TU TẬP THỜI ĐẠI DỊCH
Pháp thoại
PHẬT GIÁO
VÀ KHOA HỌC
Trích từ “Phật Giáo, nền tảng của khoa học”
Trích từ “Phật Giáo, nền tảng của khoa học”
Hòa thượng Prayudh Payutto
Tỳ kheo Thích Tâm Quang
dịch
III. KHOA HỌC VÀ TÔN GIÁO: CUỘC GẶP GỠ HAY PHÂN LY?Giống tôn giáo, nhưng ...
NÓI VỀ
PHẬT GIÁO, điều trước hết là phải nói về nguồn gốc. Tôi đã nói nguồn gốc tôn
giáo là do sợ hãi nguy hiểm, nhưng nguồn gốc của Phật Giáo không phải là như
vậy mà là do sộ hãi khổ đau. Xin hãy lưu ý đến sự khác biệt này.
Trong phần nói về tôn giáo, tôi có đề cập đến nguy hiểm, nhưng riêng Phật Giáo
lại nói về khổ đau với một ý nghĩa rộng lớn. Cụ thể là sự sợ hãi nguy hiểm
không những nhằm vào các yếu tố bên ngoài, như lụt lội, động đất, vân vân .. mà
khổ đau là tình trạng tinh thần bị căng thẳng, mâu thuẫn.Khổ đau là
gì? Khổ đau là trường hợp tinh thần bị căng thẳng, mâu thuẫn,
nói ngắn gọn là cái khó khăn nan giải của nhân loại. Ðơn giản chúng ta có thể
nói khổ đau là khó khăn, vì sự khó khăn là nguyên nhân của tình trạng căng
thẳng và nản lòng.
Các tôn
giáo khác cũng đi tìm ngồn gốc của nguy hiểm. Theo như người ta biết, bất cú
lúc nào, có điều gì xẩy ra trong xã hội loài người thì đều phải có người nào đó
tạo nên hay điều khiển. Trong xã hội loài người, con người là người kiểm soát,
nhưng thế giới thiên nhiên lại vượt qua sự kiểm soát của con người. Con người
vẫn nghĩ rằng có một người nào đó điều khiển muôn việc, cho nên con người đi
tìm người nào đó này, và tìm thấy người điều khiển, một hay các vị thần, sức
mạnh siêu nhiên, nguồn gốc của mọi thiên tai. Những lực lượng này sinh ra mây,
bão, lụt, cháy vân vân...Ðó là sự nổi lên của tôn giáo.
Người
thuở xưa coi có tình trạng đó là do sự thưởng phạt. Nay muốn tránh khỏi nguy
hiểm là phải tìm nguyên nhân gây ra nó. Nhìn vào xã hội loài người, có những
nhà lãnh đạo nắm quyền lực, nên họ cũng áp dụng mô hình này cho các thế lực
đứng sau các hiện tượng thiên nhiên, do đó cho ra đời thuyết thần linh. Cho nên
một số nhà tâm lý hiện đại nói con người tạo ra Thượng Ðế theo hình ảnh của
mình, ngược lại với các điều dạy của Cơ Ðốc giáo cho rằng Thượng Ðế tạo ra con
người theo hình ảnh của Thượng Ðế.
Nhân
loại coi những thần thánh đó là nguồn gốc của các nguy hiểm, do đó họ lý luận
họ cần phải làm vừa lòng các thần thánh ấy, cũng giống như vừa lòng người lãnh
đạo. Kết quả sinh ra nhiều thứ pháp kỹ thuật và các cuộc hành lễ để tỏ bày lòng
tôn trọng và tôn kính, các lễ hiến tế cúng thần, cầu nguyện vân vân.....
Yếu tố
căn bản quyết định những việc xẩy ra trên thế gian, theo như các tôn giáo cổ,
là do ý muốn của thần thánh.
Yếu tố
ràng buộc nhân loại vào các thần thánh hay sức mạnh siêu nhiên ấy là niềm tin.
Niềm tin
vào thần thánh hay các vị thánh thần được biểu hiện qua các lễ hiến tế, cầu
nguyện, lễ bái, vân vân...
Cho nên,
nơi đây ta có một bức tranh toàn bộ về vị chủ tể các biến cố đó - ý muốn của
Thượng Ðế; chúng ta thấy sự liên hệ chung của nhân loại - niềm tin, và chúng ta
thấy phương pháp tác động - lễ hiến tế, cầu nguyện, vân vân...Ðó là hình ảnh
phổ biến về vai trò của niềm tin trong hầu hết các tôn giáo.
Bây giờ,
hãy nhìn vào các yếu tố liên quan đến Phật Giáo. Như tôi đã nói, Phật Giáo căn
cứ vào sự mong muốn thoát khỏi khổ đau. Phương pháp thích hợp nào được thực
hành để giải thoát khỏi khổ đau? Muốn như vậy, bạn phải xem khổ đau phát xuất
từ đâu. Nguồn gốc của khổ đau ở nơi đâu? Trong khi các tôn giáo khác dạy ngồn
gốc của hiểm nguy là ở sức mạnh siêu nhiên, Phật Giáo nói nguyên nhân khổ đau
là một tiến trình tự nhiên cần phải hiểu.
Khổ đau
có một nguồn gốc hành hoạt tùy theo tiến trình tự nhiên, gọi là nhân và quả.
Việc không hiểu tiến trình nhân quả tự nhiên là nguyên nhân khổ đau. Phật Giáo
đào sâu vào nguồn gốc của khổ đau bằng cách nhìn vào vô minh, sự không hiểu
biết về nhân và quả, hay sự ngu si không hiểu Qui Luật Tự Nhiên.
Tới điểm
này, chúng ta vào trọng tâm của Phật Giáo. Vừa rồi tôi đã nói, nguồn gốc của
các tôn giáo là do ý thức về sự nguy hiểm, nguồn gốc của nguy hiểm là ý muốn
của đấng tối cao hay các lực lượng tối cao; nhưng nguồn gốc của Phật Giáo là do
ý thức được khổ đau, mà nguồn gốc khổ đau là vô minh (ngu si) không hiểu tiến
trình tự nhiên của khổ đau, tức ngu si không hiểu Luật Tự Nhiên.
Bây giờ
chúng tôi đặt lại vấn đề. Ðặt lại vấn đề ra sao? Khi ngu si không hiểu Qui Luật
Tự Nhiên là nguyên nhân thì cách sửa chữa là làm ngược lại, đó là kiến thức và
hiểu biết điều mà chúng ta gọi là trí tuệ.
Trước
đây, tôn giáo dựa vào niềm tin vì mối liên hệ giữa người và nguồn gốc nguy
hiểm. Phật Giáo thay đổi sự liên hệ của con người này thành trí tuệ. Ở đoạn
này, xin nhấn mạnh là chuyển niềm tin thành trí tuệ, và đó là sự khác biệt chủ
yếu của Phật Giáo. Theo Phật Giáo, con người phải biết và hiểu luật nhân quả,
cùng giải quyết các vấn đề sao cho phù hợp.
Cuối
cùng (x) việc tu sửa các yếu tố gây khổ đau là trách nhiệm con người, và trong
phạm vi tiềm lực của con người. Do đó đặt tầm quan trọng cho việc giải quyết
vấn đề đã chuyển từ ý muốn của sức mạnh siêu nhân thành nỗ lực của con người.
(x)
sự ám chỉ tại đây và trong bốn đoạn văn trước đây, là Tứ Diệu Ðế: Khổ, nguyên
nhân của khổ, diệt khổ và con đường dẫn đến diệt khổ là trọng tâm của giáo lý
Phật Giáo.
Ba điều sau đây
rất có ý nghĩa:
1. Hầu
hết các tôn giáo đều lo lắng về nguồn gốc nguy hiểm, cho rằng tại thần thánh,
nhưng Phật Giáo lại quan tâm đến nguồn gốc của khổ đau và cho rằng do vô minh.
2. Sự
ràng buộc vào nguồn gốc đó trong hầu hết các tôn giáo là thần thánh tức quyền
lực siêu nhiên, nhưng trong Phật Giáo là trí tuệ.
3. Chủ
yếu của hầu hết các tôn giáo cho là do thần thánh hay sức mạnh siêu nhân, nhưng
trong Phật Giáo trách nhiệm đặt trong tay con người, nhất là vào hành động của
con người.
Nét nổi
bật trong Phật Giáo là chuyển niềm tin thành trí tuệ, và đó là một sự thay đổi
toàn diện mang tính cách mạng. Loại trí tuệ như thế bắt đầu với sự ham thích
muốn biết, tức muốn có kiến thức trước khi đạt đến trí tuệ thông thái, và phải
có khát vọng. Nhưng khát vọng có kiến thức này khác với khát vọng của khoa học,
và tôi sẽ trình bày sau này.
Một
chuyển đổi quan trọng khác trong nét nổi bật của Phật Giáo là chuyển niềm tin
vào thần thánh thành nỗ lực của con người. Ðây là một trong những nền tảng của
Phật Giáo. Dù Phật Giáo lan tràn tới đâu, dù giáo lý có bị bóp méo thế nào đi
nữa, nguyên tắc nhấn mạnh vào nỗ lực của con người không bao giờ thay đổi. Chỉ
cần nguyên tắc này thay đổi, chúng ta có thể tin tưởng mà nói rằng nguyên tắc
đó không phải là Phật Giáo.
Nguyên
tắc về nỗ lực của con người được sáng tỏ trong phạm vi Phật Giáo là Ðịnh Luật
về Nghiệp. Người ta có thể hiểu sai Nghiệp, có nhiều hiểu lầm về Nghiệp, ngay
trong giới Phật Giáo, nhưng dù điều đó có thể thay đổi thế nào đi nữa, Nghiệp
bao giờ cũng liên quan với nỗ lực con người.
Sự phối
hợp gắn bó của Phật Giáo với Qui Luật Tự Nhiên, tuyên bố trạng thái độc lập của
con người, đặt trí tuệ trước niềm tin, là một sự kiện độc đáo vô song trong
lịch sử tôn giáo. Việc này đã làm cho một số các nhà phân tích Tây Phương nghĩ
rằng Phật Giáo không phải là một tôn giáo. Sách vở về Phật Giáo của Tây Phương
thường nói Phật Giáo không phải là một tôn giáo, có nghĩa không phải là một tôn
giáo như một tôn giáo trong văn hóa Tây Phương.
Cho nên
chúng tôi có ba nguyên tắc quan trọng:
1. Qui
Luật Tự Nhiên;
2. Con người hoàn toàn độc lập;
3. Sự thay thế niềm tin bằng trí tuệ.
Bây giờ
để làm sáng tỏ vấn đề, chúng tôi dùng chút ít thì giờ nói về vài đặc tính căn
bản của Phật Giáo. Trước nhất, chúng tôi đề cập đến một số giáo lý do đích thân
Ðức Phật chỉ dạy, và bàn rộng hơn về giáo lý này, xem chúng liên quan đến khoa
học ra sao.
1. Sự
gắn bó với qui luật tự nhiên: Chân lý là Qui Luật Tự Nhiên, tồn tại một cách tự nhiên. Ðức Phật
là người duy nhất tìm ra chân lý này. Chắc Quý Vị đã nghe các thầy tu tụng kinh
Dhammaniyãma trong tang lễ, nhưng đa số nguời không hiểu nghĩa lý của kinh này,
đó là chân lý thiên nhiên hiện hữu, là đi?u kiện bình thường. Ðức Phật xuất
hiện hay không, chân lý vẫn ở đó.
Cái gì
là Dhammaniyãma, hay Qui Luật Tự Nhiên là gì? Các thầy tu tụng Uppãdã
vã bhikhave tathãgatãnam, anuppãdã vã tathãgatãnam: "Các Ðức Phật xuất
hiện hay không xuất hiện, chân lý vẫn tự nhiên, không thay đổi, và mọi sự vật
duyên hợp đều vô thường, khổ đau và vô ngã"
Vô
thường có nghĩa là
tất cả sự vật do duyên hợp sanh ra rồi chết đi không ngừng, xuất hiện và mất
đi.
Khổ
đau ý muốn nói chúng
luôn luôn là điều kiện của những xung lực và đối lực, không thể giữ nguyên được
sự bất biến.
Vô
Ngã có nghĩa chúng
không phải là Ngã (Ta), một thực thể nội tại, chúng chỉ là những yếu tố hỗ trợ,
không thực chất. Bất cứ chúng ở dạng thức nào chúng cũng đều phải theo sự điều
khiển của các yếu tố hỗ trợ (Không có Ngã Sở Hữu). Ðó là nguyên tắc của sự phát
sinh có điều kiện, giá trị căn bản nhất của chân lý.
Ðức Phật
đã giác ngộ các chân lý ấy, Ngài đã tuyên bố và giải thích chúng. Do đó bài
tụng có nghĩa như thế nào. Nguyên tắc đầu tiên rất quan trọng, và là nguyên tắc
căn bản nhất trong Phật Giáo. Phật Giáo coi những qui luật tự nhiên ấy như chân
lý căn bản.
2. Sự
tương quan và phụ thuộc lẫn nhau của mọi sự: Phật Giáo dạy Lý Nhân Duyên (Qui Luật về
Sự Phát Sinh phụ thuộc-Lý Duyên Khởi). Tóm lại, cốt lõi của luật này là:
Imasmim
sati idam hoti
Imasmimasati Idamna hoti
Imassuppãdã idam uppajjati
Imassa nidrdhãidam nirujjhati
Câu trên
có nghĩa:
'Khi
có cái này thì có cái kia
Khi không có cái này thì cái kia cũng không có
Vì lẽ cái này sinh thì cái kia sinh;
Vì cái này diệt thì cái kia cũng diệt.'
Ðó là
chân lý, một qui luật tự nhiên, được phát triển đầy đủ trong việc ứng dụng thực
tế. Nói một cách đơn giản, đó là luật tự nhiên về nhân quả ở mức độ căn bản
nhất.
Ðiều
đáng ghi nhớ là Phật Giáo hay dùng từ ngữ nhân quả hơn là ' nguyên nhân và hậu
quả'. Nhân quả nói đến mối quan hệ luyến tính và cụ thể. Phật Giáo tin những
kết quả không chỉ do nguyên nhân mà còn do nhiều yếu tố phụ thuộc khác. Khi
những điều kiện hội đủ, kết quả đến ngay.
Thí dụ,
chúng ta trồng một hạt xoài, mầm của cây soài nẩy nở. Cây xoài là quả, nhưng
nguyên nhân của cây xoài là gì? Bạn có thể nói hạt giống là nguyên nhân, nhưng
nếu chỉ có hạt giống không thôi, cây soài không mọc lên được. Cần nhiều yếu tố
khác như đất, nước, dưỡng khí, thời tiết, phân bón vân vân...Chỉ khi nào các
yếu tố hội đủ, kết quả sẽ nẩy sinh. Nguyên tắc này giải thích tại sao một số
người cảm thấy họ tạo nhiều nhân nhưng không thấy quả mong muốn. Họ nên
tự hỏi là họ đã tạo các điều kiện đầy đủ chưa.
Xin nhớ
là mối quan hệ nhân quả không hẳn diễn tiến đúng theo tuyến chiều dài. Chúng ta
có khuynh hưóng nghĩ rằng sự việc sẽ tuần tự vi tiến cái này rồi đến cái kia -
điều này xuất hiện trước, và kết quả phải theo liền sau đó. Nhưng sự việc chưa
hẳn là như vậy.
Thí dụ
chúng ta có cái bảng đen, tôi lấy phấn viết mấy chữ A, B và C lên bảng. Những
chữ này xuất hiện là kết quả. Bây giờ cái gì là nguyên nhân của các chữ ấy xuất
hiện trên bảng đen? Thông thường chúng ta có thể trả lời nguyên nhân là người
viết. Nếu nhìn vào sự tương quan của các nét phấn trắng, chúng ta có thể trả
lời nguyên nhân là phấn. Bất cứ một yếu tố nào ta lấy cũng có thể là nguyên
nhân, nhưng chỉ một nguyên nhân không đủ cho kết quả nẩy sinh. Muốn có chữ A
trên bảng, phải có sự tụ hội của nhiều yếu tố - người viết, phấn, bảng mầu
thích hợp - chỉ một cái bảng chưa đủ, bảng phải có mầu sắc tương phản với phấn
- độ ẩm thích hợp, bề mặt không bị quá ẩm - Phải hội đủ mọi yếu tố mới sinh ra
kết quả
Giờ đây,
sự xuất hiện của chữ A có cần thiết để tất cả các yếu tố phải lần lượt xuất
hiện? Chúng ta thấy một số các yếu tố phải có cùng một lúc, là những yếu tố phụ
thuộc lẫn nhau ở nhiều phương diện, không nhất thiết phải xuất hiện lần lượt
cái này rồi mới đến cái kia. Ðó là giáo lý của Phật Giáo về nhân duyên.
3.
Nguyên tắc về niềm tin:Tôi
vừa nói Phật Giáo đã chuyển tầm quan trọng từ niềm tin thành trí tuệ trong tôn
giáo, nay chúng tôi lại nói về niềm tin là làm sao? Ðiều này, nên hiểu niềm tin
vẫn đóng một vai trò quan trọng trong Ðạo Phật, nhưng tầm quan trọng có thay
đổi.
Trên
hết, chúng ta hãy xem niềm tin liên quan ra sao trong Phật Giáo đến sự kiểm
chứng qua kinh nghiệm hiện tại. Giáo lý về khía cạnh này được trích dẫn trong
Kinh Kalama với đoạn sau đây:
Này các
người Kalama,
Ðừng tin vì bạn đã nghe thấy như thế.
Ðừng tin vì bạn đã biết như thế
Ðừng tin vì bạn đã thực hành như thế lâu rồi
Ðừng tin vì điều đó được đồn đại
Ðừng tin vì điều đó nói trong kinh
Ðừng tin vì chỉ dựa vào lý luận, biện luận
Ðừng tin vì suy luận, lập luận
Ðừng tin vì lý luận
Ðừng tin vì điều đó phù hợp với lý thuyết của bạn
Ðừng tin vì điều đó có vẻ đáng tin
Ðừng tin vì điều đó vị thầy của bạn tin
Giáo lý
này khiến người Tây Phương hết sức ngạc nhiên khi lần đầu tiên nghe thấy giáo
lý này, giáo lý này là một trong những giáo lý rất đại chúng, vì trong thời
gian đó văn hóa Tây Phương mới bước vào ngưỡng cửa khoa học. Ý kiến không nên
dễ dàng tin ngay vào một điều gì mà chỉ tin sau khi kiểm chứng là rất phổ biến.
Kinh Kalama được khá nhiều người Tây Phương quen thuộc với Ðạo Phật biết đến,
nhưng người Thái lại ít biết đến.
Trong
Kinh Kalama, Ðức Phật dạy rằng ta phải biết và hiểu rõ bằng kinh nghiệm những
điều nào là những điều nên theo và những điều nào là những điều không nên theo.
Hiểu biết điều nào không nên áp dụng và có hại, không đem lợi ích mà đem đau
khổ, ta phải từ bỏ. Hiểu biết điều nào đáng kể, hữu ích, đem hạnh phúc, ta nên
theo. Ðó là vấn đề về kiến thức trong sáng, sự nhận thức trực diện, kinh nghiệm
bản thân. Ðó là sự chuyển đổi từ niềm tin thành trí tuệ.
Ngoài
ra, Ðức Phật cũng dạy một số nguyên tắc rất rõ ràng để khảo sát kinh nghiệm bản
thân. Ngài nói " Ðộc lập về niềm tin, độc lập về sự tán thành, độc lập về
học hỏi, độc lập về tư duy, độc lập theo lý thuyết của mình, người đó thấy rõ
ràng khi tâm tham, khi tâm không tham; khi tâm sân, khi tâm không sân; khi tâm
bị ảo tưởng ám ảnh, khi tâm không ảo tưởng ngay trong hiện tại".Ðây là
kinh nghiệm bản thân đứng đắn, tâm ý của chúng ta tự chúng ta có thể nhận biết
rõ ràng ngay trong hiện tại. Ðó là nguyên tắc xác minh qua kinh nghiệm bản thân.
[còn tiếp]
Kinh tụng
Kinh Châu
Báu
Ratanasutta
Yānīdha
bhūtāni samāgatāni
Bhummāni vā yāniva antalikkhe
Sabbe va bhūtā sumanā bhavantu
Athopi sakkacca suṇantu bhāsitaṃ
Tasmā hi bhūtāni sāmetha sabbe
Mettaṃ karotha mānusiyā pajāya
Divā ca ratto ca haranti ye baliṃ
Tasmā hi ne rakkhatha appamattā
Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Mong khởi lòng hoan hỷ
Thành kính nghe lời nầy
Rồi với tâm bi mẫn
Năng hộ trì nhơn loại
Vốn đêm ngày hồi hướng
Phước lành đến chư thiên
Yaṅkiñci vittaṃ idha vā huraṃ vā
Saggesu vā yaṃ ratanaṃ paṇītaṃ
Na no samaṃ atthi tathāgatena
Idampi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
Etena saccena suvatthi hotu.
Những vật quí trong đời
Chốn nầy hay nơi khác
Cả châu báu cõi trời
Không gì sánh bằng được
Với Như Lai Thiện Thệ
Do vậy chính đức Phật
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Khayaṃ virāgaṃ amataṃ paṇītaṃ
yadajjhagā sakyamunī samāhito
Na tena dhammena samatthi kiñci
idaṃ pi dhamme ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Pháp bất tử tối thượng
Ly dục diệt phiền não
Phật Thích Ca Mâu Ni
Chứng pháp ấy trong thiền
Không gì sánh bằng được
Pháp thiền vi diệu ấy
Do vậy chính Chánh Pháp
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Yaṃ
buddhaseṭṭho parivaṇṇayī suciṃ
samādhimānantarikaññamāhu
samādhinā tena samo na vijjati
idaṃ pi dhamme ratanaṃ paṇītam
etena saccena suvatthi hotu
Con đường thanh lọc tâm
Là tu tập thiền định
Chứng hiện tại lạc trú
Ðức Phật hằng ngợi khen
Không gì so sánh được
Do vậy chính Chánh Pháp
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Ye puggalā
aṭṭhasataṃ pasaṭṭhā
cattāri etāni yugāni honti
te dakkhiṇeyyā sugatassa sāvakā
etesu dinnāni mahapphalāni
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Thánh tám vị bốn đôi
Là những bậc ứng cúng
Ðệ tử đấng Thiện Thệ
Ðược trí giả tán thán
Cúng dường đến các ngài
Hưởng vô lượng công đức
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Ye
suppayuttā manasā daḷhena
nikkāmino gotamasāsanamhi
te pattipattā amataṃ vigayha
laddhā mudhā nibbutiṃ bhuñjamānā
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Bậc tu hành thiểu dục
Với ý chí kiên trì
Khéo chơn chánh phụng hành
Lời dạy đức Ðiều Ngự
Chứng đạt quả giải thoát
Thể nhập đạo bất tử
Lạc trú quả tịch tịnh
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Yathindakhīlo
paṭhaviṃ sito siyā
catubbhi vātebhi asampakampiyo
tathūpamaṃ suppurisaṃ vadāmi
yo ariyasaccāni aveccapassati
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Ví như cột trụ đá
Khéo chôn chặt xuống đất
Dầu bốn hướng cuồng phong
Cũng không thể lay động
Ta nói bậc chân nhân
Liễu ngộ tứ thánh đế
Cũng tự tại bất động
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Ye
ariyasaccāni vibhāvayanti
gambhīrapaññena sudesitāni
kiñcāpi te honti bhusappamattā
na te bhavaṃ aṭṭhamamādiyanti
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Bậc thánh tu đà huờn
Chứng tri lý thánh đế
Ðược đức Gô Ta Ma
Khéo thuyết giảng tường tận
Các ngài dù phóng dật
Thì cũng không bao giờ
Tái sanh kiếp thứ tám
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Sahāvassa dassanasampadāya
tayassu dhammā jahitā bhavanti
sakkāyadiṭṭhi vicikicchitañca
sīlabbataṃ vāpi yadatthi kiñci
catūhapāyehi ca vippamutto
cha cābhiṭṭhānāni abhabbo kātuṃ
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Nhờ chứng đạt chánh trí
Ðọan trừ ba kiết sử
Thân kiến và hoài nghi
Luôn cả giới cấm thủ
Thoát khỏi bốn đọa xứ
Bậc nhập lưu không tạo
Sáu bất thiện trọng nghiệp
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Kiñcāpi so
kammaṃ karoti
pāpakaṃ kāyena vācāyuda cetasā vā
abhabbo so tassa paṭicchadāya
abhabbatā diṭṭhapadassa vuttā
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇtītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Bậc thánh tu đà huờn
Dù vô tâm phạm lỗi
Bằng thân lời hay ý
Cũng không hề che dấu
Ðược xứng danh hiền thánh
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Vanappagumbe
yathā phussitagge
gimhānamāse paṭhamasmiṃ gimhe
tathūpamaṃ dhammavaraṃ adesayi
nibbānagāmiṃ paramaṃ hitāya
idaṃ pi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Ðức Thế Tôn thuyết giảng
Pháp đưa đến niết bàn
Tịnh lạc và thù thắng
Lợi ích chúng hữu tình
Ví như mưa đầu hạ
Khiến ngàn cây đâm chồi
Do vậy chính đức Phật
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Varo varaññū
varado varāharo
anuttaro dhammavaraṃ adesayi
Idaṃ pi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Ðức Phật bậc vô thượng
Liễu thông pháp vô thượng
Ban bố pháp vô thượng
Chuyển đạt pháp vô thượng
Tuyên thuyết pháp vô thượng
Do vậy chính đức Phật
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Khīṇaṃ
purāṇaṃ navaṃ natthisambhavaṃ
virattacittāyatike bhavasmiṃ
te khīṇabījā aviruḷhichandā
nibbanti dhīrā yathāyampadīpo
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ panītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Nhân quá khứ đã đoạn
Mầm tương lai không gieo
Với tâm không ái chấp
Trong sanh hữu đời sau
Bởi tham muốn đã đọan
Các chủng tử không còn
Ví như ngọn đèn tắt
Bậc trí chứng niết bàn
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
[phân đoạn 14, 15, 16]
Yānīdha
bhūtāni samāgatāni
bhummāni vā yāniva antalikkhe
tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ
buddhaṃ namassāma suvatthi hotu
Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Hãy chí thành đảnh lễ
Ðức Phật bậc như lai
Ðược chư thiên nhân loại
Ðảnh lễ và cúng dường
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Yānīdha bhūtāni samāgatāni
bhummāni vā yāniva antalikhe
tathāgataṃ devamanussapùjitaṃ
dhammaṃ namassāma suvatthi hotu
Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Hãy chí thành đảnh lễ
Chánh Pháp đạo như chân
Ðược chư thiên nhân loại
Ðảnh lễ và cúng dường
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Yanītha bhūtāni samāgatāni
bhummāni vā yāniva antalikkhe
tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ
saṅghaṃ namassāma suvatthi hotu
Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Hãy chí thành đảnh lễ
Tăng Chúng bậc như đức
Ðược chư thiên nhân loại
Ðảnh lễ và cúng dường
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
No comments:
Post a Comment