Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Tuệ Quyền
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 21/4/2020
106. Kinh Bất Động Lợi Ích
(Anenjasappàya Sutta)
Āneñjasappāya Sutta có nghĩa là hướng đi từ trạng thái bất động.
(chữ sappāya có nghĩa là tốt đẹp, lợi ích, tương thích). Trạng thái bất động ở
đây là thiền chứng ở trạng thái “xã niệm thanh tịnh của tứ thiền” và Niết bàn.
Trạng thái nầy đối lập với trạng thái tâm vần xoay theo năm cảnh dục ngoại giới
(sắc, thinh, khí, vị, xúc). Nội dung bài kinh chứa đựng những Phật ngôn dạy về
sự tương quan sâu xa giữa chỉ (samatha) và quán (vipassana),
1025. Ngũ dục chẳng những tầm thường mà còn nguy hại
Sự say đắm năm cảnh dục ngoại giới (sắc, thinh, khí, vị, xúc) chẳng
những khiến tâm tư luôn bị giao động mà còn chứa nhiều hiểm hoạ :
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú giữa dân chúng Kuru (Câu-lâu). Kammassadhamma
(Kiềm-ma-sắt-đàm) là thị trấn của dân chúng Kuru. Tại đấy Thế Tôn gọi các
Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng, bạch Thế Tôn".
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
-- Này các Tỷ-kheo, các dục là vô thường, trống rỗng, giả dối,
thuộc ngu si tánh; chúng là đề tài dông dài trong câu chuyện của kẻ thiểu trí.
Các dục hiện tại, và các dục tương lai, các dục tưởng hiện tại và các dục tưởng
tương lai, cả hai đều thuộc lãnh vực của ma, là cảnh giới của ma, là mồi bẩy
của ma, là hành xứ của ma.
1026. Thiền định là con đường đưa tới trạng thái không giao động
Thiền định là câu trả lời làm thế nào đạt đến trạng thái không
giao động. Theo sớ giải thì trạng thái tứ thiền (hay ngũ thiền theo A Tỳ Đàm) là
tầng cấp bất động được Đức Phật giảng ở đây. Có ba hướng đi của hành giả khi chứng
đạt trạng thái bất động nầy: một là chứng thiền làm cơ sở để sanh vào cõi thiền,
hai là chứng thiền rồi dùng thiền chứng là đề mục khai triển tuệ giác (một sự kết
hợp giữa chỉ và quán), ba là chứng thiền rồi dùng trạng thái đó là lực đầy đạt đến
tầng cao hơn:
Ở đây, các ác bất thiện ý này dẫn đến tham dục, sân hận, khích
động, và chính những pháp ấy tác thành chướng ngại ở đây cho Thánh đệ tử học
tập. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Các dục
hiện tại và các dục tương lai... cho Thánh đệ tử học tập. Vậy ta hãy an trú với
tâm quảng đại, đại hành, sau khi chiến thắng thế giới, sau khi xác định vị trí
của ý. Khi ta an trú với tâm quảng đại, đại hành chiến thắng thế giới, xác định
vị trí của ý, các ác bất thiện ý: tham dục, sân hận, khích động sẽ không khởi
lên; với các pháp ấy được đoạn trừ, tâm của ta không trở thành hạn hẹp, trái
lại thành vô lượng, khéo tu tập". Trong khi ấy hành trì như vậy, an trú
nhiều lần như vậy, tâm trở thành an tịnh trong giới xứ (của nó). Với tâm an
tịnh, vị ấy thành tựu bất động ngay hiện tại hay thiên nặng về trí tuệ. Sau khi
thân hoại mạng chung, sự tình này xảy ra, thức diễn tiến (samvattanikam
vinnanam) có thể tùy theo đây đạt đến Bất động. Như vậy, này các Tỷ-kheo, được
gọi là đệ nhất hành đạo về lợi ích Bất động".
