Saturday, April 18, 2020

TU TẬP THỜI ĐẠI DỊCH. Ngày 18 tháng 4, 2020


TU TẬP THỜI ĐẠI DỊCH


Pháp thoại

PHẬT GIÁO VÀ KHOA HỌC
Trích từ “Phật Giáo, nền tảng của khoa học”
Hòa thượng Prayudh Payutto
Tỳ kheo Thích Tâm Quang dịch

[Tiếp theo]
CON NGƯỜI HAY CÁI TÔI LÀ TRUNG TÂM

Tôi vừa đề cập đến một số điểm căn bản chung trong Phật giáo và Khoa Học, cả lãnh vực niềm tin lẫn khát vọng kiến thức. Bây giờ tôi muốn nói đến đối tượng của niềm tin và khát vọng kiến thức. Ðối tượng đó là sự thật hay còn gọi là chân lý. Khát vọng và niềm tin của chúng ta bắt nguồn từ gốc rễ sự ham thích sự thật và kiến thức. Khi tiến tới được phần cốt lõi của vấn đề, đó là kiến thức hay chân lý, khát vọng của chúng ta thỏa mãn. Ðiều này có nghĩa là nhân loại phải hiểu chân lý của các qui luật tự nhiên.

Tôi muốn nhấn mạnh một lần nữa là trong Phật Giáo mục tiêu của chúng ta là sử dụng kiến thức về chân lý để nâng cao đời sống con người, và giải quyết khó khăn, hầu đạt được một cuộc sống hoàn toàn tự do. Mặt khác, mục đích của Khoa Học là sử dụng kiến thức để chinh phục thiên nhiên hầu sản xuất nhiều của cải vật chất. Ðiều này có lẽ hết sức rõ ràng trong lời tuyên bố của René Descartes, một học giả nổi tiếng có địa vị quan trọng nói về việc phát triển khoa học và triết lý Tây Phương. ông viết mục tiêu của khoa học là một phần trong việc đấu tranh: "làm cho chúng ta thành chủ nhân ông và sở hữu chủ thiên nhiên".

Có mục tiêu khác thì đối tượng của kiến thức cũng phải khác. Ðối tượng kiến thức trong Phật Giáo là gì? Ðối tượng chính mà chúng tôi nghiên cứu là bản chất con người. Con người là đối tượng của kiến th?c, và từ đó, sự nghiên cứu của chúng tôi trải rộng bao gồm mọi sự vật bên ngoài. Nhân loại lúc nào cũng là đối tượng, là trung tâm điểm để từ đó chúng tôi nghiên cứu chân lý của thiên nhiên.

Trong Khoa Học, mặt khác, đối tượng của sự nghiên cứu là môi trường vật chất bên ngoài. Ngay khi Khoa Học nhìn vào con người cũng chỉ coi con người như một tổ chức vật chất khác trong phạm vi vũ trụ vật chất. Như vậy, Khoa Học không nghiên cứu về đời sống. Khoa Học nghiên cứu đời sống con người, nhưng chỉ có mục đích sinh học, không nghiên cứu về 'con  người' hay 'tính người'.

Lãnh vực nghiên cứu về kiến thức của Phật Giáo là con người, trong khi lãnh vực của Khoa Học là thế giới bên ngoài. Lấy điểm này làm căn bản, chúng ta hãy nhìn vào những lãnh vực thiên nhiên mà Khoa Học nghiên cứu và Phật Giáo tìm hiểu.

Phật Giáo tin tưởng con người là sự tiến hóa tối cao của thiên nhiên.Vì lý do này, nhân loại là hình ảnh bao trùm đầy đủ chân lý trong chính con người, tức là cơ thể con người chứa đựng thiên nhiên cả bình diện tinh thần lẫn vật chất. Trên bình diện vật chất chúng ta có cơ thể, tạo thành bởi các yếu tố (đất, nước, gió, lửa) liên hệ đến thế giới vật chất bên ngoài. Tuy nhiên, thế giới vật chất không bao gồm giá trị, hay tâm thức. Vì thế khi nghiên cứu con người, ta có thể biết được sự thật về tất cả mọi khía cạnh của chân lý tự nhiên gồm cả mặt nổi vật chất lẫn mặt chìm trừu tượng.

Khoa Học nghiên cứu thiên nhiên chỉ trên bình diện vật chất, trên thế giới vật chất và năng lượng, không chú ý và cũng không công nhận nhân tố tâm

trí, ý thức nghĩa là tinh thần. Khoa Học nghiên cứu từ bên ngoài vào. Tiến tới cơ thể con người, khoa học chỉ nghiên cứu "đời sống" mà không nghiên cứu con người. Khoa Học chỉ biết những sự việc thực tế của thế giới vật chất mà không biết bản chất con người hay bản tính của con người.

Từ trước tôi chỉ nói đến những nguyên tắc căn bản. Giờ đây, xin có một số nhận xét chung:

Vừa rồi, tôi nói Phật Giáo đặt nhân loại vào trung tâm điểm, loài người là trung tâm. Mục đích rõ rệt này là để hiểu rõ và phát triển con người. Khoa Học, mặt khác, chỉ chú trọng đến thế giới bên ngoài.

Khoa Học chỉ tìm hiểu sự thật của các vấn đề bên ngoài con người.

Sau nhiều năm, Khoa Học đưa ý đồ chinh phục thiên nhiên vào phương châm hành động của nó, một lần nữa Khoa Học đặt để con người vào vị trí trung tâm, nhưng trong một đường lối khác hẳn Phật Giáo. Phật Giáo cho con người là trung tâm trong ý nghĩa xác nhận trách nhiệm của mình. Phật Giáo nhấn mạnh bổn phận của con người đối với thiên nhiên. Phật Giáo đặt con người vào trung tâm vì con người phải tự mình phát triển, tìm cách vượt qua các khó khăn. Ðó là cái thực sự lợi ích khiến cho con người đạt giải thoát, điều thiện tối thượng và thoát khỏi khổ đau.

Khoa Học đưa quan điểm ham muốn chinh phục thiên nhiên vào khát vọng của nó, cũng lại đặt con người vào trung tâm nhưng chỉ để khai thác thiên nhiên. Con người nói "Tôi muốn cái này", từ điểm này con người tiến hành thao túng thiên nhiên để đáp ứng cho lòng tham dục của mình. Nói một cách đơn giản, Khoa Học đặt con nguời vào trung tâm với mục đích thỏa mãn  tính vị kỷ của mình.

Trong mối tương quan với đối tượng nghiên cứu, Phật Giáo đặt con người vào trung tâm. Con người trở thành sự thật phải được nghiên cứu hầu có thể mở mang hữu hiệu tiềm năng sẵn có. Riêng Khoa Học, ngay lúc bắt đầu, cũng là để tìm hiểu sự thật, nhưng hướng sự quan tâm chỉ vào thế giới vật chất. Rồi Khoa Học đặt con người vào trung tâm như một tác nhân sử dụng những vật dụng vật chất ấy để thỏa mãn tham dục của mình. Phật Giáo và Khoa Học cả hai đều lấy thuyết con người là trung tâm nhưng sự khác biệt là trong khi Phật Giáo lấy con người làm trung tâm thì Khoa Học lấy cái tôi làm trung tâm.

Ðiều nhận xét thứ hai mà chúng tôi muốn nêu lên liên quan đến Khoa Học Thuần Túy: Khoa Học thuần túy hay không thuần túy?

