vẫn bị
khích động, không được khinh an, vì Ta bị chi phối bởi sự tinh tấn, do tinh tấn
chống lại khổ thọ ấy.
Này Bharadvaja, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Ta hãy tu thêm
Thiền nín thở". Và này Bharadvaja, rồi Ta nín thở vô, thở ra, ngang qua
miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai. Này Bharadvaja, khi Ta nín thở vô, thở
ra, ngang qua miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai, một ngọn gió kinh khủng
cắt ngang bụng của Ta. Này Bharadvaja, ví như một người đồ tể thiện xảo hay đệ
tử người đồ tể cắt ngang bụng với một con dao cắt thịt bò sắc bén. Cũng vậy,
này Bharadvaja, khi Ta nín thở vô, thở ra, ngang qua miệng, ngang qua mũi và
ngang qua tai, một ngọn kinh khủng cắt ngang bụng của Ta. Này Bharadvaja, dầu
cho Ta có chí tâm, tinh cần, tinh tấn, tận lực, dẫu cho niệm được an trú, không
dao động nhưng thân của Ta vẫn bị khích động, không được khinh an, vì Ta bị chi
phối bởi sự tinh tấn, do tinh tấn chống lại khổ thọ ấy.
Này Bharadvaja, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Ta hãy tu thêm
Thiền nín thở". Và này Bharadvaja, rồi Ta nín thở vô, thở ra, ngang qua
miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai. Này Bharadvaja, khi Ta nín thở vô, thở
ra, ngang qua miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai, thì có một sức nóng kinh
khủng khởi lên trong thân Ta. Này Bharadvaja, ví như hai người lực sĩ sau khi
nắm cánh tay một người yếu hơn, nướng người ấy, đốt người ấy trên một hố than
hừng. Cũng vậy, này Bharadvaja, khi Ta nín thở vô, thở ra, ngang qua miệng,
ngang qua mũi và ngang qua tai thì có một sức nóng kinh khủng khởi lên trong
thân Ta. Này Bharadvaja, dầu cho Ta có chí tâm, tinh cần, tinh tấn, tận lực,
dầu cho niệm được an trú, không dao động, nhưng thân của Ta vẫn bị khích động,
không được khinh an, vì Ta bị chi phối bởi sự tinh tấn, do tinh tấn chống lại
khổ thọ ấy.
Lại nữa, này Bharadvaja, chư Thiên thấy vậy nói như sau:
"Sa-môn Gotama đã chết rồi". Một số chư Thiên nói như sau:
"Sa-môn Gotama chưa chết, nhưng Sa-môn Gotama sắp sửa chết". Một số
chư Thiên nói như sau: "Sa-môn Gotama chưa chết. Sa-môn Gotama, cũng không
phải sắp chết. Sa-môn Gotama là bậc A-la-hán, đời sống của một A-la-hán là như
vậy".
Này Bharadvaja, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Ta hãy hoàn toàn
tuyệt thực". Rồi này Bharadvaja, chư Thiên đến Ta và nói như sau:
"Này Thiện hữu, Hiền giả chớ có hoàn toàn tuyệt thực. Này Thiện hữu, nếu
Hiền giả có hoàn toàn tuyệt thực, chúng tôi sẽ đổ các món ăn chư Thiên ngang qua
các lỗ chân lông cho Hiền giả, và nhờ vậy Hiền giả vẫn sống". Rồi này
Bharadvaja, Ta suy nghĩ như sau: "Nếu Ta hoàn toàn tuyệt thực và chư Thiên
này đổ các món ăn chư Thiên ngang qua các lỗ chân lông cho Ta và nhờ vậy Ta vẫn
sống, thời như vậy Ta tự dối Ta". Này Bharadvaja, Ta bác bỏ chư Thiên ấy
và nói: "Như vậy là đủ".