Lại nữa này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau:
"Những dục hiện tại và những dục tương lai, những dục tưởng hiện tại, và
những dục tưởng tương lai, phàm bất cứ sắc pháp gì, là bốn đại chủng và sắc do
bốn đại tạo thành". Trong khi vị ấy hành trì như vậy, an trú nhiều lần như
vậy, tâm trở thành an tịnh trong giới xứ (của nó). Với tâm an tịnh, vị ấy thành
tựu Bất động ngay trong hiện tại hay thiên nặng về trí tuệ. Sau khi thân hoại
mạng chung, sự tình này xảy ra, thức diễn tiến ấy có thể tùy theo đây đạt đến
Bất động. Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là đệ nhị hành đạo về lợi ích Bất
động.
Lại nữa này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau:
"Những dục hiện tại và những dục tương lai, những dục tưởng hiện tại và
những dục tưởng tương lai, những sắc pháp hiện tại và những sắc pháp tương lai,
những sắc tưởng hiện tại và những sắc tưởng tương lai, cả hai đều vô thường.
Cái gì vô thường thời không đáng để được hoan hỷ, không đáng để được hoan
nghênh, không đáng để được chấp trước". Trong khi vị ấy hành trì như vậy,
an trú nhiều lần như vậy, tâm trí trở thành an tịnh trong giới xứ (của nó). Với
tâm an tịnh, vị ấy thành tựu Bất động ngay trong hiện tại hay thiên nặng về trí
tuệ. Sau khi thân hoại mạng chung, sự tình này xảy ra, thức diễn tiến ấy có thể
tùy theo đây đạt đến Bất động. Như vậy, này các Tỷ-kheo được gọi là đệ tam hành
đạo về lợi ích Bất động.
1027. Vô sở hữu xứ và tánh không
Một đặc điểm của bài kinh nầy là sự mô tả chi tiết về tầng thiền vô
sở hữu xứ trong hai phương diện chỉ và quán (định và niệm) cũng với ba hướng đi
như đã đề cập ở đoạn trên.
Lại nữa này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau:
"Những dục hiện tại... và những sắc tưởng tương lai, và những bất động
tưởng, tất cả tưởng, chỗ nào các tưởng ấy được đoạn diệt không có dư tàn, như
vậy là tịch tịnh, như vậy là thù diệu, tức là vô sở hữu". Trong khi vị ấy
hành trì như vậy, an trú nhiều lần như vậy, tâm trí trở thành an tịnh trong
giới xứ (của nó). Với tâm an tịnh, vị ấy thành tựu Vô sở hữu xứ ngay trong hiện
tại hay thiên nặng về trí tuệ. Sau khi thân hoại mạng chung, sự tình này xảy
ra, thức diễn tiến ấy có thể tùy theo đây đạt đến Vô sở hữu xứ. Như vậy, này
các Tỷ-kheo được gọi là đệ nhất hành đạo về lợi ích Vô sở hữu xứ.
Lại nữa này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử đi đến khu rừng hay đi đến
dưới gốc cây và suy nghĩ như sau: "Trống không là tự ngã hay ngã này sở
hữu". Trong khi vị ấy hành trì như vậy, an trú nhiều lần như vậy, tâm trí
trở thành an tịnh trong giới xứ (của nó). Với tâm an tịnh, vị ấy thành tựu Vô
sở hữu xứ ngay trong hiện tại hay thiên nặng về trí tuệ. Sau khi thân hoại mạng
chung, sự tình này xảy ra, thức diễn tiến ấy có thể tùy theo đây đạt đến Vô sở
hữu xứ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là đệ nhị hành đạo về lợi ích Vô sở
hữu xứ.
