Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Tuệ Quyền
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 28/4/2020
112. Kinh Sáu Thanh Tịnh
(Chabbisodhana Sutta)
Kinh
Sáu Thanh Tịnh là đề tài chỉ cho sáu pháp, một con số vẫn có nhiều bàn cãi. Việc
xác chứng ai là a la hán thật sự là một điều rất tế nhị và phức tạp. Khi Bậc Đạo
Sư trụ thế thì chính Ngài là người tuyên bố vị nào thật sự chứng đắc. Điều chắc
chắn là khi không có Đức Phật thì thật khó khăn để lượng định ai là người chứng
đắc đạo quả tối thượng. Đối với đa số Tăng chúng hôm nay thì chỉ có một phương
cách duy nhất là nêu lên những câu hỏi cần thiết. Điều cần nhớ là không nên có
thái độ cả tin hay phủ bác khi chưa nêu lên câu hỏi và lắng nghe câu trả lời.
1047. Một vấn đề
không đơn giản
Khi nghe một người
tuyên bố đã hoàn toàn giải thoát thì khoan vội tin, khoan vội phủ nhận:
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn
trú ở Savatthi, Jetavana, tại tinh xá ông Anathapindika. Tại đấy, Thế Tôn
gọi các Tỷ- kheo, "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng, bạch
Thế Tôn". Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau :
-- Ở đây, này các
Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo nói lên chánh trí (annam) như sau: "Ta tuệ tri
như vầy:"Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã
làm, không còn trở lui trạng thái này nữa"".
Này các Tỷ-kheo,
lời nói của vi Tỷ-kheo ấy, không nên tán thán cũng không nên bác bỏ.
1048. Câu trả lời thoả đáng cho câu hỏi chánh đáng
Hãy bắt đầu với câu hỏi
y cứ trên truyền thống chánh pháp:
Không tán thán, không
bác bỏ, cần hỏi câu hỏi: "Này Hiền giả, có bốn hình thức tuyên bố
này được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác
chân chánh nói lên. Thế nào là bốn? Cái gì được thấy được nói lên như là
được thấy. Cái gì được nghe được nói lên là được nghe. Cái gì được
cảm giác được nói lên như là cảm giác. Cái gì được nhận thức được
nói lên như là được nhận thức. Bốn hình thức tuyên bố này, Này Hiền
giả, được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng
Giác chơn chánh nói lên. Nhưng biết cái gì, thấy cái gì, đối với bốn
hình thức tuyên bố này, Tôn giả có thể nói là tâm của Tôn giả được
giải thoát khỏi các lậu hoặc không có chấp thủ?"
Này các Tỷ-kheo,
với Tỷ-kheo, các lậu hoặc đã đoạn tận, tu hành thành mãn, những việc
phải làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt mục đích, đã đoạn
trừ hữu kiết sử, và đã được giải thoát nhờ chánh trí, câu trả lời tùy
pháp (anudhamma) của vị ấy phải như sau:
"Này chư Hiền,
tôi không cảm thấy luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc,
giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế, đối với
những vật được thấy... được nghe... được cảm giác... được nhận
thức. Chư Hiền, vì rằng tôi biết
như vậy, thấy như
vậy, đối với bốn hình thức tuyên bố này, tôi có thể nói tâm tôi được
giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ".
1049. Trình độ nhận
thức đối với tự thân
Một vị thật sự giải
thoát trước hết là phải vượt quan những chấp thủ đối với năm uẩn:
Này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo ấy cần phải được tán thán, phải được tùy hỷ với lời nói:
"Lành thay!" Sau khi tán thán, tùy hỷ với lời nói: "Lành
thay", một câu hỏi nữa cần phải được hỏi.:
"Này Hiền giả,
năm thủ uẩn này được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán,
Chánh Ðẳng Giác chân chánh nói lên. Thế nào là năm? Tức là sắc thủ uẩn,
tưởng thủ uẩn, thọ thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Năm thủ
uẩn này, này Hiền giả, được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác chân chánh nói lên. Nhưng biết cái gì, thấy cái
gì, đối với năm thủ uẩn này, Tôn giả có thể nói tâm của Tôn giả được
giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ?"
Này các Tỷ-kheo,
với Tỷ-kheo các lậu hoặc đã đoạn tận, tu hành thành mãn, những việc
phải làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt mục đích, đã đoạn
trừ hữu kiết sử, và đã được giải thoát nhờ chánh trí, câu trả lời tùy
pháp của vị ấy phải như sau:
"Này chư Hiền,
sau khi biết sắc này là vô lực, biến hoại, không an ổn, đối với những
sắc là những chấp thủ phương tiện (upayupadana), là những tâm cố
chấp, thiên chấp, tùy miên, đối với những sắc ấy, với sự đoạn tận,
đoạn ly, đoạn diệt, đoạn trừ, đoạn xả, tôi tuệ tri tâm tôi được giải
thoát.
Này chư Hiền, sau
khi biết thọ này... Này chư Hiền, sau khi biết tưởng này...
Này chư Hiền, sau
khi biết hành này…
Này chư Hiền, sau
khi biết thức này là vô lực, biến hoại, không an ổn, đối với thức là
những chấp thủ phương tiện, là những tâm cố chấp, thiên chấp, tùy
miên. Ðối với những thức ấy, với sự đoạn tận, đoạn ly, đoạn diệt,
đoạn trừ, đoạn xả, tôi tuệ tri tâm tôi được giải thoát.
Chư Hiền, vì rằng
tôi biết như vậy, thấy như vậy, đối với năm thủ uẩn này, tôi có thể
nói tâm tôi được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ".
1050. Tuy vậy vẫn nên
hỏi thêm
Cái nhìn về vạn pháp
(vũ trụ quan) của một vị hoàn toàn giải thoát cũng cần được hỏi rõ:
Này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo ấy cần phải được tán thán, phải được tùy hỷ với lời nói:
"Lành thay!". Sau khi tán thán, tùy hỷ với lời nói: "Lành
thay", một câu hỏi nữa cần phải được hỏi thêm:
"Này Hiền giả,
sáu giới này được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh
Ðẳng Giác chơn chánh nói lên. Thế nào là sáu? Ðịa giới, thủy giới, hỏa
giới, phong giới, không giới, thực giới. Sáu giới này, này Hiền giả,
được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác nói
lên. Nhưng biết cái gì, thấy cái gì với sáu giới này, Tôn giả có thể nói
tâm của Tôn giả được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp
thủ?"
Này các Tỷ-kheo,
với Tỷ-kheo các lậu hoặc đã đoạn tận, tu hành thành mãn, những việc
phải làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt mục địch, đã đoạn
trừ hữu kiết sử, và đã được giải thoát nhờ chánh trí, câu trả lời tùy
pháp của vị ấy phải như sau:
"Chư Hiền, tôi
đã đi đến địa giới như là không phải tự ngã, và (đi đến) tự ngã như là
không tùy thuộc địa giới. Ðối với những pháp là những chấp thủ
phương tiện tùy thuộc địa giới, là những tâm cố chấp, thiên chấp, tùy
miên; đối với những pháp ấy, với sự đoạn tận, đoạn ly, đoạn diệt,
đoạn trừ, đoạn xả, tôi tuệ tri tâm tôi được giải thoát.
Này chư Hiền, sau
khi tôi đã đi đến thủy giới... Này chư Hiền, sau khi tôi đã đi đến hỏa
giới... Này chư Hiền, sau khi tôi đã đi đến phong giới... Này chư Hiền,
sau khi tôi đã đi đến không giới...
Này chư Hiền, sau
khi tôi đã đi đến thức giới như là không phải tự ngã, và (đi đến) tự
ngã như là không tùy thuộc thức giới. Ðối với những pháp là những chấp
thủ phương tiện tùy thuộc thức giới, là những tâm cố chấp, thiên
chấp, tùy miên; đối với những pháp ấy, với sự đoạn tận, đoạn ly,
đoạn diệt, đoạn trừ, đoạn xả, tôi tuệ tri tâm tôi được giải thoát.
Chư Hiền, vì rằng
tôi biết như vậy, thấy như vậy, đối với sáu giới này, tôi có thể nói
tâm tôi được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ".
1051. Vẫn cần hỏi rõ
y cứ trên căn bản pháp học
Đắc chứng đạo quả không
phải là một danh vị ban phong mà là khả năng nhìn xuyên suốt cuộc sống với chân
pháp:
Này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo ấy cần phải được tán thán, cần phải được tủy hỷ với lời
nói: "Lành thay!". Sau khi tán thán tùy hỷ với lời nói:"Lành
thay", một câu hỏi nữa cần phải được hỏi:
"Này Hiền giả,
sáu nội ngoại xứ này được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác chơn chánh nói lên. Thế nào là sáu? Mắt và sắc,
tai và tiếng, mũi và hương, lưỡi và vị, thân và xúc, ý và pháp. Sáu nội
ngoại xứ này, này Hiền giả, được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác nói lên.