Này Bharadvaja, rồi Ta tự suy nghĩ như sau: "Ta hãy giảm
thiểu tối đa ăn uống, ăn ít từng giọt một, như xúp đậu xanh, xúp đậu đen hay
xúp đậu hột hay xúp đậu nhỏ". Và này Bharadvaja, trong khi Ta giảm thiểu
tối đa sự ăn uống, ăn từng giọt một, như xúp đậu xanh, xúp đậu đen hay xúp đậu
hột hay xúp đậu nhỏ, thân của Ta trở thành hết sức gầy yếu. Vì Ta ăn quá ít,
tay chân Ta trở thành như những gọng cỏ hay những đốt cây leo khô héo; vì Ta ăn
quá ít, bàn trôn của Ta trở thành như móng chân con lạc đà; vì Ta ăn quá ít,
xương sống phô bày của Ta giống như một chuỗi banh; vì Ta ăn quá ít, các xương
sườn gầy mòn của Ta giống như rui cột một nhà sàn hư nát; vì Ta ăn quá ít, nên
con ngươi long lanh của Ta nằm sâu thẳm trong lỗ con mắt, giống như ánh nước
long lanh nằm sâu thẳm trong một giếng nước thâm sâu; vì Ta ăn quá ít, da đầu
Ta trở thành nhăn nhiu khô cằn như trái bí trắng và đắng bị cắt trước khi chín,
bị cơn gió nóng làm cho nhăn nhíu khô cằn. Này Bharadvaja, nếu Ta nghĩ:
"Ta hãy rờ da bụng", thì chính xương sống bị Ta nắm lấy. Nếu Ta nghĩ:
"Ta hãy rờ xương sống", thì chính da bụng bị Ta nắm lấy. Vì Ta ăn quá
ít, nên này Bharadvaja, da bụng của Ta đến bám chặt xương sống. Này Bharadvaja,
nếu Ta nghĩ: "Ta đi đại tiện, hay đi tiểu tiện" thì Ta ngã quị, úp
mặt xuống đất, vì Ta ăn quá ít. Này Bharadvaja, nếu Ta muốn xoa dịu thân Ta,
lấy tay xoa bóp chân tay, thì này Bharadvaja, trong khi Ta xoa bóp chân tay,
các lông tóc hư mục rụng khỏi thân Ta, vì Ta ăn quá ít.
Lại nữa, này Bharadvaja, có người thấy vậy nói như sau:
"Sa-môn Gotama có da đen". Một số người nói như sau: "Sa-môn
Gotama, da không đen, Sa-môn Gotama có da màu xám". Một số người nói như
sau: "Sa-môn Gotama da không đen, da không xám." Một số người nói như
sau: "Sa-môn Gotama da không đen, da không xám, Sa-môn Gotama có da màu
vàng sẫm". Cho đến mức độ như vậy, này Bharadvaja, da của Ta vốn thanh
tịnh, trong sáng bị hư hoại vì Ta ăn quá ít.
Này Bharadvaja, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Thuở xưa có những
Sa-môn hay Bà-la-môn thình lình cảm thọ những cảm giác chói đau, khổ đau, kịch
liệt, khốc liệt. Những sự đau khổ này là tối thượng, không thể có gì hơn nữa.
Về tương lai, có những Sa-môn hay Bà-la-môn thình lình cảm thọ những cảm giác
chói đau, khổ đau, kịch liệt, khốc liệt. Những sự đau khổ này là tối thượng
không thể có gì hơn nữa. Trong hiện tại, có những Sa-môn hay Bà-la-môn thình
lình cảm thọ những cảm giác chói đau, khổ đau, kịch liệt, khốc liệt. Những sự
đau khổ này là tối thượng, không thể có gì hơn nữa. Nhưng Ta, với sự khổ hạnh
khốc liệt như thế này, vẫn không chứng được pháp thượng nhân, tri kiến thù
thắng xứng đáng bậc Thánh. Hay là có đạo lộ nào khác đưa đến giác ngộ?"
Này Bharadvaja, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Ta biết, trong khi
phụ thân Ta, thuộc giòng Sakka (Thích-ca) đang cày và Ta đang ngồi dưới bóng
mát cây diêm-phù-đề (jambu), Ta ly dục, ly pháp bất thiện chứng và trú Thiền
thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ". Khi an trú
như vậy, Ta nghĩ: "Ðạo lộ này có thể đưa đến giác ngộ chăng?" Và này
Bharadvaja, tiếp theo ý niệm ấy, ý thức này khởi lên nơi Ta: "Ðây là đạo
lộ đưa đến giác ngộ".
Này Bharadvaja, rồi Ta suy nghĩ: "Ta có sợ chăng lạc thọ này,
một lạc thọ ly dục, ly pháp bất thiện?" Này Bharadvaja, rồi Ta suy nghĩ:
"Ta không sợ lạc thọ này, một lạc thọ ly dục, ly pháp bất thiện".'
Rồi này Bharadvaja, Ta suy nghĩ: "Nay thật không dễ gì chứng
đạt lạc thọ ấy, với thân thể ốm yếu kinh khủng như thế này. Ta hãy ăn thô thực,
ăn cơm chua". Rồi này Bharadvaja, Ta ăn thô thực, ăn cơm chua. Này
Bharadvaja, lúc bấy giờ, năm Tỷ-kheo đang hầu hạ Ta suy nghĩ: "Khi nào
Sa-môn Gotama chứng pháp, vị ấy sẽ nói cho chúng ta biết". Này Bharadvaja,
khi thấy Ta ăn thô thực, ăn cơm chua, các vị ấy chán ghét Ta, bỏ đi và nói:
"Sa-môn Gotama nay sống đầy đủ vật chất, từ bỏ tinh tấn, trở lui đời sống
sung túc".
Rồi này Bharadvaja, sau khi ăn thô thực và được sức lực trở lại,
Ta ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ
lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai,
một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Ly
hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả
niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ
trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng không cấu nhiễm, không
phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng
tâm đến Túc mạng minh. Ta nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời,
ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời,
năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp,
nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Ta nhớ rằng: "Tại chỗ kia, Ta
có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như
thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, Ta được sanh
ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp
như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này". Như
vậy Ta nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi
tiết. Này Bharadvaja, đó là minh thứ nhất Ta đã chứng được trong đêm canh một,
vô minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng dật,
nhiệt tâm, tinh cần.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng không cấu nhiễm, không
phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm,
hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của chúng sanh. Ta với thiên nhãn thuần tịnh,
siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Ta biết rõ rằng chúng sanh,
người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh
đều do hạnh nghiệp của họ. Những chúng sanh làm những ác hạnh về thân, lời và
ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến; những
người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ,
địa ngục. Còn những chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, lời và ý,
không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến;
những vị này sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, cõi
trời, trên đời này. Như vậy Ta với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống
chết của chúng sanh. Ta biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang,
người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của
họ. Này Bharadvaja, đó là minh thứ hai Ta đã chứng được trong đêm canh giữa, vô
minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng dật, nhiệt
tâm, tinh cần.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng không cấu nhiễm, không
phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm,
hướng tâm đến Lậu tận trí. Ta biết như thật: "Ðây là Khổ", biết như
thật: "Ðây là Nguyên nhân của khổ", biết như thật: "Ðây là sự
Diệt khổ", biết như thật: "Ðây là Con đường đưa đến diệt khổ",
biết như thật: "Ðây là những lậu hoặc", biết như thật: "Ðây là
nguyên nhân của lậu hoặc", biết như thật: "Ðây là sự diệt trừ các lậu
hoặc", biết như thật: "Ðây là con đường đưa đến sự diệt trừ các lậu
hoặc". Nhờ biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của Ta thoát khỏi dục lậu,
thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Ðối với tự thân đã giải thoát như vậy,
Ta khởi lên sự hiểu biết: "Ta đã giải thoát" Ta đã biết: "Sanh
đã diệt, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại không có đời
sống nào khác nữa". Này Bharadvaja, đó là minh thứ ba mà Ta đã chứng được
trong canh cuối, vô minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống
không phóng dật, nhiệt tâm tinh cần.
Khi nghe nói vậy, thanh niên Bà-la-môn Sangarava bạch thế tôn:
-- Thật sự, sự tinh cần của tôn giả Gotama là trung kiên
(atthita). Thật sự, sự tinh cần của tôn giả Gotama là sự tinh cần của các bậc
Chân nhân (Sappurisa), một bậc như là A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác.
993. Một câu trả lời khác hơn kỳ vọng từ người hỏi
Thưa Tôn giả Gotama, có các chư Thiên không?
-- Này Bharadvaja, Ta được biết một cách chắc chắn có chư Thiên.
-- Nhưng vì sao, thưa Tôn giả Gotama, khi được hỏi có các chư
Thiên không, lại hỏi: "Này Bharadvaja, Ta được biết một cách chắc chắn có
chư Thiên". Sự việc là như vậy, thưa Tôn giả Gotama, thì có phải là hư
ngôn, vọng ngữ không?
-- Này Bharavaja, nếu khi được hỏi: "Có chư Thiên
không?"; cần phải đáp: "Có chư Thiên"; nhưng lại đáp: "Chắc
chắn Ta được biết có chư Thiên". Như vậy, một người có trí đi đến kết luận
không có gì nghi ngờ nữa, là có chư Thiên.
-- Nhưng vì sao Tôn giả Gotama không giải thích như vậy cho con từ
khi bắt đầu?
-- Này Bharadvaja, như vậy đã được lớn tiếng chấp nhận ở đời tức
là có chư Thiên.
994. Quy ngưỡng Tam Bảo
Khi nghe nói vậy, thanh niên Bà-la-môn Sangarava bạch Thế Tôn:
-- Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả
Gotama! Tôn giả Gotama, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống,
phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc hướng, đem đèn sáng vào
trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc; cũng vậy, Chánh pháp đã được
Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày. Và nay con xin quy y Tôn giả Gotama,
quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử,
từ nay trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 1. Ngày nay có nhiều người tự xưng là chứng đạo hay tuyên bố ai đó chứng đạo. Những khẳng định đó theo Tam tạng Pali nên được nhận thức thế nào? - TT Tuệ Quyền
Thảo luận 2 Tại sao tri kiến dựa trên kinh điển truyền thống không thể được xem là tuệ giác mà phải tự thân chứng nghiệm? - ĐĐ Nguyên Thông
Thảo luận 3. Phải chăng sự cảm hoá đối với một người vốn nhiều định kiến thật sự vô cùng khó khăn? - TT Pháp Tân
III Trắc Nghiệm
Trắc nghiệm 1. Đức Thế Tôn kể lại sự thể nghiệm tự thân trên hành trình giác ngộ giải thoát. Điều nào sau đây được ghi lại từ hành trình mà Ngài thuật lại?
A. Sự từ bỏ danh vọng tối thượng dù là là ngai vàng hay địa vị giáo chủ /
B. Sự từ bỏ lợi dưỡng tối thượng dù là cuộc sống nhung lụa thời trai trẻ /
C. Sự từ bỏ ái chấp đối với tự thân qua trắc nghiệm khổ hạnh cực điểm /
D. Cả ba điều trên.
ĐĐ Pháp Tín cho đáp án trắc nghiệm 1 : D.
Thảo luận 2 Tại sao tri kiến dựa trên kinh điển truyền thống không thể được xem là tuệ giác mà phải tự thân chứng nghiệm? - ĐĐ Nguyên Thông
Trắc nghiệm 2. Câu nào sau đây được xem là đúng dựa trên ý nghĩa trong bài kinh?
A. Có những người nhận mình chứng đạo do lầm tưởng /
B. Có những người nhận mình chứng đạo do tự thân thực chứng /
C. Có những người nhận mình chứng đạo do sự giả dối lừa đảo /
D. Cả ba trường hợp trên đều có thể xẩy ra.
ĐĐ Pháp Tín cho đáp án trắc nghiệm 2 : D
Thảo luận 2 Tại sao tri kiến dựa trên kinh điển truyền thống không thể được xem là tuệ giác mà phải tự thân chứng nghiệm? - ĐĐ Nguyên Thông
Trắc nghiệm 2. Câu nào sau đây được xem là đúng dựa trên ý nghĩa trong bài kinh?
A. Có những người nhận mình chứng đạo do lầm tưởng /
B. Có những người nhận mình chứng đạo do tự thân thực chứng /
C. Có những người nhận mình chứng đạo do sự giả dối lừa đảo /
D. Cả ba trường hợp trên đều có thể xẩy ra.
ĐĐ Pháp Tín cho đáp án trắc nghiệm 2 : D
No comments:
Post a Comment