Thuật ngữ "Khoa Học Thuần Túy", gọi thế vì nó được coi là 'khoa học và chỉ là khoa học', nghĩa là kiến thức thuần túy không mảy may quan tâm đến ứng dụng, được dùng để phân biệt với Khoa Học Ứng Dụng hay Kỹ Thuật. Nhưng ngày nay Khoa Học không còn thuần túy. Trong ý nghĩa Khoa Học thuần túy có ham muốn tương đối thuần túy nhằm nghiên cứu qui luật thiên nhiên, có thể gọi là thuần túy, nhưng khi những giá trị khác xâm nhập vào việc nghiên cứu, nó trở nên không thuần túy.

Tương đồng trong phương pháp nhưng khác biệt trong việc đặt tầm quan trọng.

Sau khi đã nhìn vào mục đích của sự tìm hiểu, bây giờ chúng ta xét đến các phương tiện để đạt được mục tiêu ấy. Thế nào là phương pháp được sử dụng trong Phật Giáo để tìm kiến thức? Trong Phật Giáo, phương pháp dùng tìm chân lý có ba lớp:

Thứ nhất, nhận thức kinh nghiệm phải trực tiếp và vô tư. Vô tư là sự nhận thức mọi sự đúng như chúng tồn tại. Phật Giáo nhấn mạnh giá trị về cách nhìn sự thật đúng ngay từ nhận thức tiên khởi: khi mắt nhìn cảnh, tai nghe âm thanh, và vân vân..

Hầu hết với đa số, đó là một vấn đề. Nhận thức luôn luôn đi theo cái cách mà người ta muốn sự vật là như thế, tức là như họ nghĩ mà không như chúng thực sự diễn ra. Họ không thấy sự vật vận động theo qui luật của nó vì nhầm lẫn, xuyên tạc, thành kiến và quan niệm sai lầm.

Thứ hai, phải suy nghĩ có trật tự, tức là suy nghĩ có hệ thống. Thêm vào phương pháp nhận thức một cách trung thực, phải có cách suy nghĩ trung thực.

Thứ ba, phương pháp kiểm chứng sự thực, hay nghiên cứu kiến thức là qua kinh nghiệm trực tiếp.

Làm sao bảo đảm được sự nhận thức về kinh nghiệm mà không có thành kiến? Thông thường bất cứ lúc nào khi con người nhận thức kinh nghiệm sẽ có một số giá trị nào đó tức khắc xen vào. Ngay tại chỗ này, nẩy sanh kiến thức đầu tiên, đã có một vấn đề, đó là có sự dính líu hay không dính líu đến những giá trị ấy.

Cái gì là những giá trị ấy? Những sự kiện nhập vào lĩnh vực nhận thức sẽ có những đặc tính khác biệt, tạo thành những cảm nghĩ thích thú hay không thích thú. Tất cả những kinh nghiệm của chúng ta đều giống như vậy. nếu thích thú chúng ta gọi là hạnh phúc, trong khi nếu không thích thú, gọi là khổ đau.

Khi nhận thức phát sinh, chúng ta chứng nghiệm một cảm nghĩ dễ chịu hoạt động của tâm thức tức khắc đưa đến thích hay không thích. Chúng ta gọi đó là khoái cảm hay ác cảm, thương hay ghét. Cho nên nhận thức những cảm xúc bị những đặc tính thiện cảm hay ác cảm và vui thích hay chán ghét chen vào. Những phản ứng ấy hình thành thói quen cho con người, từ ngày mới sinh, làm cho con người cực kỳ chao đảo. Ngay khi một kinh nghiệm được nhận thức, những giá trị thoải mái, không thoải mái, hay dửng dưng, theo liền tức khắc và từ đó thương hay ghét, vui thích hay ác cảm.

Sau khi khoái cảm, ác cảm, thích hay không thích, yêu hay ghét phát sinh, sẽ có sự suy nghĩ theo cảm nghĩ đó và bị ảnh hưởng của những cảm nghĩ đó. Nếu hấp dẫn, tư tưởng sẽ có tâm trạng này, nếu là ghét bỏ, tư tưởng sẽ có tâm trạng khác. Do đó, kiến thức tích lũy cũng bị bóp méo, chao đảo hay thành kiến. Nhận thức sai lầm, sẽ làm tăng nhanh khâu thu thập dữ kiện và chọn lựa chúng. Chỉ một vài quan niệm trí tuệ được nhìn nhận, không phải là tất cả, thành thử kiến thức không rõ ràng hoặc không toàn diện. Tóm lại, nhận thức không đúng bản chất của sự vật.

Chính vì thế, trong Phật Giáo chúng tôi nói, chúng ta phải xây dựng chính chúng ta một cách đứng đắn. Phải nhận thức sự vật đúng như chúng tồn tại, nhận thức bằng sự chú tâm chẳng thích mà cũng chẳng không thích. Chứng nghiệm phải được nhận thức với một tâm ý tỉnh thức c?a một người học hỏi, khách quan, không phải tâm ý thuơng hay ghét.

Làm sao ta nhận thức bằng tâm đang nhận thức? Tóm lại có hai phương cách để nhận thức với một tâm ý đang tìm hiểu:

1.    Nhận thức bằng cách nhìn vào sự thật: Ðó là nhận thức về mọi sự đúng như chúng tồn tại, không bị tác động và bóp méo sức mạnh của sự thích hay không thích. Ðó là loại nhận thức thuần túy, hiểu biết cơ bản về kinh nghiệm, không thêm thắt một đánh giá chủ quan nào cả. Nhận thức này được nói đến trong kinh "nhận thức vừa đủ để mở mang trí tuệ". vừa đủ để biết và hiểu chứng nghiệm vì nó là như thế, sự hiện diện của ký ức chỉ là để thâu

thập các dữ kiện. Ðặc biệt, nhìn sự vật theo nguyên nhân và những điều kiện của chúng.

2.    Nhận thức trong đuờng lối mang lợi ích: Ðó là nhận thức với một giá trị thiết thực, thật sự hữu dụng, thay vì phục vụ, cố thỏa mãn giác quan hoặc làm mất tác dụng của giác quan. Nhận thức kinh nghiệm theo đường lối đó dẫn tới có thể sử dụng tất cả những kinh nghiệm thích lẫn không thích.

Loại hiểu biết thứ hai có thể được mở rộng tới mức: kinh nghiệm là chức năng tự nhiên của sự sống, và nó liên hệ chặt chẽ với môi trường tự nhiên để nhận được lợi ích. Nhưng muốn đời sống có lợi từ những kinh nghiệm, chúng ta phải nhận thức đúng về kinh nghiệm. Nghĩa là, phải có một sự cố gắng có ý thức để nhận thức trong một cách thức dẫn tới thấy được triển vọng có đem lại lợi ích trong việc giải quyết các vấn đề và dẫn đến mở mang đời sống. Nếu không, nhận thức chỉ là một công cụ để thỏa mãn dục vọng của giác quan, hoặc là một nguyên nhân để làm đảo lộn các dục vọng của giác quan, và tất cả lợi ích đều tiêu tan. Loại nhận thức từ kinh nghiệm lĩnh hội kinh nghiệm theo các đó hình thành loại nhận thức sử dụng đến kinh nghiệm. Dù các kinh nghiệm ra sao, tốt, xấu, tiện lợi hay không, cũng vẫn có thể đem sử dụng mang lại lợi ích. Tất cả đều do chúng ta học cách lĩnh hội những kinh nghiệm ấy có đúng hay không.

Ở đây mục tiêu của chúng ta là tìm ra chân lý, chúng ta phải nhấn mạnh loại nhận thức thứ nhất. Trong loại này, nếu tránh được những nguồn tin sai lầm, hậu quả của khoái cảm hay ác cảm không xẩy ra, nhận thức sẽ đem lại nhiều cách thức tìm hiểu.

Loại nhận thức này rất quan trọng trong việc nghiên cứu và học hỏi. Chúng ta hãy học hỏi đúng ngay từ nhận thức lúc ban đầu. Trong Phật Giáo điểm này được nhấn mạnh - nhận thức để học hỏi, không phải để chiều theo thị hiếu, để thỏa mãn tham dục của giác quan. Khoa Học không nói nhiều đến việc này, và cũng không nhấn mạnh, nhưng nếu mục tiêu là để nhận thức chân lý thì phương pháp này rất thiết yếu.


[còn tiếp]


Kinh tụng

Kinh Châu Báu
Ratanasutta
Yānīdha bhūtāni samāgatāni
Bhummāni vā yāniva antalikkhe
Sabbe va bhūtā sumanā bhavantu
Athopi sakkacca suṇantu bhāsitaṃ
Tasmā hi bhūtāni sāmetha sabbe
Mettaṃ karotha mānusiyā pajāya
Divā ca ratto ca haranti ye baliṃ
Tasmā hi ne rakkhatha appamattā

Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Mong khởi lòng hoan hỷ
Thành kính nghe lời nầy
Rồi với tâm bi mẫn
Năng hộ trì nhơn loại
Vốn đêm ngày hồi hướng
Phước lành đến chư thiên

Yaṅkiñci vittaṃ idha vā huraṃ vā
Saggesu vā yaṃ ratanaṃ paṇītaṃ
Na no samaṃ atthi tathāgatena
Idampi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
Etena saccena suvatthi hotu.
Những vật quí trong đời
Chốn nầy hay nơi khác
Cả châu báu cõi trời
Không gì sánh bằng được
Với Như Lai Thiện Thệ
Do vậy chính đức Phật
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Khayaṃ virāgaṃ amataṃ paṇītaṃ
yadajjhagā sakyamunī samāhito
Na tena dhammena samatthi kiñci
idaṃ pi dhamme ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu

Pháp bất tử tối thượng
Ly dục diệt phiền não
Phật Thích Ca Mâu Ni
Chứng pháp ấy trong thiền
Không gì sánh bằng được
Pháp thiền vi diệu ấy
Do vậy chính Chánh Pháp
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Yaṃ buddhaseṭṭho parivaṇṇayī suciṃ
samādhimānantarikaññamāhu
samādhinā tena samo na vijjati
idaṃ pi dhamme ratanaṃ paṇītam
etena saccena suvatthi hotu

Con đường thanh lọc tâm
Là tu tập thiền định
Chứng hiện tại lạc trú
Ðức Phật hằng ngợi khen
Không gì so sánh được
Do vậy chính Chánh Pháp
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc


Ye puggalā aṭṭhasataṃ pasaṭṭhā
cattāri etāni yugāni honti
te dakkhiṇeyyā sugatassa sāvakā
etesu dinnāni mahapphalāni
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu

Thánh tám vị bốn đôi
Là những bậc ứng cúng
Ðệ tử đấng Thiện Thệ
Ðược trí giả tán thán
Cúng dường đến các ngài
Hưởng vô lượng công đức
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc


Ye suppayuttā manasā daḷhena
nikkāmino gotamasāsanamhi
te pattipattā amataṃ vigayha
laddhā mudhā nibbutiṃ bhuñjamānā
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu

Bậc tu hành thiểu dục
Với ý chí kiên trì
Khéo chơn chánh phụng hành
Lời dạy đức Ðiều Ngự
Chứng đạt quả giải thoát
Thể nhập đạo bất tử
Lạc trú quả tịch tịnh
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Yathindakhīlo paṭhaviṃ sito siyā
catubbhi vātebhi asampakampiyo
tathūpamaṃ suppurisaṃ vadāmi
yo ariyasaccāni aveccapassati
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu

Ví như cột trụ đá
Khéo chôn chặt xuống đất
Dầu bốn hướng cuồng phong
Cũng không thể lay động
Ta nói bậc chân nhân
Liễu ngộ tứ thánh đế
Cũng tự tại bất động
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc


Ye ariyasaccāni vibhāvayanti
gambhīrapaññena sudesitāni
kiñcāpi te honti bhusappamattā
na te bhavaṃ aṭṭhamamādiyanti
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu

Bậc thánh tu đà huờn
Chứng tri lý thánh đế
Ðược đức Gô Ta Ma
Khéo thuyết giảng tường tận
Các ngài dù phóng dật
Thì cũng không bao giờ
Tái sanh kiếp thứ tám
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Sahāvassa dassanasampadāya
tayassu dhammā jahitā bhavanti
sakkāyadiṭṭhi vicikicchitañca
sīlabbataṃ vāpi yadatthi kiñci
catūhapāyehi ca vippamutto
cha cābhiṭṭhānāni abhabbo kātuṃ
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu

Nhờ chứng đạt chánh trí
Ðọan trừ ba kiết sử
Thân kiến và hoài nghi
Luôn cả giới cấm thủ
Thoát khỏi bốn đọa xứ
Bậc nhập lưu không tạo
Sáu bất thiện trọng nghiệp
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc


Kiñcāpi so kammaṃ karoti
pāpakaṃ kāyena vācāyuda cetasā vā
abhabbo so tassa paṭicchadāya
abhabbatā diṭṭhapadassa vuttā
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇtītaṃ
etena saccena suvatthi hotu

Bậc thánh tu đà huờn
Dù vô tâm phạm lỗi
Bằng thân lời hay ý
Cũng không hề che dấu
Ðược xứng danh hiền thánh
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Vanappagumbe yathā phussitagge
gimhānamāse paṭhamasmiṃ gimhe
tathūpamaṃ dhammavaraṃ adesayi
nibbānagāmiṃ paramaṃ hitāya
idaṃ pi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu

Ðức Thế Tôn thuyết giảng
Pháp đưa đến niết bàn
Tịnh lạc và thù thắng
Lợi ích chúng hữu tình
Ví như mưa đầu hạ
Khiến ngàn cây đâm chồi
Do vậy chính đức Phật
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Varo varaññū varado varāharo
anuttaro dhammavaraṃ adesayi
Idaṃ pi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu

Ðức Phật bậc vô thượng
Liễu thông pháp vô thượng
Ban bố pháp vô thượng
Chuyển đạt pháp vô thượng
Tuyên thuyết pháp vô thượng
Do vậy chính đức Phật
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Khīṇaṃ purāṇaṃ navaṃ natthisambhavaṃ
virattacittāyatike bhavasmiṃ
te khīṇabījā aviruḷhichandā
nibbanti dhīrā yathāyampadīpo
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ panītaṃ
etena saccena suvatthi hotu

Nhân quá khứ đã đoạn
Mầm tương lai không gieo
Với tâm không ái chấp
Trong sanh hữu đời sau
Bởi tham muốn đã đọan
Các chủng tử không còn
Ví như ngọn đèn tắt
Bậc trí chứng niết bàn
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

[phân đoạn 14, 15, 16]
Yānīdha bhūtāni samāgatāni
bhummāni vā yāniva antalikkhe
tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ
buddhaṃ namassāma suvatthi hotu

Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Hãy chí thành đảnh lễ
Ðức Phật bậc như lai
Ðược chư thiên nhân loại
Ðảnh lễ và cúng dường
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Yānīdha bhūtāni samāgatāni
bhummāni vā yāniva antalikhe
tathāgataṃ devamanussapùjitaṃ
dhammaṃ namassāma suvatthi hotu

Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Hãy chí thành đảnh lễ
Chánh Pháp đạo như chân
Ðược chư thiên nhân loại
Ðảnh lễ và cúng dường
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Yanītha bhūtāni samāgatāni
bhummāni vā yāniva antalikkhe
tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ
saṅghaṃ namassāma suvatthi hotu

Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Hãy chí thành đảnh lễ
Tăng Chúng bậc như đức
Ðược chư thiên nhân loại
Ðảnh lễ và cúng dường
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc




No comments:

Post a Comment