Nhưng biết cái gì,
thấy cái gì, thấy cái gì đối với sáu nội ngoại xứ này, Tôn giả có thể
nói tâm của Tôn giả được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp
thủ?".
Này các Tỷ-kheo,
với Tỷ-kheo các lậu hoặc đã đoạn tận, tu hành thành mãn, những việc
phải làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt mục đích, đã đoạn
trừ hữu kiết sử, và đã được giải thoát nhờ chánh trí, câu trả lời tùy
pháp của vị ấy phải như sau:
"Chư Hiền,
đối với mắt, đối với sắc, đối với nhãn thức, đối với những pháp
được nhận thức bởi nhãn thức, phàm có dục gì, tham gì, hỷ gì, ái gì,
phàm có những pháp chấp thủ phương tiện, những tâm cố chấp, thiên
chấp, tùy miên. Ðối với những pháp ấy, với sự đoạn tận, đoạn ly,
đoạn diệt, đoạn trừ, đoạn xả, tôi tuệ tri tâm tôi được giải thoát.
Chư Hiền, vì rằng tôi biết như vậy, thấy như vậy, đối với sáu nội
ngoại xứ này, tôi có thể nói tâm tôi được giải thoát khỏi các lậu hoặc,
không có chấp thủ.
Chư Hiền, đối với
tai, đối với tiếng, đối với nhĩ thức...; chư Hiền, đối với mũi,
đối với hương, đối với tỷ thức...; chư Hiền, đối với lưỡi, đối
với vị, đối với thiệt thức...; chư Hiền, đối với thân, đối với xúc,
đối với thân thức...; chư Hiền, đối với ý, đối với pháp, đối với ý
thức, đối với các pháp được nhận thức bởi ý thức, phàm có dục gì,
tham gì, hỷ gì, ái gì, phàm có những chấp thủ phương tiện, những tâm
cố chấp, thiên chấp, tùy miên; đối với những pháp ấy, với sự đoạn tận,
đoạn ly, đoạn diệt, đoạn trừ, đoạn xả, tôi tuệ tri tâm tôi được giải
thoát.
Chư Hiền, vì rằng
tôi biết như vậy, thấy như vậy, đối với sáu nội ngoại xứ này, tôi có
thể nói tâm tôi được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp
thủ".
1052. Mạn tuỳ miên là
một câu hỏi lớn cần được nêu ra
Mạn là kiết sử sau cùng
trong năm thượng phần kiết sử. Không một vị nào đạt đến viên mãn cứu cánh mà mạn
tuỳ miên vẫn tồn đọng ngay cả trong hình thức vi tế nhất:
Này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo ấy cần phải được tán thán, cần phải được tùy hỷ với lời
nói: "Lành thay!" Sau khi tán thán, tùy hỷ với lời nói: "Lành
thay", một câu hỏi nữa cần phải được hỏi thêm:
"Nhưng này
Hiền giả, do biết gì, thấy gì, do đối với các thân có nhận thức này và
đối với tất cả tướng ở ngoài, Tôn giả có thể nói về mạn tùy miên:
"Ta là người làm, sở thuộc của ta là người làm", mạn tùy miên
của Tôn giả được đoạn trừ một cách hoàn toàn?".
Chư Tỷ-kheo, đối
với Tỷ-kheo các lậu hoặc đã đoạn tận, tu hành thành mãn, những việc
phải làm, đã làm, đã đặt gánh xuống, đã thành đạt mục đích, đã đoạn trừ
hữu kiết sử, và đã được giải thoát nhờ chánh trí, câu trả lời tùy pháp
của vị ấy phải như sau:
"Chư Hiền,
thuở xưa, khi tôi chưa xuất gia, tôi còn ngu muội. Tôi được Như Lai, đệ
tử Như Lai thuyết pháp. Sau khi nghe pháp. Tôi có lòng tịnh tín đối với
Như Lai. Thánh tựu được tịnh tín ấy, tôi suy nghĩ: "Ðời sống gia
đình đầy những triền phược, con đường đầy những bụi đời. Ðời sống
xuất gia phóng khoáng như hư không. Thật rất khó cho một người sống ở
gia đình có thể sống theo Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh
tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa,
xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình".
"Chư Hiền, một
thời gian sau, tôi từ bỏ tài sản nhỏ hay từ bỏ tài sản lớn, từ bỏ bà
con quyến thuộc nhỏ hay từ bỏ bà con quyến thuộc lớn, cạo bỏ râu tóc,
đắp áo cà-sa, và xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Khi đã xuất gia như
vậy, tôi thành tựu học giới và nếp sống các vị Tỷ-kheo, tôi từ bỏ sát
sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ,
sống thương xót tất cả chúng sanh và các loại hữu tình. Tôi từ bỏ lấy
của không cho, tránh xa lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho,
chỉ mong những vật đã cho, tự sống thanh tịnh không có trộm cướp. Tôi
từ bỏ phi Phạm hạnh, sống theo Phạm hạnh, sống tránh xa (phi Phạm
hạnh), từ bỏ dâm dục tục pháp.
Tôi từ bỏ nói láo,
tránh xa nói láo, nói những lời chơn thật, y chỉ trên sự thật, chắc
chắn, đáng tin cậy, không phản lại đời. Tôi từ bỏ nói hai lưỡi, tránh
xa nói hai lưỡi; nghe điều gì ở chỗ này, không đến nói chỗ kia để sanh
chia rẽ ở những người này; nghe điều này ở chỗ kia, không đi nói với
những người này, để sinh chia rẽ ở những người kia. Tôi sống hòa hợp
những kẻ ly gián, khuyến khích những kẻ hòa hợp, hoan hỷ trong hòa hợp,
thoải mái trong hòa hợp, hân hoan trong hòa hợp, nói những lời đưa đến
hòa hợp. Tôi từ bỏ nói lời độc ác, tránh xa nói lời độc ác, tôi nói
những lời nhẹ nhàng, thuận tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã,
đẹp lòng nhiều người, tôi nói những lời nói như vậy. Tôi từ bỏ nói
lời phù phiếm, tránh xa nói phù phiếm, nói đúng thời, nói những lời chân
thật, nói những lời có ý nghĩa, nói những lời về Chánh pháp, nói những
lời về luật, nói những lời đáng được gìn giữ, những lời hợp thời
thuận lý, có mạch lạc hệ thống, có ích lợi.
Tôi từ bỏ không làm
hại đến các hột giống và các loại cây cỏ, dùng một ngày một bữa, không
ăn ban đêm, từ bỏ không ăn phi thời. Tôi từ bỏ không đi xem múa, hát,
nhạc, các cuộc trình diễn. Tôi từ bỏ không trang sức bằng vòng hoa,
hương liệu, dầu thoa, các thời trang, các thời sức. Tôi từ bỏ không
dùng giường cao và giường lớn. Tôi từ bỏ không nhận các hạt sống. Tôi
từ bỏ không nhận thịt sống. Tôi từ bỏ không nhận đàn bà, con gái. Tôi
từ bỏ không nhận nô tỳ gái và trai. Tôi từ bỏ không nhận cừu dê. Tôi
từ bỏ không nhận gia cầm và heo. Tôi từ bỏ không voi, bò, ngựa và ngựa
cái. Tôi từ bỏ không nhận ruộng nương và đất đai. Tôi từ bỏ không nhận
người môi
giới hoặc tự mình
làm môi giới. Tôi từ bỏ không buôn bán. Tôi từ bỏ các sự gian lận bằng
cân tiền bạc và đo lường. Tôi từ bỏ các tà hạnh như hối lộ, gian trá,
lừa đảo. Tôi từ bỏ không làm thương tổn, sát hại, câu thúc, bức đoạt,
trộm cắp, cướp phá.
Tôi bằng lòng (tri
túc) với tấm y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại
chỗ nào cũng mang theo (y bát). Ví như con chim bay đến chỗ nào cũng mang
theo hai cánh; cũng vậy, tôi bằng lòng với tấm y để che thân, với đồ
ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo (y bát). Tôi
thành tựu Thánh giới uẩn này, cảm giác lạc thọ thuộc nội tâm, không
lỗi lầm.