Lại nữa này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Ta
không có bất cứ chỗ nào, cho ai và trong hình thức nào, và sở thuộc của ta
không có bất cứ chỗ nào, cho ai và trong hình thức nào". Trong khi vị ấy
hành trì như vậy, an trú nhiều lần như vậy, tâm trí trở thành an tịnh trong trú
xứ (của nó). Với tâm an tịnh, vị ấy thành tựu Vô sở hữu xứ trong hiện tại hay
thiên nặng về trí tuệ. Sau khi thân hoại mạng chung, sự tình này xảy ra, thức
diễn tiến ấy có thể tùy theo đây đạt đến Vô sở hữu xứ. Như vậy, này các Tỷ-kheo
được gọi là đệ tam hành đạo về lợi ích Vô sở hữu xứ.
1028. Phi tưởng phi phi tưởng xứ
Giống như nhiều bài kinh khác và theo A tỳ đàm thì cảnh giới phi tưởng
phi phi tưởng quá tế nhị để làm đề mục quán chiếu nên ở phần nầy chỉ một hướng đi
được đề cập.
Và lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau:
"Những dục hiện tại.. và những sắc tưởng và những Bất động tưởng, và những
Vô sở hữu xứ tưởng, tất cả các tưởng, chỗ nào các tưởng ấy được đoạn diệt không
có dư tàn, như vậy là tịch tịnh, như vậy là thù diệu, tức là Phi tưởng phi phi
tưởng xứ". Trong khi vị ấy hành trì như vậy, an trú nhiều lần như vậy, tâm
trí trở thành an tịnh trong trú xứ (của nó) . Với tâm an tịnh vị ấy có thể
thành tựu Phi tưởng phi phi tưởng xứ ngay trong hiện tại, hoặc thiên nặng về
trí tuệ. Sau khi thân hoại mạng chung, sự tình này xảy ra, thức diễn tiến ấy có
thể tùy theo đây đạt đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
được gọi là hành đạo về lợi ích Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
1029. Tuệ quán không đi với tam muội định
Theo sớ giải thì Tôn giả Ananda sau khi nghe Bậc Đạo Sư giảng dạy
về sự liên hệ tế nhị giữa chỉ và quán đã nêu lên câu hỏi về khả năng thành tựu
tuệ giác mà không có thiền chứng (sukkhavipassaka):
Khi được nói như vậy, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
-- Ở đây, bạch Thế Tôn, vị Tỷ-kheo hành trì như vậy và suy nghĩ:
"Nếu trước không có như vậy, thời có thể không là của ta; nếu nay không có
như vậy thời có thể sẽ không là của ta. Ta đoạn trừ những gì hiện có và những
gì đã có". Và như vậy vị ấy được xả. Bạch Thế Tôn, môt vị Tỷ-kheo như vậy
có chứng được cứu cánh Niết-bàn không?
-- Ở đây, này Ananda, một số Tỷ-kheo có thể chứng được cứu cánh
Niết-bàn, và ở đây, một số Tỷ-kheo có thể không chứng được cứu cánh Niết-bàn.
-- Do nhân gì, do duyên gì, bạch Thế Tôn, ở đây, một số Tỷ-kheo có
thể chứng được cứu cánh Niết-bàn, và ở đây, một số Tỷ-kheo có thể không chứng
được cứu cánh Niết-bàn?
-- Ở đây, này Ananda, một Tỷ-kheo hành trì như vậy và suy nghĩ:
"Nếu trước không có như vậy thời có thể không là của ta. Nếu nay không có
như vậy, thời có thể sẽ không là của ta. Ta đoạn trừ những gì hiện có và những
gì đã có". Và như vậy vị ấy được xả. Vị ấy hoan hỷ trong xả ấy, hoan
nghênh, chấp trước xả ấy. Do vị ấy hoan hỷ trong xả ấy, hoan nghênh, chấp trước
xả ấy, thức lệ thuộc xả ấy và thủ trước xả ấy. Có thủ trước, này Ananda, vị
Tỷ-kheo không chứng cứu cánh Niết-bàn.
-- Bạch Thế Tôn, vị Tỷ-kheo ấy thủ trước là thủ trước chỗ nào?
-- Này Ananda, Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
-- Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo ấy thủ trước, thủ trước như vậy là thủ
trước tối thượng?
-- Này Ananda, Vị Tỷ-kheo ấy thủ trước, thủ trước như vậy là thủ
trước tối thượng. Này Ananda, đây là thủ trước tối thượng, tức là Phi tưởng phi
phi tưởng xứ. Ở đây, này Ananda, vị Tỷ-kheo hành trì như vậy và suy nghĩ:
"Nếu (trước) không có như vậy thời có thể không là của ta. Nếu (nay) không
có như vậy, thời có thể không là của ta. Ta đoạn trừ những gì hiện có và những
gì đã có". Như vậy, vị ấy được xả, vị ấy không hoan hỷ trong xả ấy, không
hoan nghênh, không chấp trước xả ấy. Do vị ấy không hoan hỷ trong xả ấy, không
hoan nghênh, không thủ trước xả ấy, thức không lệ thuộc xả ấy và không thủ
trước xả ấy. Không thủ trước, này Ananda, vị Tỷ-kheo chứng cứu cánh Niết-bàn.
-- Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế
Tôn! Chính mười y cứ sự này sự kia, bạch Thế Tôn, sự vượt thoát dòng nước mạnh
đã được Thế Tôn nói lên. Nhưng bạch Thế Tôn, thế nào là Thánh giải thoát?
-- Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau:
"Những dục hiện tại và những dục tương lai, những dục tưởng hiện tại và
những dục tưởng tương lai, những sắc pháp hiện tại và những sắc pháp tương lai,
những Bất động tưởng, những Vô sở hữu xứ tưởng, và những Phi tưởng phi phi
tưởng xứ tưởng, cái gì thuộc tự thân, là tự thân. Ðây là bất tử tức là tâm giải
thoát không thủ trước". Này Ananda, đây là đạo lộ về lợi ích Bất động được
Ta thuyết giảng, đạo lộ về lợi ích Vô sở hữu xứ được Ta thuyết giảng, đạo lộ về
lợi ích Phi tưởng phi phi tưởng xứ được Ta thuyết giảng, là sự vượt qua dòng
nước mạnh do y cứ sự này sự kia được Ta thuyết giảng, Thánh giải thoát được Ta
thuyết giảng.
Những gì, này Ananda, vị Ðạo sư cần phải làm, vì lòng từ mẫn mưu
tìm hạnh phúc cho các đệ tử, những điều ấy đã được Ta làm, vì lòng từ mẫn của
Ta đối với Ông. Này Ananda, đây là những gốc cây, đây là những khoảng trống.
Hãy tu Thiền, này Ananda, chớ có phóng dật, chớ có hối hận về sau. Ðây là lời
dạy của Ta cho Ông.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả Ananda hoan hỷ tín thọ lời
Thế Tôn dạy.
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 2. Câu "Nếu trước không có như vậy, thời có thể không là của ta; nếu nay không có như vậy thời có thể sẽ không là của ta. Ta đoạn trừ những gì hiện có và những gì đã có (no cassa, no ca me siyā; na bhavissati, na me bhavissati; yadatthi yaṁ, bhūtaṁ - taṁ pajahāmī’ti)" (Nên dịch là “đó không phải là ta, không phải là của ta; sẽ không là ta và sẽ không là của ta. Những gì hiện hữu, cái gì trở thành, đang từ bỏ”) nên được hiểu thế nào? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 3. Sự chấp thủ đây là ta, đây là của ta đối với sự thành tựu nào đó thì có vấn đề gì? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 4. Người ta nói về một ý nghĩa “sức mạnh của điểm dừng” có nghĩa là nếu chúng ta có khả năng dừng lại ở cao điểm nào đó trước khi bắt đầu đi xuống hay tàn lụn thì là sự khôn ngoan. Trong cuộc tu có hiện tượng đó chăng? - ĐĐ Pháp Tín
Thảo luận 5. TT Giác Đẳng đúc kết phần thảo luận và chia sẻ về tình hình đại dịch
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment