TU TẬP THỜI ĐẠI DỊCH
Pháp thoại
KHOA HỌC
VÀ KỸ THUẬT
Trích từ “Phật Giáo, nền tảng của khoa học”
Trích từ “Phật Giáo, nền tảng của khoa học”
Hòa thượng Prayudh Payutto
Tỳ kheo Thích Tâm Quang
dịch
TÔN GIÁO
BẮT NGUỒN ra sao? Chúng ta đều biết tôn giáo bắt nguồn từ sự sợ hãi nguy hiểm,
nhất là những nguy cơ thiên nhiên, như sấm sét, lụt lội, động đất, núi lửa, bão
tố vân vân .... Những nguy hiểm trên đã đe dọa con người qua nhiều thời đại.
? thời
cổ, người ta không hiểu sự vận hành cùng các hiện tượng thiên nhiên. Khiếp sợ
do sự đe dọa của sức mạnh thiên nhiên, nhân loại bắt đầu tìm cách đối phó. Sự
tìm kiếm trên nhanh chóng thúc đẩy con người quan tâm đến thiên nhiên ở chung
quanh mình và khao khát tìm cách đối phó. Ðây là điểm trên rất quan trọng, vì
là nguồn gốc chung cho cả tôn giáo lẫn khoa học. Tôn giáo phát sanh từ cái ham
muốn thoát khỏi nguy hiểm, trong khi khoa học, như chúng ta đã nói ở trên, khoa
học phát sanh từ lòng ham muốn muốn biết sự thật của thiên nhiên.
Trong
trường hợp tôn giáo, lòng ham muốn được an toàn là động cơ chính.Sụ đe dọa tồn
tại trong thiên nhiên nên nhân loại hướng về với thiên nhiên để có câu trả lời
thiết thực . Ðồng thời, cảm giác kinh ngạc về những kỳ diệu của thiên nhiên làm
nẩy sinh lòng ham muốn biết sự thật của thiên nhiên. Không phải là do tò mò vu
vơ mà con người bắt buộc phải tìm hiểu thiên nhiên, cốt để xử trí các nguy cơ
do thiên nhiên đe dọa.
Từ cái
khao khát muốn thoát khỏi nguy hiểm, tạo ra do sợ hãi, nẩy sinh lòng ham muốn
biết sự thật của thiên nhiên. Tới điểm này, chúng ta có thể thấy nguồn gốc
chung của khoa học và tôn giáo: tôn giáo nẩy sinh trước, vì sợ nguy hiểm, trong
khi lòng ham muốn biết sự thật thiên nhiên khoa học nẩy sinh tiếp theo sau.
Ðến
chừng mực mà chúng ta biết, những hình thức nghiên cứu khoa học sớm nhất thật
ra nẩy sanh từ tôn giáo. Những nhà nghiên cứu kiến thức khoa học tại Ai Cập,
Mesopotamia, và các văn hóa cổ khác đều từ giới tôn giáo. Họ là những người đầu
tiên quan tâm đến việc nghiên cứu thiên nhiên, tận tụy tìm các giải pháp chống
lại các nguy hiểm đe dọa họ. Việc trên đây cho thấy khoa học và tôn giáo đều
cùng một nguồn gốc.
Nguồn
gốc chung ban đầu của khoa học và tôn giáo cũng chính là điều tách riêng. Tại
sao chúng tách riêng? Câu trả lời nằm trong tính chất của chính chân lý.
Sự đe
dọa của thiên nhiên là mối lo lắng cấp bách, một vấn đề sống chết của nhân
loại. Sự đe dọa là trực tiếp và ngay trước mắt. Dù muốn làm gì, cũng phải có
giải pháp đối với thiên nhiên đã. Mọi người đều phải đối đầu như nhau trước
những nguy hiểm giống nhau. Giải pháp phải thích hợp cho một nhóm người và cho
toàn thể xã hội. Với tình trạng đó, sự cần thiết phải có là một giải pháp để
đối phó kịp thời, giải quyết được những yêu cầu cấp bách ấy. Khi một giải pháp
xuất hiện và có thể chấp nhận được thì nó cấu thành tôn giáo.
Những
biện pháp trên có nhiều hình thức, thí dụ những nghi lễ thần bí mà theo quan
niệm hiện đại, chúng có vẻ kỳ khôi, nhưng dù có đúng như vậy thì chúng cũng vẫn
là những biện pháp được áp dụng tức thời trước đòi hỏi. Theo xu hướng của xã hội,
hành động trên trở thành tôn giáo.
Sau đó
khi sự đe dọa cấp bách đã qua đi, một nhóm khác có lẽ nảy sanh từ nhóm thứ nhất
thâu thập các dữ kiện, phân tách và thử nghiệm. Nhóm này đi đến nhiều giải đáp
khác nhau, do sự quan sát có hệ thống từng bước một. Ðó là diễn tiến hình thành
'khoa học', kiến thức thâu lượm do phương pháp phân loại của sự quan sát từng
bước một.
Ðây là
điểm phân rẽ giữa khoa học và tôn giáo. Câu giải đáp để giải quyết nhu cầu cấp
thời cho quần chúng, thiếu phương pháp phân loại quan sát, phụ thuộc nhiều vào
niềm tin và đức tin. Ðó là tôn giáo. Tôn giáo, do vậy, gắn chặt với niềm tin.
Mặt
khác, khoa học là kỷ luật nghiên cứu có hệ thống từng bước một. Nó không đòi
hỏi tìm ngay một giải đáp kịp thời, và chỉ ứng dụng cho một nhóm người thích
như thế chứ không phải cho toàn thể xã hội. Vì lý do trên, có những cá nhân hay
nhóm nguời tiến hành thu thập thông tin, quan sát có hệ thống, sử dụng các
phương pháp có kiểm chứng, công việc này trở thành 'khoa học'.
Ðến đây,
chúng ta có sự phân biệt rõ ràng giữa tôn giáo và khoa học: tôn giáo dành cho
toàn thể xã hội hoặc tất cả các nhóm người, trong khi khoa học chỉ ứng dụng
giới hạn cho một số người. Bây giờ vấn đề nêu lên là tôn giáo làm sao duy trì
tính đồng dạng trong ngữ nghĩa giáo lý và sự thực hành giáo lý? Việc này chỉ
hoàn tất được qua niềm tin. Gốc rễ của tôn giáo là niềm tin, sử dụng niềm tin
để bảo tồn cái tinh túy thực chất của mình, cung cấp một hệ thống đức tin vững
vàng, một hệ thống được tôn trọng và ủng hộ, một hệ thống không được nghi ngờ
thắc mắc. Ở Phương Tây, điều này được gọi là giáo điều.
Khoa học
chỉ giới hạn cho một số người mà nó truyền tới, những tư tưởng gia. Họ bảo tồn
cái thực chất của khoa học qua sự thực được kiểm chứng, sử dụng các phương pháp
thí nghiệm có cơ sở vững chắc và truyền bá sự thực qua sự thông thái, hay nói
cho đúng hơn, phương pháp khoa học.
Tôn giáo
truyền đạt chân lý tuyệt đối, bao quát, một giải đáp cần cho nhu cầu cấp thời.
Nói cho đúng hơn không phải tôn giáo cung cấp câu giải đáp mà là câu giải đáp cung
cấp cái trở thành tôn giáo. Không phải là có một thể chế gọi là tôn giáo đã
hiện hữu trước đó tìm ra mhững giải đáp trên, đúng hơn là những giải đáp đó
được đề xướng bởi nhân loại, đã trở thành cơ cấu tôn giáo. Câu giải đáp được đề
nghị bởi nhiều người, hay một người, và thời gian cứ qua đi, những người này
được người khác theo, và cơ cấu thành hình, phục vụ việc bảo tồn giáo lý. Như
vậy chúng ta có hình thức tôn giáo như khất sĩ, thầy tu, nhà sư, vân vân...
Nhìn vào
ở một khía cạnh, tôn giáo tìm cách cung cấp câu giải đáp tuyệt đối, câu giải
đáp cho câu hỏi căn bản về đời sống, bao gồm mọi thứ, từ cái cao nhất đến thấp
nhất.
Mặt
khác, khoa học, tìm cách quan sát sự thực từ sự bày tỏ riêng rẽ, từng mảnh một.
Do sự thâu thập từng mảnh một, từng phần của sự thực, dần dà tiến đến một bức
tranh toàn bộ.
Mặc dù,
khoa học, cũng vậy, muốn có một nguyên lý tổng quát, nhưng nguyên lý tổng quát
lại có điều kiện, bị hạn chế trước những tình trạng đặc biệt cùng các điều
kiện, chỉ là một phần của toàn bộ hay sự thực cơ bản. Chúng ta có thể nói tôn
giáo cho câu trả lời toàn vẹn, khoa học chỉ cho mảnh một.
Tại điểm
này, chúng tôi xin nói thêm rằng do các giới hạn của tôn giáo và khoa học, nảy
sanh nhóm thứ ba; nhóm này bất mãn với cả hai. Nhóm này muốn có câu giải đáp cho
những vấn đề căn bản về đời sống và vũ trụ, câu trả lời tuyệt đối đúng, họ bất
mãn với tôn giáo vì câu trả lời không nêu ra lý lẽ mà lại nói về niềm tin. Khi
họ quay sang nhìn về khoa học, mặc dầu câu trả lời có thể kiểm chứng và dựa
theo lẽ phải, nhưng câu trả lời cũng không thật tuyệt đối đúng. Sự nghiên cứu
chưa đạt được mức độ cơ bản của sự thật.
Nhóm này
không muốn chờ đợi câu giải đáp của khoa học, họ tìm kiếm giải đáp cho những
câu hỏi cơ bản qua lập luận suy xét không cần đến sự xác minh kiểm chứng. Hệ
thống tư tưởng này trở thành một loại khoa học khác, được gọi là 'Triết Lý'.
Chúng ta
có thể so sánh ba môn này với những câu hỏi cơ bản về tự nhiên làm thước đo như
sau:
1. Khoa
Học: Ðang còn trong tiến trình xác minh, và quan sát vẫn còn đi tìm câu
giải đáp.
2. Triết Lý: Thay vì phải xác minh kiểm chứng, dùng công cụ phân
tích hợp lý để cho câu giải đáp.
3. Tôn Giáo: Cung cấp một câu giải đáp hoàn toàn mà
không cần đến sự xác minh.
Cả hai
khoa học và triết lý đều xuất hiện sau tôn giáo, đều cố gắng cho các câu giải
đáp rõ ràng hơn tôn giáo. Tuy nhiên, cả hai thất bại trong sự giải đáp để thỏa
mãn những mong muốn trên toàn bộ căn bản, đó là lý do tại sao tôn giáo vẫn hiện
hữu tuy chỉ cho câu giải đáp căn cứ trên niềm tin.
Sau khi
đã xét những khác biệt giữa tôn giáo và khoa học, tôi muốn đưa ra một vài nhận
định về sự khác biệt này.
Vì lẽ
tôn giáo đưa ngay ra sự thật bao quát và trực tiếp, câu giải đáp thích hợp cho
đại chúng, nhưng đồng thời chưa được xác minh qua một trong năm giác quan, nên
phải dựa vào niềm tin. Vì câu giải đáp chưa được kiểm chứng nên càng ngày càng
nẩy nở. Vào một thời điểm, một câu giải đáp được đưa ra, người ta không biết
câu đó đúng hay sai, vì không thể xác minh được. nếu tin tưởng thì chấp nhận. Một
thời gian sau, một câu giải đáp mới lại được đưa ra, không một ai có thể biết
là câu này có đúng không vì không được xác minh kiểm chứng. Vấn đề tùy thuộc
vào sự chọn lựa của cá nhân, chung qui là sở thích. Một số người giữ niềm tin
cổ xưa, số khác theo niềm tin mới. Tôn giáo, xây dựng trên niềm tin, thay đổi
tùy theo niềm tin đó. Vì lẽ này, chúng ta thấy có nhiều tôn giáo khác nhau
trong bất cứ thời đại nào.
Tại sao
như thế? Ðó là bản chất của các câu giải đáp. Sự giải đáp toàn bộ, tuyệt đối
phải như vậy. Nó không thể xác minh được vì dựa theo niềm tin. Khi có câu giải
đáp mới, một số người tin, nhưng tất cả những giải đáp đều không kiểm chứng
được.
Mặt
khác, khoa học giải đáp chậm rãi nhưng có phương pháp, kiểm điểm từng bước một
trong tiến trình. Khoa học giải quyết vấn đề bằng trí thức. Bất cứ thời đại nào
cũng chỉ có một khoa học. Cho nên chúng ta thường nói: 'Có nhiều tôn giáo,
nhưng chỉ một khoa học'.
Tuy
nhiên, nhìn từ góc độ lịch sử, chúng ta thấy có nhiều khoa học, vì khoa học
không đưa ra một quan điểm toàn thể về chân lý. Có nhiều tôn giáo, nhưng từ góc
độ lịch sử cũng có nhiều khoa học. Lý thuyết về bản chất vũ trụ thay đổi theo
thời gian. Câu giải đáp của khoa học mới đầu được cho là đúng lại hóa ra sai.
Với dòng thời gian, lúc tiên khởi sự kiện đúng thật đã thay đổi. Một bức tranh
mới lại được mở ra.
Ở một
điểm thời gian, khoa học theo Hệ Thống Ptolemaic, cho rằng địa cầu là trung tâm
vũ trụ. Rồi đến Hệ Thống Copernician, lấy mặt trời làm trung tâm, theo kiểu Hệ
Thống Copernicius, đến Hệ thống Cartesian và Newtonian, và bây giờ chúng ta có
vũ trụ của vật lý mới. Bức tranh khoa học không ngừng thay đổi. Thiên nhiên hay
Vũ Trụ, theo lý thuyết vật lý hiện đại, dù là thuyết Lượng Tử hay thuyết tương
đối thì cũng hoàn toàn khác hẳn với thời Newton về vũ trụ. Ta đã có nhiều khoa
học qua nhiều thời đại.
Hơn thế
nữa, không chỉ có nhiều khoa học qua các thời đại mà dường như là hiện nay
chúng ta còn có nhiều khoa học cũng tồn tại. Ðến nỗi một số khoa học gia tuyên
bố đã đến lúc khoa học phải thay đổi một số tiền đề căn bản. Những khoa học gia
này bác bỏ một số tiền đề khoa học cổ để nói về ' tân vật lý ' và 'tân khoa
học' . Ðiều này cho thấy không phải chỉ có một khoa học mà thôi.
Tôi mới
nói đến quan hệ của khoa học với thế giới bên ngoài qua năm giác quan. Trong
việc này, tôn giáo còn có một đặc tính khác. Tôn giáo không những chỉ nhìn vào
thế giới bên ngoài, mà tự nó đã quan tâm đến con người, đến những đối tượng.
Khoa học chỉ quan tâm tới những mục tiêu quan sát, còn tôn giáo tự nó cũng quan
tâm đến người quan sát, đến người sử dụng năm giác quan căn bản. Dầu vậy tôn
giáo không chỉ hạn chế ở năm giác quan, mà còn trực tiếp liên quan đến trình độ
mở mang của mỗi cá nhân. Tôn giáo nhận thức trực tiếp đến mức độ phát triển
tinh thần của người nhận thức, nên có phần phức tạp hơn.
Bất luận
thế nào, với đà tiến triển ngày nay, tôn giáo vẫn đặt trọng tâm vào chúng sanh,
quan tâm đến trở ngại của chúng sanh, và khó khăn ấy cần phải được giải quyết.
Khi tìm hiểu các nguyên nhân và yếu tố gây ra khó khăn ấy, đa số tôn giáo
chuyển hướng tìm căn nguyên, giống như khoa học tìm căn nguyên ở thế giới vật
chất bên ngoài. Trong phạm vi ấy, đa số tôn giáo không khác biệt gì khoa học:
nhìn vào thế giới thiên nhiên bên ngoài như là nguồn gốc của khó khăn, của khổ
đau. Sự tìm kiếm chân lý của tôn giáo là để giải quyết khó khăn cho nhân loại,
trong khi sự tìm kiếm chân lý của khoa học chỉ là thỏa mãn sự khao khát của
kiến thức.
Hầu như
các tôn giáo đều thấy nguyên nhân khó khăn, dù từ bên trong hay bên ngoài, đang
náu mình trong thế giới thiên nhiên, trong các dạng thức như thần linh, thánh
thần, thượng đế hoặc các lực lượng siêu nhiên khác. Với những tai ương bên
ngoài như sấm sét, động đất vân vân..., việc cầu nguyện và cúng tế cho các lực
lượng ấy. Với những rối loạn bên trong, như đau yếu, bệnh thần kinh, cuồng
loạn, các ông đồng bà cốt hoặc thầy phù thủy trừ tà thường thi triển các lễ
nghi huyền bí. Khoa học không bắt buộc tìm ngay câu giải đáp cứ từ từ lo liệu
việc nghiên cứu các dữ kiện một cách có hệ thống.
Những
tôn giáo nhân sinh, đặc biệt Phật Giáo, mặc dù chú trọng đến điều kiện con
người, nhưng coi nguồn gốc khó khăn không hoàn toàn nằm trong thế giới bên
ngoài. Loại tôn giáo này tìm nguồn gốc khó khăn trong toàn bộ tiến trình nguyên
nhân - điều kiện gồm cả những cái đó trong con người, thí dụ cách kiếm sống sai
- dù chúng ở bên trong hay bên ngoài, hữu hình hay vô hình, vật chất hay tinh
thần.
Trong số
các tôn giáo thông thường nhiều tôn giáo dạy cách đối trị khó khăn bằng những
phương tiện thích hợp, thông qua luân lý hay đạo đức. Ðiều đó dường như biểu
thị quan niệm về những yếu tố bên ngoài góp phần gây nên khó khăn, nhưng cững
không nhất thiết trường hợp nào cũng như vậy. Thực ra, kiểu thực hành niềm tin
như thế thường không được tiến hành bằng sự hiểu biết thực sự những yếu tố đó,
mà là vì sự phục tùng một thế lực siêu nhiên bên ngoài nào đó. Ðây là mối quan
hệ giữa nhân loại và sức mạnh bên ngoài. Lối cư xử đạo đức trong các tôn giáo
ấy thuờng được áp dụng để tránh hình phạt, được ưu đãi hay phúc lợi, hơn là tỉnh
thức trước các nhân tố xẩy ra trong tiến trình tự nhiên.
Nhiều
tôn giáo thay đổi theo thời gian để đáp ứng nhu cầu của mọi tầng lớp dân chúng.
Vào bất cứ lúc nào, xã hội đều gồm có nhiều mức độ phẩm hạnh và hiểu biết khác
nhau, và tôn giáo cần đáp úng các mức độ nhu cầu khác nhau ấy.
Trong
quá khứ, chân lý khoa học được xác minh do năm giác quan, nhưng nay đã khác.
Trước đây quan sát được thực hiện bằng năm giác quan - v?i mắt thường, tai
thường, trực tiếp bằng tay vân vân... Nhưng theo tiến trình của thời gian,sự
cần thiết là phát triển các dụng cụ, như viễn vọng kính, kính hiển vi, để mở
rộng khả năng của giác quan. Các dụng cụ đó ngày một được sáng chế tinh vi hơn,
cho đến nay có thể thí nghiệm các giả thiết bằng toán học. Ngôn ngữ toán học
trở thành các dụng cụ chính xác để kiểm chứng. Kết quả của việc phát triển rộng
lớn này đưa đến sử dụng máy vi tính.
Sự phát
triển khoa học làm tăng truởng các phương tiện để xác minh kiểm chứng nảy sanh
nét đặc biệt khác hẳn với tôn giáo. Sự xác minh và quan sát của khoa học trở
thành lãnh vực chuyên môn dành riêng cho một thiểu số được chọn lựa. Một người
bình thường không thể nhìn thấy sự thực của khoa học, vì không có dụng cụ cần
thiết. Khoa học trở thành môn học rất chọn lọc.
Tôn giáo
thuộc về đại chúng. Tôn giáo thích hợp cho người bình thường, có thể hoàn toàn
tự do chấp nhận hay chối bỏ tôn giáo mà không cần chứng cớ. Thật ra trong một
số tôn giáo cũng có điều giống như khoa học, dành riêng chân lý của họ cho một
ít người chọn lựa, các thầy tu hay các nhà sư thậm chí dành quyền đạt các quả
vị tinh thần hơn là để lôi kéo các cá nhân. Trong các tôn giáo nhân sinh như
Phật Giáo, không có sự phân biệt hay miễn trừ cho cá nhân nào vì thiên nhiên
chính là chủ tể của nó. Làm sao có thể độc quyền được? Mỗi cá nhân đều có quyền
hiểu và đạt sự thực của thiên nhiên, do trí thông minh cùng sự sáng suốt.
Chúng ta
hãy ghi nhận hai loại bất lực để kiểm chứng chân lý. Một là không có dụng cụ
kiểm chứng, và hai là chân lý không thể xác minh bằng các phương tiện đang được
sử dụng. Ngày nay, khoa học gặp khó khăn về cả hai truờng hợp, đặc biệt là khi
muốn đưa ra lời tuyên bố về chân lý tối hậu, hay nghiên cứu sâu vào địa hạt
tâm.
Nếu khoa
học không mở rộng tầm nhãn quan, khoa học sẽ đi đến đường cùng không lối thoát.
Khoa học có hoài bão khao khát giải đáp những câu hỏi cơ bản và chủ yếu về vũ
trụ, nhưng chưa bao giờ đi đến kết quả. Giống như khi gần đến bên lề câu giải
đáp, thì chân lý hình như lại tuột khỏi tầm tay.
[còn tiếp]
Kinh tụng
Kinh Châu
Báu
Ratanasutta
Yānīdha
bhūtāni samāgatāni
Bhummāni vā yāniva antalikkhe
Sabbe va bhūtā sumanā bhavantu
Athopi sakkacca suṇantu bhāsitaṃ
Tasmā hi bhūtāni sāmetha sabbe
Mettaṃ karotha mānusiyā pajāya
Divā ca ratto ca haranti ye baliṃ
Tasmā hi ne rakkhatha appamattā
Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Mong khởi lòng hoan hỷ
Thành kính nghe lời nầy
Rồi với tâm bi mẫn
Năng hộ trì nhơn loại
Vốn đêm ngày hồi hướng
Phước lành đến chư thiên
Yaṅkiñci vittaṃ idha vā huraṃ vā
Saggesu vā yaṃ ratanaṃ paṇītaṃ
Na no samaṃ atthi tathāgatena
Idampi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
Etena saccena suvatthi hotu.
Những vật quí trong đời
Chốn nầy hay nơi khác
Cả châu báu cõi trời
Không gì sánh bằng được
Với Như Lai Thiện Thệ
Do vậy chính đức Phật
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Khayaṃ virāgaṃ amataṃ paṇītaṃ
yadajjhagā sakyamunī samāhito
Na tena dhammena samatthi kiñci
idaṃ pi dhamme ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Pháp bất tử tối thượng
Ly dục diệt phiền não
Phật Thích Ca Mâu Ni
Chứng pháp ấy trong thiền
Không gì sánh bằng được
Pháp thiền vi diệu ấy
Do vậy chính Chánh Pháp
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Yaṃ
buddhaseṭṭho parivaṇṇayī suciṃ
samādhimānantarikaññamāhu
samādhinā tena samo na vijjati
idaṃ pi dhamme ratanaṃ paṇītam
etena saccena suvatthi hotu
Con đường thanh lọc tâm
Là tu tập thiền định
Chứng hiện tại lạc trú
Ðức Phật hằng ngợi khen
Không gì so sánh được
Do vậy chính Chánh Pháp
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Ye puggalā
aṭṭhasataṃ pasaṭṭhā
cattāri etāni yugāni honti
te dakkhiṇeyyā sugatassa sāvakā
etesu dinnāni mahapphalāni
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Thánh tám vị bốn đôi
Là những bậc ứng cúng
Ðệ tử đấng Thiện Thệ
Ðược trí giả tán thán
Cúng dường đến các ngài
Hưởng vô lượng công đức
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Ye
suppayuttā manasā daḷhena
nikkāmino gotamasāsanamhi
te pattipattā amataṃ vigayha
laddhā mudhā nibbutiṃ bhuñjamānā
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Bậc tu hành thiểu dục
Với ý chí kiên trì
Khéo chơn chánh phụng hành
Lời dạy đức Ðiều Ngự
Chứng đạt quả giải thoát
Thể nhập đạo bất tử
Lạc trú quả tịch tịnh
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Yathindakhīlo
paṭhaviṃ sito siyā
catubbhi vātebhi asampakampiyo
tathūpamaṃ suppurisaṃ vadāmi
yo ariyasaccāni aveccapassati
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Ví như cột trụ đá
Khéo chôn chặt xuống đất
Dầu bốn hướng cuồng phong
Cũng không thể lay động
Ta nói bậc chân nhân
Liễu ngộ tứ thánh đế
Cũng tự tại bất động
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Ye ariyasaccāni
vibhāvayanti
gambhīrapaññena sudesitāni
kiñcāpi te honti bhusappamattā
na te bhavaṃ aṭṭhamamādiyanti
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Bậc thánh tu đà huờn
Chứng tri lý thánh đế
Ðược đức Gô Ta Ma
Khéo thuyết giảng tường tận
Các ngài dù phóng dật
Thì cũng không bao giờ
Tái sanh kiếp thứ tám
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Sahāvassa
dassanasampadāya
tayassu dhammā jahitā bhavanti
sakkāyadiṭṭhi vicikicchitañca
sīlabbataṃ vāpi yadatthi kiñci
catūhapāyehi ca vippamutto
cha cābhiṭṭhānāni abhabbo kātuṃ
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Nhờ chứng đạt chánh trí
Ðọan trừ ba kiết sử
Thân kiến và hoài nghi
Luôn cả giới cấm thủ
Thoát khỏi bốn đọa xứ
Bậc nhập lưu không tạo
Sáu bất thiện trọng nghiệp
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Kiñcāpi so
kammaṃ karoti
pāpakaṃ kāyena vācāyuda cetasā vā
abhabbo so tassa paṭicchadāya
abhabbatā diṭṭhapadassa vuttā
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇtītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Bậc thánh tu đà huờn
Dù vô tâm phạm lỗi
Bằng thân lời hay ý
Cũng không hề che dấu
Ðược xứng danh hiền thánh
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Vanappagumbe
yathā phussitagge
gimhānamāse paṭhamasmiṃ gimhe
tathūpamaṃ dhammavaraṃ adesayi
nibbānagāmiṃ paramaṃ hitāya
idaṃ pi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Ðức Thế Tôn thuyết giảng
Pháp đưa đến niết bàn
Tịnh lạc và thù thắng
Lợi ích chúng hữu tình
Ví như mưa đầu hạ
Khiến ngàn cây đâm chồi
Do vậy chính đức Phật
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Varo
varaññū varado varāharo
anuttaro dhammavaraṃ adesayi
Idaṃ pi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Ðức Phật bậc vô thượng
Liễu thông pháp vô thượng
Ban bố pháp vô thượng
Chuyển đạt pháp vô thượng
Tuyên thuyết pháp vô thượng
Do vậy chính đức Phật
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Khīṇaṃ
purāṇaṃ navaṃ natthisambhavaṃ
virattacittāyatike bhavasmiṃ
te khīṇabījā aviruḷhichandā
nibbanti dhīrā yathāyampadīpo
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ panītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Nhân quá khứ đã đoạn
Mầm tương lai không gieo
Với tâm không ái chấp
Trong sanh hữu đời sau
Bởi tham muốn đã đọan
Các chủng tử không còn
Ví như ngọn đèn tắt
Bậc trí chứng niết bàn
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
[phân đoạn 14, 15, 16]
Yānīdha
bhūtāni samāgatāni
bhummāni vā yāniva antalikkhe
tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ
buddhaṃ namassāma suvatthi hotu
Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Hãy chí thành đảnh lễ
Ðức Phật bậc như lai
Ðược chư thiên nhân loại
Ðảnh lễ và cúng dường
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Yānīdha bhūtāni samāgatāni
bhummāni vā yāniva antalikhe
tathāgataṃ devamanussapùjitaṃ
dhammaṃ namassāma suvatthi hotu
Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Hãy chí thành đảnh lễ
Chánh Pháp đạo như chân
Ðược chư thiên nhân loại
Ðảnh lễ và cúng dường
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Yanītha bhūtāni samāgatāni
bhummāni vā yāniva antalikkhe
tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ
saṅghaṃ namassāma suvatthi hotu
Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Hãy chí thành đảnh lễ
Tăng Chúng bậc như đức
Ðược chư thiên nhân loại
Ðảnh lễ và cúng dường
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
No comments:
Post a Comment