Khi mắt thấy sắc, tôi
không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên
nhân gì, vì con mắt không được chế ngự khiến tham ái, ưu bi, các ác bất
thiện pháp khởi lên, tôi tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì con mắt,
thực hành sự hộ trì con mắt. Khi tai nghe tiếng... mũi ngửi hương...
lưỡi nếm vị... thân cảm xúc... ý nhận thức các pháp, tôi không nắm giữ
tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì, vì ý căn
không được chế ngự khiến tham ái ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi
lên, tôi tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì
ý căn. Tôi thành tựu Thánh hộ trì các căn này, cảm giác lạc thọ thuộc nội
tâm, không vẩn đục.
Khi đi tới, khi đi
lui, tôi đều tỉnh giác. Khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh, tôi đều tỉnh giác.
Khi co tay, khi duỗi tay, tôi đều tỉnh giác. Khi mang y kép, y bát, tôi đều
tỉnh giác. Khi ăn, uống, nhai, nuốt, tôi đều tỉnh giác. Khi đi đại tiện,
tiểu tiện, tôi đều tỉnh giác. Khi đi, đứng, ngồi, nằm, thức, nói, yên lặng,
tôi đều tỉnh giác.
"Và tôi đều
thành tự Thánh giới uẩn này, thành tựu Thánh hộ trì các căn này và thành
tựu Thánh chánh niệm tỉnh giác này chọn một chỗ thanh vắng, tịch mịch
như rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây, ngoài trời, đống
rơm.
Sau khi đi khất
thực về và ăn xong, tôi ngồi kiết-già, lưng thẳng tại chỗ nói trên và
an trú chánh niệm trước mặt. Tôi từ bỏ tham ái ở đời, sống với tâm thoát
ly tham ái, gột rửa tâm hết tham ái. Từ bỏ sân hận, tôi sống với tâm
không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng hữu tình, gột rữa
tâm hết sân hân. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, tôi sống thoát ly hôn trầm
thụy miên, với tâm tưởng hướng về ánh sáng chánh niệm tỉnh giác, gột
rửa tâm hết hôn trâm thụy miên. Trừ bỏ trạo cử hối quá, tôi sống không
trạo cử, hối quá, nội tâm trầm lặng, gột rửa tâm hết trạo cử, hối
quá. Từ bỏ nghi ngờ, tôi sống thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng
lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối với thiện pháp.
"Tôi từ bỏ
năm triền cái, các pháp làm cho tâm ô uế, làm cho trí tuệ muội lược này,
ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái
hỷ lạc do ly dục, sanh có tầm có tứ. Tôi diệt tầm và tứ, chứng và trú
Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không
tứ, nội tĩnh nhất tâm. Tôi ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân
cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú
Thiền thứ ba. Tôi xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước,
chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.
"Với tâm định
tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử
dụng, vững chắc, bình thản như vậy, tôi dẫn tâm, hướng tâm đến lậu tận
trí. Tôi biết như thật:"Ðây là khổ", biết như thật:"Ðây
là nguyên nhân của khổ", biết như thật:"Ðây là khổ diệt",
biết như thật: "Ðây là con đường đưa đến khổ diệt", biết
như thật: "Ðây là những lậu hoặc", biết như thật: "Ðây
là nguyên nhân của lậu hoặc", biết như thật: "Ðây là các lậu
hoặc được đoạn trừ", biết như thật: "Ðây là con đường đưa
đến các lậu hoặc được diệt trừ".
"Tôi nhờ biết
như vậy, nhờ thấy như vậy, tâm của tôi thoát khỏi dục lậu, thoát
khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Ðối với tự thân đã giải thoát
như vậy, tôi khởi lên sự hiểu biết: "Ta đã giải thoát"".
Tôi biết: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm;
không còn trở lui trạng thái này nữa".
"Chư Hiền do
biết như vậy, thấy như vậy, đối với các thân có nhận thức này và đối
với tất cả tướng ở ngoài, mạn tùy miên: "Ta là người làm, sở thuộc
của ta là người làm", mạn tùy miên này được đoạn trừ một cách
hoàn toàn".
1053. Hãy hoan hỷ chấp
nhận nếu có câu trả lời chân xác
Nếu những câu hỏi được
trả lời thoả đáng thì nên hoan hỷ chứ không nên luôn giữ thái độ nghi hoặc:
Này các Tỷ-kheo
Tỷ-kheo ấy cần phải được tán thán, cần phải được tùy hỷ với lời
nói: "Lành thay!" Sau khi tán thán, tùy hỷ với lời nói: "Lành
thay" vị ấy cần phải nói như sau: "Thật lợi ích thay cho chúng
tôi, thật khéo lợi ích thay cho chúng tôi, khi chúng tôi được thấy một
vị sống Phạm hạnh như Tôn giả".
Thế Tôn thuyết
giảng như vậy. Các Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Phân đoạn & chú thích: Tỳ Kheo
Giác Đẳng
-ooOoo-
Kinh số 112 [tóm tắt]
Kinh
Sáu Thanh Tịnh
(Chabbisodhana Sutta)
(M.iii,
29)
Kinh này Thế Tôn đề
cập đến sáu hành tướng của một vị đã chứng quả A-la-hán:
1.
Đối với những gì
được thấy, nghe, tư duy, nhận thức, vị ấy không tùy thuận, không
chống đối, độc lập (không bị tà kiến và ái chi phối), không bị trói buộc
(bởi tham dục), không hệ lụy (thoát ly bốn ách, dục, hữu, kiến và vô
minh), an trú tâm vô lượng.
2.
Đối với năm thủ
uẩn, vị ấy biết là vô lực, biến hoại, không an ổn, nên đoạn tận sắc,
thọ,.. tâm được giải thoát, không
chấp thủ.
3.
Đối với sáu giới
(địa, thủy, hỏa, phong, không, thức) biết rằng không phải tự ngã, tự
ngã không tùy thuộc chúng, đoạn tận những tâm cố chấp, thiên chấp, tùy
miên đối với chúng, được giải thoát khỏi lậu hoặc, không chấp thủ.
4-5. Đối với sáu ngoại, nội
xứ, vị ấy được giải thoát khỏi lậu hoặc, không chấp thủ.
6. Đối với tự thân
và các pháp, không còn mạn tùy miên, nhờ thành tựu giới uẩn, hộ trì các
căn, chánh niệm tỉnh giác, từ bỏ năm triền cái, chứng năm thiền chi
ở Sơ thiền, diệt tầm tứ, chứng và trú Nhị thiền cho đến Tứ thiền.
Với tâm nhu nhuyến, vị ấy hướng tâm đến Lậu tận trí. Nhờ biết như vậy,
thấy như vậy, tâm vị ấy thoát khỏi dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu.
Đối với tự thân đã giải thoát, vị ấy biết sanh đã tận, Phạm hạnh đã
thành, việc làm đã xong, sau đời này không có đời sống nào khác.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh
số 112
[dàn ý]
Kinh Sáu Thanh Tịnh
(Chabbisodhana Sutta)
(M.iii, 29)
A. Duyên khởi:
Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo
và thuyết giảng.
B. Chánh kinh:
Đức Phật dạy, khi một
Tỷ-kheo nói lên mình đã được chánh trí, thời cần phải xác nhận vị Tỷ-kheo ấy có
đạt được sự thanh tịnh hay không.
I. Thanh tịnh thứ nhất: Điều được
thấy nghe, được cảm giác, được nhận thức, không ái luyến, không chống đối, độc
lập, không trói buộc, được giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không hạn
chế.
II. Thanh tịnh thứ hai: Đối với năm
uẩn được giải thoát khỏi chấp thủ phương tiện, tâm cố chấp, thiên chấp tùy miên
được đoạn tận, ly tham.
III. Thanh tịnh thứ ba: Đối với sáu
giới đã đi đến không phải là tự ngã, tự ngã không phải là sáu giới, đã giải
thoát khỏi chấp thủ phương tiện, tâm cố chấp, thiên chấp tùy miên được đoạn tận,
ly tham.
IV và V. Thanh tịnh thứ tư và thứ năm:
Đối với 6 nội ngoại xứ,
phàm có dục, tham gì, hỷ gì, chấp thủ phương tiện, những cố chấp, thiên chấp
tùy miên đã được đoạn tận, ly tham.
VI. Thanh tịnh thứ sáu:
1.
Đã nghe pháp, xuất
gia, giữ giới.
2.
Đã tu tập thiền định,
đoạn năm triền cái, chứng 4 thiền.
3.
Đã như thật biết khổ,
khổ tập, khổ diệt, con đường đưa đến khổ diệt, đã như thật biết các lậu hoặc,
các lậu hoặc tập khởi, các lậu hoặc diệt, con đường đưa đến các lậu hoặc diệt.
4.
Giải thoát khỏi các lậu
hoặc, chứng quả, đối với thân có nhận thức này và đối với tất cả tướng ở bên
ngoài, mạn tùy miên đã được đọan trừ hoàn toàn.
C. Kết luận:
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các
Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Biên soạn: Hoà Thượng Thích Minh Châu
-ooOoo-
Kinh
số 112 [toát yếu]
Kinh Sáu Thanh Tịnh
(Chabbisodhana Sutta)
I. Toát Yếu
Chabbisodhana Sutta -
The Sixfold Purity.
The Buddha explains
how a bhikkhu should be interrogated when he claims final knowledge and how he
would answer if his claim is genuine.
Sáu sự thanh tịnh.
Phật giảng cách chất
vấn một tỷ kheo khi vị ấy tuyên bố đã đạt trí tối hậu; nếu đúng thật
thì vị ấy phải trả lời như thế nào.
II. Tóm tắt
Phật dạy chúng tỷ
kheo: Nếu có vị nào tuyên bố đã đoạn tận lậu hoặc, việc làm đã
xong, thì khi nghe vậy không nên khen hay bác bỏ, mà nên hỏi lại vị ấy những vấn đề
như sau. Họ thấy, nghe, nghĩ, biết [1] những gì mà tuyên bố như vậy? Trả lời
chân chính là: Ðối với những gì thấy nghe nghĩ biết (kiến văn giác tri)
họ không ái luyến không chống đối, không bị chúng trói buộc, an trú với
tâm không hạn lượng [2]. Ðược trả lời như vậy, cần hỏi tiếp là thái độ
của họ thế nào đối với năm thủ uẩn. Cần trả lời đã đoạn trừ tâm cố chấp
và tùy miên [3] đối với chúng vì biết chúng vô thường, biến hoại. Vấn đề
thứ ba là về sáu giới (địa thủy hỏa phong không và thức), họ phải thấy
là địa giới không phải tự ngã, tự ngã không tùy thuộc vào địa giới
[4] (cũng vậy với năm giới còn lại). Vấn đề thứ tư là sáu xúc xứ (căn trần
thức, tức mười tám giới), câu trả lời chân chính là: đối với mắt, sắc,
nhãn thức, và các pháp được nhận thức bởi nhãn thức [5], họ đã đoạn
tận dục tham hỷ ái, thiên chấp, tùy miên
(cũng vậy với năm căn
trần thức còn lại) nên biết tâm đã giải thoát. Thứ năm là đối với thức
thân và tướng ngoài, làm sao biết đã đoạn mạn tùy miên tôi là
người làm, sở thuộc của tôi là người làm [6]? Trả lời câu này, họ phải
kể lại tuần tự việc xuất gia với lòng tin, thành tựu thánh giới uẩn, đắc bốn
thiền [7] cho đến thấy như thật bốn chân lý và nhờ quán sát với trí tuệ, tâm giải
thoát khỏi dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, khởi lên hiểu biết: Sinh đã
tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại
không còn đời sống nào khác nữa. Khi ấy, nên tán thán: Thật lợi ích
thay cho chúng tôi được thấy một vị Phạm hạnh như tôn giả. [8]
III. Chú giải
1. Xem số 17.
2. Cũng như trong kinh 111 đoạn
4, nhưng ở đây các từ này cốt diễn đạt sự đoạn tận nhiễm ô nhờ A la hán đạo.
3. Theo kinh sớ, tất cả từ
này đều có nghĩa ái và kiến.
4. Phần đầu phủ nhận sự xem địa
đại là tự ngã, phần hai phủ nhận xem các sắc và tâm pháp ngoài địa đại là
tự ngã. Cũng thế với các đại khác.
5. Kinh có vẻ như trùng lặp
khi đã nói sắc lại còn nói thêm các pháp được tâm nhận biết bằng nhãn
thức. Sớ giải đưa ra hai quan điểm để giải quyết vấn đề. Một quan điểm cho
rằng sắc là chỉ cho mọi vật thực sự đi vào nhận thức, còn các pháp có thể
nhận biết bằng nhãn thức là những vật thấy được nhưng đã chấm dứt trước
khi được thấy. Quan điểm thứ hai nói Sắc chỉ tất cả hình dạng không phân
biệt, còn nhóm từ thứ hai là ba tâm uẩn hoạt động cùng với nhãn thức.
6. MA (Sớ giải Trung bộ) giải thích
tôi làm (ahankàra) là mạn còn của tôi
làm (mamankàra) là tham. Mọi tướng (nimitta) ngoài chỉ
cho ngoại vật.
7. Túc mạng trí và sinh tử trí ở đây
được gạt bỏ vì câu hỏi đầu tiên liên hệ đến sự chứng quả A la hán chứ
không nói các định chứng thuộc thế gian.
8. MA cho rằng kinh này còn gọi
là Ekavissajjitasutta; và thấy khó giải thích con số sáu trong
nhan đề nguyên thủy, vì trong kinh chỉ có năm câu hỏi đáp. Có thể chia mục
cuối thành hai, là thân với thân thức của mình và thân thức người khác. Hoặc có
quan điểm cho rằng bốn chân lý có thể được xem là vấn đề thứ sáu.
Nhưng cả hai quan điểm đều không ổn, nên rất có thể là có một đoạn đã thất
truyền.
IV. Pháp số
Không có
V. Kệ tụng
Phật dạy chúng tỷ
kheo
Nếu có người tuyên bố
Sinh tận, phạm hạnh thành
Không nên khen, hoặc bác.
Nên hỏi họ thấy gì
Nghe, nghĩ, biết những gì
Ðể tự xưng giải thoát
Không còn việc phải làm?
Cần trả lời chân chính:
Tôi không khởi ưa chán
Ðối kiến văn giác tri
Hằng trú tâm vô hạn.
Ðối với năm thủ uẩn
Thấy vô thường biến hoại
Tôi đoạn trừ cố chấp
Tâm giải thoát não phiền.
Với sáu giới trong ngoài
(Bốn đại và không, thức)
Không chấp đấy là tôi
Hay tự ngã của tôi.
Với sáu nội ngoại xứ
(tức là mười tám giới)
Tôi rũ sạch hỷ tham
Tự biết đã giải thoát.
Nhưng làm sao biết được
Ðã dứt mạn tùy miên:
Ta chính là người làm
Sở thuộc ta, người làm?
Với lòng tin xuất gia
Tôi thành tựu thánh giới
Chính niệm và tỉnh giác
Trong tất cả uy nghi.
Thiền định nơi vắng vẻ
Gột trừ năm triền cái
Chứng cho đến tứ thiền
Tâm hướng trí lậu tận.
Như thật biết bốn đế
Tâm giải thoát dục lậu
Hữu lậu, vô minh lậu
Biết việc làm đã xong.
Do thấy biết như trên
Ðối với thức thân này
Và tất cả ngoại tướng
Tôi dứt mạn tùy miên.
Ðược trả lời như trên
Hãy thốt lời ngợi khen:
Lành thay cho chúng tôi
Gặp người như tôn giả.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Tóm tắt & chú giải: Thích Nữ Trí Hải
-ooOoo-
112. Chabbisodhanasuttaṃ [Mūla]
98. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ samayaṃ Bhagavā
sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Tatra kho Bhagavā
bhikkhū āmantesi : ''bhikkhavoti. ''Bhadanteti te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ.
Bhagavā etadavoca :
''Idha, bhikkhave, bhikkhu aññaṃ
byākaroti : 'khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ
itthattāyāti pajānāmīti. Tassa, bhikkhave, bhikkhuno bhāsitaṃ neva
abhinanditabbaṃ nappaṭikkositabbaṃ. Anabhinanditvā appaṭikkositvā pañho
pucchitabbo : 'cattārome, āvuso, vohārā tena bhagavatā jānatā passatā arahatā
sammāsambuddhena sammadakkhātā. Katame cattāro? diṭṭhe diṭṭhavāditā, sute
sutavāditā, mute mutavāditā, viññāte viññātavāditā : ime kho, āvuso, cattāro vohārā tena
bhagavatā jānatā passatā arahatā sammāsambuddhena sammadakkhātā. Kathaṃ jānato
panāyasmato, kathaṃ passato imesu catūsu vohāresu anupādāya āsavehi cittaṃ
vimuttanti? khīṇāsavassa, bhikkhave, bhikkhuno vusitavato katakaraṇīyassa
ohitabhārassa anuppattasadatthassa parikkhīṇabhavasaṃyojanassa
sammadaññāvimuttassa ayamanudhammo hoti veyyākaraṇāya : 'diṭṭhe kho ahaṃ ,
āvuso, anupāyo anapāyo anissito appaṭibaddho
vippamutto visaṃyutto vimariyādīkatena cetasā viharāmi. Sute kho ahaṃ, āvuso -
pe - mute kho ahaṃ, āvuso... viññāte kho ahaṃ, āvuso, anupāyo anapāyo anissito
appaṭibaddho vippamutto visaṃyutto vimariyādīkatena cetasā viharāmi. Evaṃ kho
me, āvuso, jānato evaṃ passato imesu catūsu vohāresu anupādāya āsavehi cittaṃ
vimuttanti. Tassa, bhikkhave, bhikkhuno 'sādhūti bhāsitaṃ abhinanditabbaṃ
anumoditabbaṃ. 'Sādhūti bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā uttariṃ pañho
pucchitabbo.
99. '''Pañcime, āvuso,
upādānakkhandhā tena bhagavatā jānatā passatā arahatā sammāsambuddhena sammadakkhātā. Katame pañca? seyyathidaṃ :
rūpupādānakkhandho, vedanupādānakkhandho, saññupādānakkhandho, saṅkhārupādānakkhandho,
viññāṇupādānakkhandho : ime kho, āvuso, pañcupādānakkhandhā tena bhagavatā
jānatā passatā arahatā sammāsambuddhena sammadakkhātā. Kathaṃ jānato
panāyasmato, kathaṃ passato imesu pañcasu upādānakkhandhesu anupādāya āsavehi
cittaṃ vimuttanti? khīṇāsavassa, bhikkhave, bhikkhuno vusitavato katakaraṇīyassa
ohitabhārassa anuppattasadatthassa parikkhīṇabhavasaṃyojanassa
sammadaññāvimuttassa ayamanudhammo hoti veyyākaraṇāya : 'rūpaṃ kho ahaṃ, āvuso,
abalaṃ virāgunaṃ [virāgaṃ (sī. pī.), virāgutaṃ (ṭīkā)] anassāsikanti viditvā ye
rūpe upāyūpādānā [upayūpādānā (ka.)] cetaso
adhiṭṭhānābhinivesānusayā tesaṃ khayā virāgā nirodhā cāgā paṭinissaggā vimuttaṃ me cittanti
pajānāmi. Vedanaṃ kho ahaṃ, āvuso - pe - saññaṃ kho ahaṃ, āvuso... saṅkhāre kho
ahaṃ, āvuso... viññāṇaṃ kho ahaṃ, āvuso, abalaṃ virāgunaṃ anassāsikanti viditvā
ye viññāṇe upāyūpādānā cetaso adhiṭṭhānābhinivesānusayā tesaṃ khayā virāgā
nirodhā cāgā paṭinissaggā vimuttaṃ me cittanti pajānāmi. Evaṃ kho me, āvuso,
jānato evaṃ passato imesu pañcasu upādānakkhandhesu anupādāya āsavehi cittaṃ
vimuttanti. Tassa, bhikkhave, bhikkhuno 'sādhūti bhāsitaṃ abhinanditabbaṃ,
anumoditabbaṃ. 'Sādhūti bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā uttariṃ pañho
pucchitabbo.
100. '''Chayimā , āvuso, dhātuyo
tena bhagavatā jānatā passatā arahatā sammāsambuddhena sammadakkhātā. Katamā
cha? pathavīdhātu, āpodhātu, tejodhātu, vāyodhātu, ākāsadhātu, viññāṇadhātu :
imā kho, āvuso, cha dhātuyo tena bhagavatā jānatā passatā arahatā
sammāsambuddhena sammadakkhātā. Kathaṃ jānato panāyasmato, kathaṃ passato imāsu
chasu dhātūsu anupādāya āsavehi cittaṃ vimuttanti? khīṇāsavassa, bhikkhave, bhikkhuno
vusitavato katakaraṇīyassa ohitabhārassa
anuppattasadatthassa parikkhīṇabhavasaṃyojanassa sammadaññāvimuttassa
ayamanudhammo hoti veyyākaraṇāya : 'pathavīdhātuṃ kho ahaṃ, āvuso, na attato
upagacchiṃ, na ca pathavīdhātunissitaṃ attānaṃ. Ye ca pathavīdhātunissitā
upāyūpādānā cetaso adhiṭṭhānābhinivesānusayā tesaṃ khayā virāgā nirodhā cāgā paṭinissaggā
vimuttaṃ me cittanti pajānāmi. Āpodhātuṃ kho ahaṃ, āvuso - pe - tejodhātuṃ kho ahaṃ, āvuso... vāyodhātuṃ kho
ahaṃ, āvuso... ākāsadhātuṃ kho ahaṃ, āvuso... viññāṇadhātuṃ kho ahaṃ, āvuso, na
attato upagacchiṃ, na ca viññāṇadhātunissitaṃ attānaṃ. Ye ca viññāṇadhātunissitā
upāyūpādānā cetaso adhiṭṭhānābhinivesānusayā tesaṃ khayā virāgā nirodhā cāgā paṭinissaggā
vimuttaṃ me cittanti pajānāmi. Evaṃ kho me, āvuso, jānato, evaṃ passato imāsu
chasu dhātūsu anupādāya āsavehi cittaṃ vimuttanti. Tassa, bhikkhave, bhikkhuno
'sādhūti bhāsitaṃ abhinanditabbaṃ,
anumoditabbaṃ. 'Sādhūti bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā uttariṃ pañho
pucchitabbo.
101. '''Cha kho panimāni, āvuso,
ajjhattikabāhirāni [ajjhattikāni bāhirāni (syā. kaṃ. pī.)] āyatanāni tena
bhagavatā jānatā passatā arahatā sammāsambuddhena sammadakkhātāni. Katamāni
cha? cakkhu ceva rūpā ca, sotañca saddā ca, ghānañca gandhā ca, jivhā ca rasā
ca, kāyo ca phoṭṭhabbā ca, mano ca dhammā ca : imāni kho, āvuso, cha
ajjhattikabāhirāni āyatanāni tena bhagavatā jānatā passatā arahatā
sammāsambuddhena sammadakkhātāni. Kathaṃ jānato panāyasmato, kathaṃ passato
imesu chasu ajjhattikabāhiresu āyatanesu
anupādāya āsavehi cittaṃ vimuttanti? khīṇāsavassa, bhikkhave, bhikkhuno
vusitavato katakaraṇīyassa ohitabhārassa
anuppattasadatthassa parikkhīṇabhavasaṃyojanassa sammadaññāvimuttassa
ayamanudhammo hoti veyyākaraṇāya :
'cakkhusmiṃ, āvuso, rūpe cakkhuviññāṇe cakkhuviññāṇaviññātabbesu dhammesu yo
chando yo rāgo yā nandī [nandi (sī. syā. kaṃ. pī.)] yā taṇhā ye ca upāyūpādānā
cetaso adhiṭṭhānābhinivesānusayā tesaṃ khayā virāgā nirodhā cāgā paṭinissaggā
vimuttaṃ me cittanti pajānāmi. Sotasmiṃ, āvuso, sadde sotaviññāṇe - pe - ghānasmiṃ,
āvuso, gandhe ghānaviññāṇe... jivhāya, āvuso, rase jivhāviññāṇe... kāyasmiṃ,
āvuso, phoṭṭhabbe kāyaviññāṇe... manasmiṃ, āvuso, dhamme manoviññāṇe manoviññāṇaviññātabbesu
dhammesu yo chando yo rāgo yā nandī yā taṇhā ye ca upāyūpādānā cetaso adhiṭṭhānābhinivesānusayā
tesaṃ khayā virāgā nirodhā cāgā paṭinissaggā vimuttaṃ me cittanti pajānāmi. Evaṃ
kho me, āvuso, jānato evaṃ passato imesu chasu ajjhattikabāhiresu āyatanesu
anupādāya āsavehi cittaṃ vimuttanti. Tassa, bhikkhave, bhikkhuno 'sādhūti
bhāsitaṃ abhinanditabbaṃ anumoditabbaṃ. 'Sādhūti bhāsitaṃ abhinanditvā
anumoditvā uttariṃ pañho pucchitabbo.
102. '''Kathaṃ jānato panāyasmato,
kathaṃ passato imasmiñca saviññāṇake kāye bahiddhā ca sabbanimittesu ahaṃkāramamaṃkāramānānusayā
samūhatāti [susamūhatāti (sī. syā. kaṃ. pī.)]? khīṇāsavassa , bhikkhave,
bhikkhuno vusitavato katakaraṇīyassa ohitabhārassa anuppattasadatthassa
parikkhīṇabhavasaṃyojanassa sammadaññāvimuttass ayamanudhammo hoti veyyākaraṇāya
: 'pubbe kho ahaṃ, āvuso, agāriyabhūto samāno aviddasu ahosiṃ. Tassa me
tathāgato vā tathāgatasāvako vā dhammaṃ desesi. Tāhaṃ dhammaṃ sutvā tathāgate
saddhaṃ paṭilabhiṃ. So tena saddhāpaṭilābhena samannāgato iti paṭisañcikkhiṃ :
sambādho gharāvāso rajāpatho, abbhokāso pabbajjā. Nayidaṃ sukaraṃ agāraṃ ajjhāvasatā
ekantaparipuṇṇaṃ ekantaparisuddhaṃ saṅkhalikhitaṃ brahmacariyaṃ carituṃ. Yaṃnūnāhaṃ
kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ pabbajeyyanti. ''So kho ahaṃ,
āvuso, aparena samayena appaṃ vā bhogakkhandhaṃ pahāya mahantaṃ vā
bhogakkhandhaṃ pahāya, appaṃ vā ñātiparivaṭṭaṃ pahāya mahantaṃ vā ñātiparivaṭṭaṃ
pahāya kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ
pabbajiṃ. So evaṃ pabbajito samāno bhikkhūnaṃ sikkhāsājīvasamāpanno pāṇātipātaṃ
pahāya pāṇātipātā paṭivirato ahosiṃ nihitadaṇḍo nihitasattho, lajjī dayāpanno
sabbapāṇabhūtahitānukampī vihāsiṃ. Adinnādānaṃ pahāya adinnādānā paṭivirato
ahosiṃ dinnādāyī dinnapāṭikaṅkhī, athenena
sucibhūtena attanā vihāsiṃ. Abrahmacariyaṃ pahāya brahmacārī ahosiṃ
ārācārī virato methunā gāmadhammā. Musāvādaṃ pahāya musāvādā paṭivirato ahosiṃ
saccavādī saccasandho theto paccayiko avisaṃvādako lokassa. Pisuṇaṃ vācaṃ pahāya pisuṇāya vācāya
paṭivirato ahosiṃ, ito sutvā na amutra akkhātā imesaṃ bhedāya, amutra vā sutvā
na imesaṃ akkhātā amūsaṃ bhedāya iti bhinnānaṃ vā sandhātā sahitānaṃ vā
anuppadātā samaggārāmo samaggarato samagganandī samaggakaraṇiṃ vācaṃ bhāsitā
ahosiṃ. Pharusaṃ vācaṃ pahāya pharusāya vācāya paṭivirato ahosiṃ yā sā vācā
nelā kaṇṇasukhā pemanīyā hadayaṅgamā porī
bahujanakantā bahujanamanāpā tathārūpiṃ vācaṃ bhāsitā ahosiṃ. Samphappalāpaṃ
pahāya samphappalāpā paṭivirato ahosiṃ kālavādī bhūtavādī atthavādī dhammavādī
vinayavādī nidhānavatiṃ vācaṃ bhāsitā ahosiṃ kālena sāpadesaṃ pariyantavatiṃ
atthasaṃhitaṃ. ''So bījagāmabhūtagāmasamārambhā paṭivirato ahosiṃ, ekabhattiko
ahosiṃ rattūparato virato vikālabhojanā. Naccagītavāditavisūkadassanā paṭivirato
ahosiṃ. Mālāgandhavilepanadhāraṇamaṇḍanavibhūsanaṭṭhānā paṭivirato ahosiṃ.
Uccāsayanamahāsayanā paṭivirato ahosiṃ. Jātarūparajatapaṭiggahaṇā paṭivirato
ahosiṃ, āmakadhaññapaṭiggahaṇā paṭivirato ahosiṃ, āmakamaṃsapaṭiggahaṇā paṭivirato
ahosiṃ itthikumārikapaṭiggahaṇā paṭivirato ahosiṃ, dāsidāsapaṭiggahaṇā paṭivirato
ahosiṃ, ajeḷakapaṭiggahaṇā paṭivirato ahosiṃ, kukkuṭasūkarapaṭiggahaṇā paṭivirato
ahosiṃ , hatthigavassavaḷavapaṭiggahaṇā paṭivirato ahosiṃ, khettavatthupaṭiggahaṇā
paṭivirato ahosiṃ. Dūteyyapahiṇagamanānuyogā
paṭivirato ahosiṃ, kayavikkayā paṭivirato ahosiṃ, tulākūṭakaṃsakūṭamānakūṭā
paṭivirato ahosiṃ, ukkoṭanavañcananikatisāciyogā paṭivirato ahosiṃ,
chedanavadhabandhanaviparāmosaālopasahasākārā paṭivirato ahosiṃ. ''So santuṭṭho
ahosiṃ kāyaparihārikena cīvarena, kucchiparihārikena piṇḍapātena. So yena
yeneva [yena yena ca (ka.)] pakkamiṃ samādāyeva pakkamiṃ. Seyyathāpi nāma
pakkhī sakuṇo yena yeneva ḍeti sapattabhārova ḍeti evameva kho ahaṃ, āvuso
santuṭṭho ahosiṃ kāyaparihārikena cīvarena, kucchiparihārikena piṇḍapātena. So
yena yeneva pakkamiṃ samādāyeva pakkamiṃ. So iminā ariyena sīlakkhandhena
samannāgato ajjhattaṃ anavajjasukhaṃ paṭisaṃvedesiṃ.
103. ''So cakkhunā rūpaṃ disvā na nimittaggāhī ahosiṃ
nānubyañjanaggāhī yatvādhikaraṇamenaṃ cakkhundriyaṃ asaṃvutaṃ viharantaṃ
abhijjhādomanassā pāpakā akusalā dhammā anvāssaveyyuṃ, tassa saṃvarāya paṭipajjiṃ rakkhiṃ cakkhundriyaṃ, cakkhundriye saṃvaraṃ
āpajjiṃ. Sotena saddaṃ sutvā - pe - ghānena gandhaṃ ghāyitvā - pe - jivhāya
rasaṃ sāyitvā - pe - kāyena phoṭṭhabbaṃ phusitvā - pe - manasā dhammaṃ viññāya
na nimittaggāhī ahosiṃ nānubyañjanaggāhī yatvādhikaraṇamenaṃ manindriyaṃ asaṃvutaṃ
viharantaṃ abhijjhādomanassā pāpakā akusalā dhammā anvāssaveyyuṃ, tassa saṃvarāya
paṭipajjiṃ rakkhiṃ manindriyaṃ, manindriye saṃvaraṃ āpajjiṃ. So iminā ariyena indriyasaṃvarena samannāgato
ajjhattaṃ abyāsekasukhaṃ paṭisaṃvedesiṃ. ''So abhikkante paṭikkante
sampajānakārī ahosiṃ, ālokite vilokite sampajānakārī ahosiṃ, samiñjite pasārite
sampajānakārī ahosiṃ, saṅghāṭipattacīvaradhāraṇe sampajānakārī ahosiṃ, asite
pīte khāyite sāyite sampajānakārī ahosiṃ, uccārapassāvakamme sampajānakārī
ahosiṃ, gate ṭhite nisinne sutte jāgarite bhāsite tuṇhībhāve sampajānakārī
ahosiṃ. ''So iminā ca ariyena
sīlakkhandhena samannāgato, (imāya ca ariyāya santuṭṭhiyā samannāgato,) [passa
mAnguttara Nikāye 1.296 cūḷahatthipadopame] iminā ca ariyena indriyasaṃvarena
samannāgato, iminā ca ariyena satisampajaññena samannāgato vivittaṃ senāsanaṃ
bhajiṃ araññaṃ rukkhamūlaṃ pabbataṃ kandaraṃ giriguhaṃ susānaṃ vanapatthaṃ
abbhokāsaṃ palālapuñjaṃ. So pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto nisīdiṃ pallaṅkaṃ
ābhujitvā ujuṃ kāyaṃ paṇidhāya parimukhaṃ satiṃ upaṭṭhapetvā. ''So abhijjhaṃ
loke pahāya vigatābhijjhena cetasā vihāsiṃ, abhijjhāya cittaṃ parisodhesiṃ.
Byāpādapadosaṃ pahāya abyāpannacitto vihāsiṃ sabbapāṇabhūtahitānukampī,
byāpādapadosā cittaṃ parisodhesiṃ. Thinamiddhaṃ pahāya vigatathinamiddho vihāsiṃ
ālokasaññī sato sampajāno, thinamiddhā cittaṃ parisodhesiṃ. Uddhaccakukkuccaṃ
pahāya anuddhato vihāsiṃ ajjhattaṃ, vūpasantacitto, uddhaccakukkuccā cittaṃ
parisodhesiṃ. Vicikicchaṃ pahāya tiṇṇavicikiccho vihāsiṃ akathaṃkathī kusalesu
dhammesu, vicikicchāya cittaṃ parisodhesiṃ.
104. ''So ime
pañca nīvaraṇe pahāya cetaso upakkilese paññāya dubbalīkaraṇe vivicceva
kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ
jhānaṃ upasampajja vihāsiṃ. Vitakkavicārānaṃ vūpasamā ajjhattaṃ sampasādanaṃ
cetaso ekodibhāvaṃ avitakkaṃ avicāraṃ samādhijaṃ pītisukhaṃ dutiyaṃ jhānaṃ - pe
- tatiyaṃ jhānaṃ... catutthaṃ jhānaṃ upasampajja vihāsiṃ.
''So evaṃ samāhite citte
parisuddhe pariyodāte anaṅgaṇe vigatūpakkilese mudubhūte kammaniye ṭhite
āneñjappatte āsavānaṃ khayañāṇāya cittaṃ abhininnāmesiṃ. So idaṃ dukkhanti
yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ, ayaṃ dukkhasamudayoti yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ, ayaṃ
dukkhanirodhoti yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ, ayaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadāti
yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ ime āsavāti yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ, ayaṃ
āsavasamudayoti yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ, ayaṃ āsavanirodhoti yathābhūtaṃ
abbhaññāsiṃ, ayaṃ āsavanirodhagāminī paṭipadāti yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ. Tassa
me evaṃ jānato evaṃ passato kāmāsavāpi
cittaṃ vimuccittha, bhavāsavāpi cittaṃ vimuccittha, avijjāsavāpi cittaṃ
vimuccittha vimuttasmiṃ vimuttamiti ñāṇaṃ ahosi. Khīṇā jāti, vusitaṃ
brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyāti abbhaññāsiṃ. Evaṃ kho me,
āvuso, jānato evaṃ passato imasmiñca saviññāṇake kāye bahiddhā ca sabbanimittesu
ahaṃkāramamaṃkāramānānusayā samūhatāti . ''Tassa, bhikkhave, bhikkhuno 'sādhūti
bhāsitaṃ abhinanditabbaṃ anumoditabbaṃ. 'Sādhūti bhāsitaṃ abhinanditvā
anumoditvā evamassa vacanīyo : 'lābhā no, āvuso, suladdhaṃ no, āvuso, ye mayaṃ āyasmantaṃ tādisaṃ
sabrahmacāriṃ samanupassāmāti [passāmāti (sī.)]. Idamavoca Bhagavā.
Attamanā te bhikkhū bhagavato bhāsitaṃ abhinandunti.
Chabbisodhanasuttaṃ
niṭṭhitaṃ dutiyaṃ.
-ooOoo-
112.
Chabbisodhanasuttavaṇṇanā [Atthakathā]
98. Evaṃ
me sutanti chabbisodhanasuttaṃ. Tattha khīṇā jātītiādīsu ekenāpi
padena aññā byākatāva hoti, dvīhipi. Idha pana catūhi padehi aññabyākaraṇaṃ
āgataṃ. Diṭṭhe diṭṭhavāditātiādīsu yāya cetanāya diṭṭhe diṭṭhaṃ meti
vadati, sā diṭṭhe diṭṭhavāditā nāma. Sesapadesupi eseva nayo. Ayamanudhammoti
ayaṃ sabhāvo. Abhinanditabbanti na kevalaṃ abhinanditabbaṃ,
parinibbutassa panassa sabbopi khīṇāsavassa sakkāro kātabbo. Uttariṃ pañhoti
sace panassa veyyākaraṇena asantuṭṭhā hotha, uttarimpi ayaṃ pañho pucchitabboti
dasseti. Ito paresupi tīsu vāresu ayameva nayo.
99. Abalanti
dubbalaṃ. Virāgunanti vigacchanasabhāvaṃ. Anassāsikanti
assāsavirahitaṃ. Upāyūpādānāti taṇhādiṭṭhīnametaṃ adhivacanaṃ. Taṇhādiṭṭhiyo
hi tebhūmakadhamme upentīti upāyā, upādiyantīti upādānā. Cetaso adiṭṭhānābhinivesānusayātipi
tāsaṃyeva nāmaṃ. Cittañhi taṇhādiṭṭhīhi sakkāyadhammesu tiṭṭhati adhitiṭṭhatīti
taṇhādiṭṭhiyo cetaso adhiṭṭhānā, tāhi taṃ abhinivisatīti abhinivesā,
tāhiyeva taṃ anusetīti anusayāti vuccanti. Khayā virāgātiādīsu
khayena virāgenāti attho. Sabbāni cetāni aññamaññavevacanāneva.
100. Pathavīdhātūti
patiṭṭhānadhātu. Āpodhātūti ābandhanadhātu. Tejodhātūti
paripācanadhātu. Vāyodhātūti vitthambhanadhātu. Ākāsadhātūti
asamphuṭṭhadhātu. Viññāṇadhātūti vijānanadhātu. Na anattato upagacchinti
ahaṃ attāti attakoṭṭhāsena na upagamiṃ. Na ca pathavīdhātunissitanti
pathavīdhātunissitā sesadhātuyo ca upādārūpañca arūpakkhandhā ca. Tepi hi
nissitavatthurūpānaṃ pathavīdhātunissitattā ekena pariyāyena
pathavīdhātunissitāva. Tasmā ‘‘na ca pathavīdhātunissita’’nti vadanto
sesarūpārūpadhammepi attato na upagacchinti vadati. Ākāsadhātunissitapade pana
avinibbhogavasena sabbampi bhūtupādārūpaṃ ākāsadhātunissitaṃ nāma, tathā
taṃnissitarūpavatthukā arūpakkhandhā. Evaṃ idhāpi rūpārūpaṃ gahitameva hoti.
Viññāṇadhātunissitapade pana sahajātā tayo khandhā cittasamuṭṭhānarūpañca viññāṇadhātunissitanti
rūpārūpaṃ gahitameva hoti.
101. Rūpe
cakkhuviññāṇe cakkhuviññāṇaviññātabbesu dhammesūti ettha yaṃ atīte
cakkhudvārassa āpāthaṃ āgantvā niruddhaṃ, yañca anāgate āpāthaṃ āgantvā
nirujjhissati, yampi etarahi āgantvā niruddhaṃ, taṃ sabbaṃ rūpaṃ nāma. Yaṃ pana
atītepi āpāthaṃ anāgantvā niruddhaṃ, anāgatepi anāgantvā nirujjhissati,
etarahipi anāgantvā niruddhaṃ, taṃ cakkhuviññāṇaviññātabbadhammesu saṅgahitanti
vutte tipiṭakacūḷābhayatthero āha – ‘‘imasmiṃ ṭhāne dvidhā karotha, upari
chandovāre kinti karissatha, nayidaṃ labbhatī’’ti. Tasmā tīsu kālesu āpāthaṃ
āgataṃ vā anāgataṃ vā sabbampi taṃ rūpameva, cakkhuviññāṇasampayuttā pana tayo
khandhā cakkhuviññāṇaviññātabbadhammāti veditabbā. Ayañhettha attho
‘‘cakkhuviññāṇena saddhiṃ viññātabbesu dhammesū’’ti. Chandoti taṇhāchando.
Rāgoti sveva rajjanavasena rāgo. Nandīti sveva abhinandanavasena
nandī. Taṇhāti sveva taṇhāyanavasena taṇhā. Sesadvāresupi eseva nayo.
102. Ahaṅkāramamaṅkāramānānusayāti
ettha ahaṅkāro māno, mamaṅkāro taṇhā, sveva mānānusayo. Āsavānaṃ khayañāṇāyāti
idaṃ pubbenivāsaṃ dibbacakkhuñca avatvā kasmā vuttaṃ? Bhikkhū lokiyadhammaṃ na
pucchanti, lokuttarameva pucchanti, tasmā pucchitapañhaṃyeva kathento evamāha.
Ekavissajjitasuttaṃ nāmetaṃ, chabbisodhanantipissa nāmaṃ. Ettha hi cattāro
vohārā pañca khandhā cha dhātuyo cha ajjhattikabāhirāni āyatanāni attano
saviññāṇakakāyo paresaṃ saviññāṇakakāyoti ime cha koṭṭhāsā visuddhā, tasmā
‘‘chabbisodhaniya’’nti vuttaṃ. Parasamuddavāsittherā pana attano ca
parassa ca viññāṇakakāyaṃ ekameva katvā catūhi āhārehi saddhinti cha koṭṭhāse
vadanti.
Ime pana cha koṭṭhāsā ‘‘kiṃ te
adhigataṃ, kinti te adhigataṃ, kadā te adhigataṃ, kattha te adhigataṃ, katame
te kilesā pahīnā, katamesaṃ tvaṃ dhammānaṃ lābhī’’ti (pārā. 198) evaṃ
vinayaniddesapariyāyena sodhetabbā.
Ettha hi kiṃ te adhigatanti
adhigamapucchā, jhānavimokkhādīsu sotāpattimaggādīsu vā kiṃ tayā adhigataṃ. Kinti
te adhigatanti upāyapucchā. Ayañhi etthādhippāyo – kiṃ tayā aniccalakkhaṇaṃ
dhuraṃ katvā adhigataṃ, dukkhānattalakkhaṇesu aññataraṃ vā, kiṃ vā
samādhivasena abhinivisitvā, udāhu vipassanāvasena, tathā kiṃ rūpe
abhinivisitvā, udāhu arūpe, kiṃ vā ajjhattaṃ abhinivisitvā, udāhu bahiddhāti. Kadā
te adhigatanti kālapucchā, pubbaṇhamajjhanhikādīsu katarasmiṃ kāleti vuttaṃ
hoti.
Kattha te
adhigatanti
okāsapucchā, kismiṃ okāse, kiṃ rattiṭṭhāne divāṭṭhāne rukkhamūle maṇḍape
katarasmiṃ vā vihāreti vuttaṃ hoti. Katame te kilesā pahīnāti
pahīnakilese pucchati, kataramaggavajjhā tava kilesā pahīnāti vuttaṃ hoti.
Katamesaṃ
tvaṃ dhammānaṃ lābhīti
paṭiladdhadhammapucchā, paṭhamamaggādīsu katamesaṃ tvaṃ dhammānaṃ lābhīti vuttaṃ
hoti.
Tasmā idāni cepi koci bhikkhu
uttarimanussadhammādhigamaṃ byākareyya, na so ettāvatāva sakkātabbo. Imesu pana
chasu ṭhānesu sodhanatthaṃ vattabbo ‘‘kiṃ te adhigataṃ, kiṃ jhānaṃ udāhu
vimokkhādīsu aññatara’’nti? Yo hi yena adhigato dhammo, so tassa pākaṭo hoti.
Sace ‘‘idaṃ nāma me adhigata’’nti vadati, tato ‘‘kinti te adhigata’’nti
pucchitabbo. Aniccalakkhaṇādīsu kiṃ dhuraṃ katvā, aṭṭhatiṃsāya vā ārammaṇesu
rūpārūpaajjhattabahiddhādibhedesu vā dhammesu kena mukhena abhinivisitvāti? Yo
hi yassābhiniveso, so tassa pākaṭo hoti.
Sace pana ‘‘ayaṃ nāma me
abhiniveso, evaṃ mayā adhigata’’nti vadati, tato ‘‘kadā te adhigata’’nti
pucchitabbo, ‘‘kiṃ pubbaṇhe, udāhu majjhanhikādīsu aññatarasmiṃ kāle’’ti?
Sabbesañhi attanā adhigatakālo pākaṭo hoti. Sace ‘‘amukasmiṃ nāma me kāle
adhigata’’nti vadati, tato ‘‘kattha te adhigata’’nti pucchitabbo, ‘‘kiṃ divāṭṭhāne,
udāhu rattiṭṭhānādīsu aññatarasmiṃ okāse’’ti? Sabbesañhi attanā adhigatokāso
pākaṭo hoti. Sace ‘‘amukasmiṃ nāma me okāse adhigata’’nti vadati, tato ‘‘katame
te kilesā pahīnā’’ti pucchitabbo, ‘‘kiṃ paṭhamamaggavajjhā, udāhu
dutiyādimaggavajjhā’’ti? Sabbesañhi attanā adhigatamaggena pahīnakilesā pākaṭā
honti.
Sace ‘‘ime nāma me kilesā
pahīnā’’ti vadati, tato ‘‘katamesaṃ tvaṃ dhammānaṃ lābhī’’ti pucchitabbo, ‘‘kiṃ
sotāpattimaggassa, udāhu sakadāgāmimaggādīsu aññatarassā’’ti? Sabbesañhi attanā
adhigatadhammo pākaṭo hoti. Sace ‘‘imesaṃ nāmāhaṃ dhammānaṃ lābhī’’ti vadati,
ettāvatāpissa vacanaṃ na saddhātabbaṃ. Bahussutā hi uggahaparipucchākusalā
bhikkhū imāni cha ṭhānāni sodhetuṃ sakkonti. Imassa bhikkhuno āgamanapaṭipadā
sodhetabbā, yadi āgamanapaṭipadā na sujjhati, ‘‘imāya paṭipadāya
lokuttaradhammā nāma na labbhantī’’ti apanetabbo.
Yadi panassa āgamanapaṭipadā
sujjhati, ‘‘dīgharattaṃ tīsu sikkhāsu appamatto jāgariyamanuyutto catūsu
paccayesu alaggo ākāse pāṇisamena cetasā viharatī’’ti paññāyati, tassa
bhikkhuno byākaraṇaṃ paṭipadāya saddhiṃ saṃsandati sameti. ‘‘Seyyathāpi nāma gaṅgodakaṃ
yamunodakena saddhiṃ saṃsandati sameti, evameva supaññattā tena bhagavatā
sāvakānaṃ nibbānagāminī paṭipadā saṃsandati sameti nibbānañca paṭipadā cā’’ti
(dī. ni. 2.296) vuttasadisaṃ hoti.
Apica kho ettakenāpi sakkāro na
kātabbo. Kasmā? Ekaccassa hi puthujjanassāpi sato khīṇāsavapaṭipattisadisā paṭipadā
hoti. Tasmā so bhikkhu tehi tehi upāyehi uttāsetabbo. Khīṇāsavassa nāma
asaniyāpi matthake patamānāya bhayaṃ vā chambhitattaṃ vā lomahaṃso vā na hoti,
puthujjanassa appamattakenāpi hoti.
Tatrimāni vatthūni – dīghabhāṇakaabhayatthero
kira ekaṃ piṇḍapātikaṃ pariggahetuṃ asakkonto daharassa saññaṃ adāsi. So taṃ
nhāyamānaṃ kalyāṇīnadīmukhadvāre nimujjitvā pāde aggahesi. Piṇḍapātiko kumbhīloti
saññāya mahāsaddamakāsi, tadā naṃ puthujjanoti sañjāniṃsu.
Candamukhatissarājakāle pana mahāvihāre saṅghatthero khīṇāsavo dubbalacakkhuko
vihāreyeva acchi. Rājā theraṃ pariggaṇhissāmīti bhikkhūsu bhikkhācāraṃ gatesu
appasaddo upasaṅkamitvā sappo viya pāde aggahesi. Thero silāthambho viya
niccalo hutvā ko etthāti āha? Ahaṃ, bhante, tissoti. Sugandhaṃ vāyasi no
tissāti? Evaṃ khīṇāsavassa bhayaṃ nāma natthīti.
Ekacco pana puthujjanopi atisūro
hoti nibbhayo. So rañjanīyena ārammaṇena pariggaṇhitabbo. Vasabharājāpi hi ekaṃ
theraṃ pariggaṇhamāno ghare nisīdāpetvā tassa santike badarasāḷavaṃ maddamāno
nisīdi. Mahātherassa kheḷo cali, tato therassa puthujjanabhāvo āvibhūto. Khīṇāsavassa
hi rasataṇhā nāma suppahīnā, dibbesupi rasesu nikanti nāma na hoti. Tasmā imehi
upāyehi pariggahetvā sacassa bhayaṃ vā chambhitattaṃ vā lomahaṃso vā rasataṇhā
vā uppajjati, na tvaṃ arahāti apanetabbo. Sace pana abhīrū acchambhī anutrāsī
hutvā sīho viya nisīdati, dibbārammaṇepi nikantiṃ na janeti. Ayaṃ bhikkhu
sampannaveyyākaraṇo samantā rājarājamahāmattādīhi pesitaṃ sakkāraṃ arahatīti.
Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 1. Trong thế giới hôm nay có cần thiết chăng để xác định ai là A La Hán ? - TT Tuệ Siêu
Thảo luận 2. Nếu cần thiết thì những vị có tri kiến về pháp học có đủ khả năng xác định một vị viên mãn pháp hành? - TT Tuệ Siêu
Thảo luân 3. Nếu có những vị "học tủ" những câu trả lời trong bài kinh này để trả lời thì chúng ta có thể xác chứng thế nào? - TT Tuệ Siêu
c Thảo luận 4. Phải chăng trong Tam tạng có ghi một số các vị A La Hán thời Đức Phật vẫn có ngoại hình thô xấu hay những cử chỉ không đẹp mắt? - TT Tuệ Siêu
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment