TU TẬP THỜI ĐẠI DỊCH
[Pháp thoại - 16.4.2020]
PHẬT GIÁO VÀ KHOA HỌC
Trích từ “Phật Giáo, nền tảng của khoa học”
Trích từ “Phật Giáo, nền tảng của khoa học”
Hòa thượng Prayudh Payutto
Tỳ kheo Thích Tâm Quang dịch
III. KHOA HỌC VÀ TÔN GIÁO: CUỘC GẶP GỠ HAY PHÂN LY?
4. Tuyên bố độc lập của nhân loại:
Phật
Giáo nảy sinh ra trong niềm tin vào Phạm Thiên hiện hữu. Niềm tin này cho rằng
Phạm Thiên là người sáng tạo ra thế giới. Phạm Thiên (Thượng Ðế) là người tạo mọi
sự việc, và nhân loại phải làm lễ hiến tế, lễ cầu nguyện do người ta nghĩ ra để
làm vừa lòng Phạm Thiên (Thuợng Ðế). Họ rất hậu hĩ trong các cuộc lễ để được
thiện cảm của Phạm thiên (Thượng Ðế) hầu được ban thưởng. Phạm Thiên Vệ Ðà nói
rằng Ðại Phạm Thiên phân chia nhân loại thành bốn đẳng cấp. Nếu sanh ra trong đẳng
cấp nào thì người đó phải mang đẳng cấp đó suốt đời. Không có cách nào để có thể
biến đổi tình trạng này, vì đó là những chỉ thị của Phạm Thiên (Thượng Ðế).
Khi
Thái Tử Tất Ðạt Ða, Bồ Tát tức Ðức Phật tương lai, đản sanh, điều trước nhất
người ta quy cho Ngài về lời tuyên bố về sự độc lập của nhân loại. Quý bạn thấy
trong tiểu sử của Ðức Phật, khi Ngài thị hiện Ngài đi tượng trưng bẩy bước trên
hoa sen và tuyên bố: "Ta là người vĩ đại nhất trong thiên hạ, Ta là người
cao cả nhất trong thiên hạ, Ta là người cao quý nhất trong thiên hạ",
Thiên thượng, thiên hạ, duy ngã độc tôn. (Ta nơi đây có nghĩa là con người độc
lập chứ không phải cái Ngã sở hữu)
Câu
tuyên bố trên đây rất dễ bị hiểu lầm. Người ta có thể hỏi: "Tại sao Thái Tử
Tất Ðạt Ða lại cao ngạo đến như thế?" Câu này phải được hiểu là Ðức Phật
tuyên bố sự độc lập của con người. Trong suốt cuộc đời của Ngài Ngài đã dẫn giải
những nguyên tắc, tất cả đều nhằm vào tiềm năng của con người để mở mang tâm
thiện tối thượng. Ngư?i phát triển toàn bích là người đẹp nhất trên thế gian
này. Ðức Phật là đài gương của chúng ta, và Ngài là đại biểu của chúng ta trong
sự kiện này. Việc đạt Phật Quả của Ngài chứng minh tiềm năng của con người. Với
tiềm năng ấy con người không cần đến sự giúp đỡ từ các thế lực bên ngoài. Thay
vì cầu cạnh, ỷ lại, con người tin vào chính mình để trở thành Phật, cho nên
ngay cả các thần thánh cũng phải tôn kính.
Có
nhiều thí dụ trong giáo lý Phật Giáo. Thí dụ như câu sau đây:
Manussabhũtam
sambuddham attadantam samãhitam devã'pi
namassan'ti
Câu
trên có nghĩa: "Là một chúng sinh như mọi người Ðức Phật đã tự mình tu tập,
trở nên toàn bích... Cả đến các thánh thần cũng tôn kính Ngài."
Với
nguyên tắc trên, vị thế của con người thay đổi. Thái độ ỷ lại bên ngoài, nương
tựa nơi thượng đế, thánh thần, đã bị dứt khóat chối bỏ, con người được dạy hãy
quay về và nhìn vào chính mình, nhìn vào khả năng của chính mình để phát triển
hầu đi đến thành tựu tốt đẹp nhất. Chẳng cần phải đem số phận mình nương nhờ
vào thánh thần hay thượng đế. Nếu nhận thức được tiềm năng của mình, ngay cả
các thánh thần cũng phải công nhận sự ưu tú và cũng phải tôn kính mình.
Nguyên
tắc ấy đưa đến sự tin tưởng hay niềm tin nơi tiềm năng con người có thể phát
triển đến mức tối đa. Ðức Phật là tấm gương mẫu mực của một con người phát triển
toàn bích.
5. Nguyên tắc nượng tựa được căn cứ vào việc thực
hành và hành động hợp lý hơn là tùy thuộc vào thế lực bên ngoài.
Nguyên
tắc đó được làm sáng tỏ trong Kinh Pháp Cú. Bài kệ bắt đầu với câu "Bahum
ve saranam tanti.." " Nhân loại, bị đe dọa bởi nguy cơ.." Ðiều
này nói lên con người trước thời Phật tồn tại như thế nào, chẳng khác gì sự nảy
sanh các tôn giáo như đã nói trước đây. Bài kệ tiếp...
Con
người, thấy mình bị đe dọa bởi nguy cơ, tìm nơi nương tựa ở thánh thần, miếu mạo,
và cây thiêng. Nhưng những thứ trên không phải thục sự là nơi nương tựa. Nương
tựa với những thứ ấy, không đem lại an ninh.
Những
ai tìm nơi nương tựa ở Ðức Phật, Pháp và Tăng, hiểu biết Tứ Diệu Ðế, hiểu các
khó khăn và các nguyên nhân gây khó khăn, tự tại trước khó khăn, và áp dụng
phương sách dẫn đến giải thoát khỏi khó khăn mới có thể vượt qua hiểm nguy.
Ðó
là bước ngoặt, không đặt tầm quan trọng vào việc cầu xin thần thánh mà đặt nó
vào các hành động có trách nhiệm. Ngay cả một s? Phật Tử, không ý thức nguyên tắc
này, nhầm lẫn sùng kính Tam Bảo như điều gì thần thánh giống như các tôn giáo
khác.
Tam
Bảo bắt đầu với Ðức Phật, một tấm gương mẫu mực về con người toàn hảo. Ðiều này
nhắc nhở cho chúng ta về tiềm năng của con người,cũng như khuyến khích chúng ta
suy nghĩ sâu xa về trách nhiệm của mình trong việc phát triển tiềm năng đó.
Nương tựa nơi Ðức Phật là để chúng ta đừng quên và phải nhớ tới Ngài như tấm
gương sáng soi đường. Ngay khi nghĩ đến Tam Bảo và Ðức Phật, chúng ta phản ảnh
về trách nhiệm dùng trí tuệ để giải quyết những khó khăn của đời sống và mở
mang tâm ý cho chính mình.
Khi
nghĩ về Pháp, chúng ta nghĩ về việc phát triển tiềm năng phải được thực thi bằng
những phương tiện phù hợp với Qui Luật Tự Nhiên, hành hoạt theo nhân duyên.
Khi
nghĩ đến Tăng (Già), chúng ta nghĩ đến những người đã sử dụng Giáo Pháp thành
thạo, phát triển và nhận thức thực sự tiềm năng của mình. Các vị này sống cuộc
đời gương mẫu, đạt chân lý, nhắc nhở, giúp chúng ta tu tập đúng cách hầu bảo đảm
tư cách của mình.
Trên
đây là Ba Nơi Nương Tựa. Khi tin tưởng và có niềm tin vào ba nơi nương tựa ấy,
chúng ta phải cố gắng giải quyết mọi vấn đề như những người khôn ngoan sáng suốt.
Giáo lý ấy bắt chúng ta dùng trí tuệ.
¨ Phương cách giải quyết khó khăn nhờ trí
tuệ là:
1) Khổ:
Chúng ta bắt đầu với sự công nhận là có khổ
2) Tập: (Nguyên Nhân của Khổ - tham ái vì vô
minh): Chúng ta tìm nguyên nhân của vấn đề đó.
3) Diệt:
Chúng ta nhắm vào mục tiêu (Niết Bàn) diệt khổ
4) Ðạo:
(Con đường chấm dứt Khổ - Niết Bàn): Chúng ta tu tập theo mục tiêu ấy (x).
Ðó
là nguyên tắc giải quyết khó khăn nhờ trí tuệ và nỗ lực của con người.
(x) Chúng là Tứ Diệu Ðế, trọng tâm của Phật
Giáo cô đọng tất cả lời dạy của Ðức Phật. Nói một cách đơn giản chúng là:
1. Nguyên
tắc chịu khổ đau
2. Ðịnh
luật về nguyên nhân của khổ đau
3. Ðịnh
luật về chấm dứt khổ đau
4. Kế hoạch
hay con đường dẫn đến chấm dứt khổ đau.
5.
Chỉ dạy chân lý có lợi
ích.
Có
nhiều loại chân lý khác nhau, nhưng một số không hữu ích, không liên quan tới
việc giải quyết các khó khăn của đời sống. Ðức Phật không dạy chân lý như thế
và cũng không nghiên cứu các chân lý vô bổ này. Ngài tập trung vào những chân
lý đem lợi ích thực tiễn. Nguyên tắc trên đây được minh họa trong việc so sánh
các lá cây trong lúc Ngài ở trong rừng Sĩsapã.
Vào
lúc đó Ngài đang quây quần với các thầy tu. Một ngày nọ, Ngài cầm một nắm lá
cây trong tay và hỏi các thầy: "Này các thầy, lá trong tay Như Lai nhiều
hay lá trên các cây kia nhiều?" Câu hỏi quá dễ dàng, các thầy liền trả lời.
Lá trong tay Như Lai ít và lá trên cây nhiều".
Ðức
Phật liền nới: "Cũng giống vậy đó về những gì mà ta dạy cho các thầy. Có rất
nhiều chân lý mà ta biết, những chân lý này cũng nhiều như lá cây trong rừng mà
ta không dạy cho các thầy. Ta chỉ dạy chân lý cho các thầy giống như số lá cầm
trong tay mà thôi. Tại sao ta không dạy cho các thầy những chân lý nhiều như lá
cây trong rừng? Vì chúng không đưa đến trí tuệ tối thượng, đến sự hiểu biết thực
tướng của sự vật, hay chỉnh đốn được vấn đề cho đứng đắn và thoát khỏi khổ đau.
Chúng không dẫn đến việc đạt được mục tiêu, Niết Bàn."
Ngài
nói Ngài chỉ dạy những điều mà chính Ngài đã kinh nghiệm và vì những điều này rất
hữu ích dẫn đến giải quyết mọi vấn đề, đến đời sống đạo đức. Nói tóm lại những
điều này dẫn đến thoát khỏi khổ đau.
Một
so sánh quan trọng khác được Ngài nói đến vào dịp khi trả lời những câu hỏi về
triết lý cao siêu. Những câu hỏi mà khoa học đang còn vật lộn như Vũ Trụ này hữu
hạn hay không hữu hạn? Vũ trụ có từ bao giờ? Kinh điển có ghi mười xấp các câu
hỏi triết lý đã có từ thời trước Ðức Phật. Một thầy chú ý đến những câu hỏi đó
liền đem hỏi Ðức Phật. Ðức Phật đã không trả lời câu hỏi mà kể một câu chuyện
sau:
Một
người bị một mũi tên độc. Mũi tên vẫn cắm trong người hắn, và thân quyến vội vã
chạy kiếm lương y. Trong khi vị luơng y sửa soạn rút mũi tên ra thì người bị
thương nói: Hãy khoan, trước khi rút mũi tên ra,ông hãy cho tôi biết ai là người
đã bắn tôi? Người đó sống ở đâu? thuộc đẳng cấp nào? Mũi tên thuộc loại nào?
Cung hay nỏ? Mũi tên làm bằng gì? Cung làm bằng gì? Dây cung làm bằng gì? Loại
lông chim gì được gắn vào đuôi mũi tên? Nếu không được trả lời về các câu hỏi
trên tôi không để ông rút mũi tên ra."
Rõ
ràng người đó sẽ chết trước khi được nghe trả lời những câu hỏi đó. Người đó
không những không tìm được câu trả lời mong muốn mà đã chết một cách vô ích. Ðường
lối thích hợp ở đây là gì? Trước tiên là phải rút ngay mũi tên ra. Rồi nếu muốn có câu trả lời
thì sẽ tìm sau.
Cũng
như vậy, điều Ðức Phật muốn dạy là cái khổ đau của con người và phương cách để
thoát khỏi khổ đau. Những câu hỏi triết lý không thích đáng thì không cần thiết.
Dù cho Ðức Phật có trả lời thì cũng không thể kiểm chứng được. Ngài dạy những
điều phải làm ngay, đừng phí phạm thời giờ vào sự theo đuổi hão huyền và tranh
luận vô ích. Cho nên Ðức Phật không trả lời những câu hỏi như vậy, chỉ dạy những
điều mang lợi lạc thực tiễn.
Ðây
là một số đặc tính thông thuờng trong Ðạo Phật. Khi nghe thấy những điều này,
chớ nên vội vã kết luận về sự so sánh trong Phật Giáo là tương tự hoặc ngược lại
khác với khoa học. Có thể có một số điểm hình như rất tương đồng, nhưng trong
tương đồng ấy, vẫn có khác biệt.
THIỆN VÀ ÁC
Như
tôi dã trình bày, hầu hết các tôn giáo nhìn những biến chuyển trên thế giới là
do hành động của thánh thần hay lực lượng siêu nhiên. Nếu nhân loại không muốn
những bất hạnh này, mong muốn được tưởng thưởng, thì hãy để thánh thần chứng kiến
một số dạng thức sùng bái và tôn kính.
Việc
đó không chỉ áp dụng cho các biến cố thiên nhiên bên ngoài. Ngay cả đến đời sống
cá nhân cũng chịu sự kiểm soát của thánh thần. Thánh thần, Thượng Ðế là Ðấng Tạo
Hóa của Vũ Trụ, tạo tất cả hạnh phúc và khổ đau. Ðấng Tạo Hóa giám sát các hành
vi của con người để xác định xem điều đó có làm Ngài hài lòng hay không, và con
người luôn luôn phải cảnh giác đề phòng để tránh những hành động có thể làm mất
lòng Thượng Ðế.
Theo
tiêu chuẩn này, cách cư xử của nhân loại được chia thành hai loại: những hành động
làm vừa lòng thánh thần (Thượng Ðế), được thưởng gọi là "thiện"; và
những hành động không làm vừa lòng thánh thần, bị phạt gọi là "ác".
Ðôi khi những đặc tính này được coi như chỉ thị của thánh thần. Bất cứ điều gì
được chấp thuận bởi thánh thần là "thiện", bất cứ điều gì bị thánh thần
cấm đoán là "ác". Các tu sĩ, đại diện cho tôn giáo là người trung
gian báo cho nhân loại biết những hành động nào là thiện và ác theo tiêu chuẩn
đặt ra bởi thánh thần. Những tiêu chuẩn phân định thiện ác trở thành tiêu chuẩn
'đạo đức' hay 'luân lý'.
Luân
lý hay đạo đức là phần rất quan trọng của một tôn giáo. Bạn có thể nói đó là cốt
lõi của tôn giáo. Luân lý của người Tây Phương tự tiến triển như tôi đã trình
bày trên.
Khoa
học từ lúc tách khỏi tôn giáo, chỉ chú trọng đến thế giới vật chất bên ngoài và
không mảy may lưu ý đến tính cách trừu tượng của sự vật. Khoa học không quan
tâm gì đến luân lý hay đạo đức, coi như thuộc phạm vi lo lắng cho thánh thần,
không có cơ sở thực tế, và bỏ mặc chúng. Dân chúng ở các quốc gia Tây Phuơng
hay các quốc gia kỹ thuật phát triển, đều bị lôi cuốn bởi những tiến bộ của
khoa học. Hầu như, những giáo lý về thần thánh và các lực lượng siêu nhiên coi
như vô căn cứ. Cho nên họ xa rời tôn giáo. Luân lý và đạo đức giờ đây không còn
có ý nghĩa. Khi Thuợng Ðế không còn quan trọng, luân lý hay đạo đức, bộ luật của
Thượng Ðế cũng không còn quan trọng nữa. Ngày nay nhiều người ngay cả trong giới
khoa học coi đạo đức chỉ là mệnh lệnh độc đoán của một nhóm người như các thầy
tu hay các đại diện tôn giáo, thiết lập để duy trì trật tự xã hội, ngoài ra
không có thực chất tý nào cả.
Những
ngành khoa học nghiên cứu sự phát triển văn minh nhân loại, nhất là về xã hội học,
và một số ngành về nhân chủng học, thấy sự thành công của khoa học tự nhiên, cố
gắng phát triển bằng cách nghiên cứu tuơng tự, sử dụng nguyên tắc và phương
pháp như khoa học tự nhiên. Xã hội học có khuynh hướng coi giá trị đạo đức hay
luân lý không có nền móng khoa học.
Ngành
này cố tránh những đề tài đạo đức để chứng tỏ chính mình cũng là khoa học thuần
túy không có hệ thống giá trị. Ngay cả khi nghiên cứu về vấn đề đạo đức, nó
cũng coi vấn đề này là những con số có thể đo đếm được về các hành vi xã hội.
Khoa
học vật lý, khoa học xã hội, và dân chúng trong thời đại tiên tiến, thông thường
coi đạo đức chỉ là những sáng tạo thuần túy có tính cách quy ước. Nhận định này
không đủ khả năng để phân biệt đạo đức với những biểu hiện thông thường, nó còn
đi sai hướng dù cố gắng tránh những điều tin tưởng sai lầm, nhưng cuối cùng vẫn
bị lạc lối càng xa vời chân lý.
Giờ
đây xin quay lại với chủ đề Phật Giáo. Về đạo đức, cả khoa học và Phật Giáo đều
khác biệt với đại bộ phận các tôn giáo. Trong khi khoa học tự cắt đứt hẳn không
dính líu gì đến tôn giáo, không mảy may chú trọng đến đạo đức hay giá trị của đạo
đức thì Phật Giáo lại chú tâm vào việc nghiên cứu và giảng dạy vai trò của đạo
đức trong tiến trình thiên nhiên.
Trong
khi hầu hết các tôn giáo nhìn vào các biến chuyển thiên nhiên, cả bên trong lẫn
bên ngoài con người, cho rằng tất cả đều do thánh thần chỉ huy thì Phật Giáo
nhìn những biến chuyển đó là thuờng tình và cho là do tiến trình tự nhiên, bình
thường của nguyên nhân và các điều kiện. Ðối với con người và các điều kiện trừu
tượng, hay các giá trị, các qui luật này cũng được áp dụng như đối với sự vận
hành vật chất của thiên nhiên. Chúng là một phần của dòng chuyển động chứa
nguyên nhân và các điều kiện, vận hành hoàn toàn theo qui luật tự nhiên. Tình
trạng khác biệt về chất lượng được quyết định bởi sự thay đổi của các yếu tố
trong dòng chảy ấy.
Ðể dễ hiểu về những tiến trình trên, Phật
Giáo chia định luật thiên nhiên thành năm loại:
1. Utuniyãma
(luật vật lý): Ðề cập đến những biến chuyển trong thế giới tự nhiên, tức môi
trường vật chất.
2. Bijaniyãma
(luật sinh học): nói về động vật và thực vật, đặc biệt về tính di truyền.
3. Cittaniyãma
(luật tâm linh): nói về hoạt động của tâm và sự suy nghĩ.
4. Kammaniyãma
(nghiệp luật hay luật luân lý): nói về nhân cách, đặc biệt về ý định và các
hành động do ý định mà có.
5. Dhammanayãma
(luật nhân quả chung): nói về mối quan hệ và sự phụ thuộc lẫn nhau của mọi sự,
biết trạng thái - điều kiện của mọi sự.
Bằng
sự phân chia thành năm loại của định luật thiên nhiên, chúng ta thấy khoa học
tin hoàn toàn vào luật nhân quả (Dhammanayãna), nhưng bị hạn chế trong lãnh vực
luật vật lý (Utinitãma), và luật sinh học (Bijaniyama). Nói một cách thực tiễn,
Phật Giáo nhấn mạnh nghiệp luật (luật hành động đạo đức - giới luật) dù rằng có
một nhánh của Phật Giáo, Vi Diệu Pháp (x), nhấn mạnh việc nghiên cứu luật tâm
linh (Cittaniyãma) liên quan đến luật về nghiệp và nhân quả.
(x)
Vi Diệu Pháp hay Chân Lý Tối Thượng là Tạng Thứ Ba trong Tam Tạng Kinh Ðiển Phật
Giáo. Vi Diệu Pháp trích yếu Giáo Lý Phật Giáo trong một thuật ngữ thuần khiết
phân tích, vô tư.
Nghiệp Luật - Luân lý
khoa học
Không
hiểu rõ sự thực nếu không hiểu rõ luật thiên nhiên, sự tương quan phụ thuộc lẫn
nhau và tính đồng nhất của chúng. Sự hiểu biết trên gồm có yếu tố con người,
nhân tố tinh thần và các giá trị trong đó của những nguời nghiên cứu các định
luật ấy. Các khoa học gia nghiên cứu luật tự nhiên, nhưng lại không hiểu chính
mình, những người nghiên cứu định luật ấy, nên họ sẽ chẳng bao giờ có thể nhìn
thấy sự thật- ngay cả về khoa học vật lý.
Về
căn bản, con người sống trong thế giới tự nhiên trên bình diện vật chất, nhưng
bên trong thế giới vật chất này là thế giới tinh thần. Trong phạm vi của tâm
thì con người đang sống trong thế giới người, và thế giới người này có ý nghĩa
quan trọng sống còn, ảnh hưởng của thế giới người trên cuộc sống của chúng ta
còn rõ ràng hơn ảnh hưởng của môi trường tự nhiên.
Trong
đời sống hàng ngày, tư tưởng, nhân cách và hành động, sự giao tiếp và truyền thống
cùng những cơ sở xã hội của chúng ta hoàn toàn là sản phẩm từ những hành động có chủ tâm của con
người, mà Phật Giáo gọi là Nghiệp. Ý định là khả năng duy nhất khiến con người
tiến tới ngày nay. Thế giới con người chính là thế giới của ý định, đi theo chỉ
dẫn của ý định. Trong Phật Giáo có câu: Thế giới bị Nghiệp tác động. Ðể hiểu thế
giới con người, tức hoàn cảnh con người, việc hiểu Qui Luật Tự Nhiên tức Nghiệp
Luật là rất cần thiết.
Ý
định, nghiệp, nhân cách, đạo đức, đặc tính trừu tượng, giá trị, bản tính, tức
tâm con người- tất cả hoàn toàn bẩm sinh. Chúng hiện hữu theo các Qui
Luật
Tự Nhiên, không theo sự dìu dắt của thánh thần. Cũng chẳng phải ngẫu nhiên mà
chúng có. Chúng là những tiến trình tự nhiên nằm trong khả năng con người nhằm
hiểu biết và phát triển.
Xin
ghi nhận là Phật Giáo phân biệt Nghiệp Luật và Luật về tâm linh. Ðiều này cho
thấy tâm và ý không phải là một, và có thể nghiên cứu như hai sự việc riêng rẽ.
Tuy nhiên hai sự việc có thật này lại hết sức gắn bó khắng khít với nhau. Ðơn
giản giống như một người lái chiếc thuyền máy. Tâm giống như con thuyền và máy
của nó, trong khi ý là người lái, người lái tự quyết sẽ đi đâu và sẽ phải làm
gì.
Gần
như là một biến chuyển thiên nhiên tương tự có thể nảy sinh từ các định luật
khác nhau trong những tình trạng khác nhau, trong khi một số biến chuyển lại là
sản phẩm của hai hoặc nhiều định luật tự nhiên vận hành phối hợp. Một người bị
chảy nước mắt có thể do khói (luật vật lý) vì quá vui hay quá buồn (luật tâm
linh) cũng có thể do kết quả về các hành động ở quá khứ (nghiệp luật). Nhức đầu
có thể do bệnh (luật sinh học), cũng có thể do không khí ngột ngạt, phòng quá
nóng (luật vật lý), hay cũng có thể do phiền muộn và lo lắng (nghiệp luật).
VẤN ĐỀ TỰ DO Ý CHÍ
Khi
người Phương Tây bắt đầu nghiên cứu về nghiệp hay ý, họ thường bối rối trước vấn
đề tự do ý chí. Có tự do ý chí không? Thực ra không có tự do ý chí trong nghĩa
'tự do tuyệt đối', vì ý định chỉ là một trong muôn ngàn nguyên nhân quan hệ lẫn
nhau trong tiến trình nhân quả. Tuy nhiên, ý chí có thể coi như tự do một cách
tương đối. Chúng ta có thể nói 'tương đối tự do' vì thực ra nó chỉ là một trong
các nhân tố trong toàn bộ tiến trình tự nhiên. Trong đạo Phật điều này gọi là
purisakãra. (manliness - nhân tính). Mọi người đều có khả năng khai triển tư
duy và ý đồ của mình, đúng ra là việc này trở thành nhân tố chủ mưu trong tiến
trình nguyên nhân và hậu quả, hay Nghiệp, do đó mà chúng ta nói mỗi cá nhân phải
chịu trách nhiệm.
Hiểu
nhầm, hay thiếu hiểu biết trong sự liên quan đến vấn đề tự do ý chí, xuất phát
từ một số quan niệm sai rất sâu xa, đặc biệt là về cái "ta". Quan niệm
này gây ra rất nhiều bối rối khi ta nhìn vào thực tại như là điều kiện có thật,
nhưng bị mắc vào lối suy nghĩ theo thói quen bám víu ngay vào quan niệm. Hai
quan niệm bất đồng sâu sắc. Theo thói quen người ta nhận thức có kẻ hành động
và có kẻ nhận kết quả. Trong khi kì thực chỉ có sự cảm thấy, nhưng do nhận thức nên thấy có người cảm
thấy. (Trong sách có câu: Có sự chứng nghiệm của cảm thấy, nhưng không có người
cảm thấy). Lý do có sự bối rối này là sự không hiểu biết đặc tính của vô ngã.
Phật
Giáo không đơn giản ngừng tại tự do ý chí, mà cố gắng đạt đến tình trạng ý được
tự do về ý chí, vượt lên sức mạnh của ý chí, sự siêu việt này chỉ có thể đạt được
nhờ sự phát triển đầy đủ tiềm năng của con người qua trí tuệ.
Cũng
nên lưu ý rằng trong tiến trình phát triển con người, lãnh vực tâm ý và trí tuệ
khác nhau. Trí tuệ đuợc hoàn toàn mở mang thì giải thoát khỏi tâm ý. Cho nên
chúng ta có tâm với ý định, và tâm với trí tuệ. Tuy nhiên, đó là mối bận tâm thực
tiễn, một đề tài rộng lớn chúng ta sẽ nói đến trong một dịp khác sau này.
Ðơn
giản tôi chỉ muốn trình bày việc đạt được kiến thức hoàn hảo, tức sự thật chân
lý, phải xuất phát từ sự hiểu biết về con người và vị trí của họ trong trật tự
tự nhiên, kể cả những điều kiện cùng giá trị trừu tượng mà họ có.
[còn tiếp]
[Kinh tụng
– 16.4.2020]
[Kinh Châu Báu
– Ratanasutta]
1- Yānīdha bhūtāni samāgatāni
Bhummāni vā yāniva antalikkhe
Sabbe va bhūtā sumanā bhavantu
Athopi sakkacca suṇantu bhāsitaṃ
Tasmā hi bhūtāni sāmetha sabbe
Mettaṃ karotha mānusiyā pajāya
Divā ca ratto ca haranti ye baliṃ
Tasmā hi ne rakkhatha appamattā
Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Mong khởi lòng hoan hỷ
Thành kính nghe lời nầy
Rồi với tâm bi mẫn
Năng hộ trì nhơn loại
Vốn đêm ngày hồi hướng
Phước lành đến chư thiên
Bhummāni vā yāniva antalikkhe
Sabbe va bhūtā sumanā bhavantu
Athopi sakkacca suṇantu bhāsitaṃ
Tasmā hi bhūtāni sāmetha sabbe
Mettaṃ karotha mānusiyā pajāya
Divā ca ratto ca haranti ye baliṃ
Tasmā hi ne rakkhatha appamattā
Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Mong khởi lòng hoan hỷ
Thành kính nghe lời nầy
Rồi với tâm bi mẫn
Năng hộ trì nhơn loại
Vốn đêm ngày hồi hướng
Phước lành đến chư thiên
2- Yaṅkiñci vittaṃ idha vā huraṃ vā
Saggesu vā yaṃ ratanaṃ paṇītaṃ
Na no samaṃ atthi tathāgatena
Idampi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
Etena saccena suvatthi hotu.
Saggesu vā yaṃ ratanaṃ paṇītaṃ
Na no samaṃ atthi tathāgatena
Idampi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
Etena saccena suvatthi hotu.
Những vật quí trong đời
Chốn nầy hay nơi khác
Cả châu báu cõi trời
Không gì sánh bằng được
Với Như Lai Thiện Thệ
Do vậy chính đức Phật
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Chốn nầy hay nơi khác
Cả châu báu cõi trời
Không gì sánh bằng được
Với Như Lai Thiện Thệ
Do vậy chính đức Phật
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
3-
Khayaṃ
virāgaṃ amataṃ paṇītaṃ
yadajjhagā sakyamunī samāhito
Na tena dhammena samatthi kiñci
idaṃ pi dhamme ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Pháp bất tử tối thượng
Ly dục diệt phiền não
Phật Thích Ca Mâu Ni
Chứng pháp ấy trong thiền
Không gì sánh bằng được
Pháp thiền vi diệu ấy
Do vậy chính Chánh Pháp
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
yadajjhagā sakyamunī samāhito
Na tena dhammena samatthi kiñci
idaṃ pi dhamme ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Pháp bất tử tối thượng
Ly dục diệt phiền não
Phật Thích Ca Mâu Ni
Chứng pháp ấy trong thiền
Không gì sánh bằng được
Pháp thiền vi diệu ấy
Do vậy chính Chánh Pháp
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
4- Yaṃ buddhaseṭṭho parivaṇṇayī suciṃ
samādhimānantarikaññamāhu
samādhinā tena samo na vijjati
idaṃ pi dhamme ratanaṃ paṇītam
etena saccena suvatthi hotu
Con đường thanh lọc tâm
Là tu tập thiền định
Chứng hiện tại lạc trú
Ðức Phật hằng ngợi khen
Không gì so sánh được
Do vậy chính Chánh Pháp
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
samādhimānantarikaññamāhu
samādhinā tena samo na vijjati
idaṃ pi dhamme ratanaṃ paṇītam
etena saccena suvatthi hotu
Con đường thanh lọc tâm
Là tu tập thiền định
Chứng hiện tại lạc trú
Ðức Phật hằng ngợi khen
Không gì so sánh được
Do vậy chính Chánh Pháp
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
5- Ye puggalā aṭṭhasataṃ pasaṭṭhā
cattāri etāni yugāni honti
te dakkhiṇeyyā sugatassa sāvakā
etesu dinnāni mahapphalāni
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Thánh tám vị bốn đôi
Là những bậc ứng cúng
Ðệ tử đấng Thiện Thệ
Ðược trí giả tán thán
Cúng dường đến các ngài
Hưởng vô lượng công đức
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
cattāri etāni yugāni honti
te dakkhiṇeyyā sugatassa sāvakā
etesu dinnāni mahapphalāni
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Thánh tám vị bốn đôi
Là những bậc ứng cúng
Ðệ tử đấng Thiện Thệ
Ðược trí giả tán thán
Cúng dường đến các ngài
Hưởng vô lượng công đức
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
6- Ye suppayuttā manasā daḷhena
nikkāmino gotamasāsanamhi
te pattipattā amataṃ vigayha
laddhā mudhā nibbutiṃ bhuñjamānā
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Bậc tu hành thiểu dục
Với ý chí kiên trì
Khéo chơn chánh phụng hành
Lời dạy đức Ðiều Ngự
Chứng đạt quả giải thoát
Thể nhập đạo bất tử
Lạc trú quả tịch tịnh
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
nikkāmino gotamasāsanamhi
te pattipattā amataṃ vigayha
laddhā mudhā nibbutiṃ bhuñjamānā
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Bậc tu hành thiểu dục
Với ý chí kiên trì
Khéo chơn chánh phụng hành
Lời dạy đức Ðiều Ngự
Chứng đạt quả giải thoát
Thể nhập đạo bất tử
Lạc trú quả tịch tịnh
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
7- Yathindakhīlo paṭhaviṃ sito siyā
catubbhi vātebhi asampakampiyo
tathūpamaṃ suppurisaṃ vadāmi
yo ariyasaccāni aveccapassati
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Ví như cột trụ đá
Khéo chôn chặt xuống đất
Dầu bốn hướng cuồng phong
Cũng không thể lay động
Ta nói bậc chân nhân
Liễu ngộ tứ thánh đế
Cũng tự tại bất động
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
catubbhi vātebhi asampakampiyo
tathūpamaṃ suppurisaṃ vadāmi
yo ariyasaccāni aveccapassati
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Ví như cột trụ đá
Khéo chôn chặt xuống đất
Dầu bốn hướng cuồng phong
Cũng không thể lay động
Ta nói bậc chân nhân
Liễu ngộ tứ thánh đế
Cũng tự tại bất động
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
8- Ye ariyasaccāni vibhāvayanti
gambhīrapaññena sudesitāni
kiñcāpi te honti bhusappamattā
na te bhavaṃ aṭṭhamamādiyanti
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Bậc thánh tu đà huờn
Chứng tri lý thánh đế
Ðược đức Gô Ta Ma
Khéo thuyết giảng tường tận
Các ngài dù phóng dật
Thì cũng không bao giờ
Tái sanh kiếp thứ tám
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
gambhīrapaññena sudesitāni
kiñcāpi te honti bhusappamattā
na te bhavaṃ aṭṭhamamādiyanti
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Bậc thánh tu đà huờn
Chứng tri lý thánh đế
Ðược đức Gô Ta Ma
Khéo thuyết giảng tường tận
Các ngài dù phóng dật
Thì cũng không bao giờ
Tái sanh kiếp thứ tám
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
9- Sahāvassa dassanasampadāya
tayassu dhammā jahitā bhavanti
sakkāyadiṭṭhi vicikicchitañca
sīlabbataṃ vāpi yadatthi kiñci
catūhapāyehi ca vippamutto
cha cābhiṭṭhānāni abhabbo kātuṃ
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Nhờ chứng đạt chánh trí
Ðọan trừ ba kiết sử
Thân kiến và hoài nghi
Luôn cả giới cấm thủ
Thoát khỏi bốn đọa xứ
Bậc nhập lưu không tạo
Sáu bất thiện trọng nghiệp
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
tayassu dhammā jahitā bhavanti
sakkāyadiṭṭhi vicikicchitañca
sīlabbataṃ vāpi yadatthi kiñci
catūhapāyehi ca vippamutto
cha cābhiṭṭhānāni abhabbo kātuṃ
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Nhờ chứng đạt chánh trí
Ðọan trừ ba kiết sử
Thân kiến và hoài nghi
Luôn cả giới cấm thủ
Thoát khỏi bốn đọa xứ
Bậc nhập lưu không tạo
Sáu bất thiện trọng nghiệp
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
10- Kiñcāpi so kammaṃ karoti
pāpakaṃ kāyena vācāyuda cetasā vā
abhabbo so tassa paṭicchadāya
abhabbatā diṭṭhapadassa vuttā
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇtītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Bậc thánh tu đà huờn
Dù vô tâm phạm lỗi
Bằng thân lời hay ý
Cũng không hề che dấu
Ðược xứng danh hiền thánh
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
pāpakaṃ kāyena vācāyuda cetasā vā
abhabbo so tassa paṭicchadāya
abhabbatā diṭṭhapadassa vuttā
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇtītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Bậc thánh tu đà huờn
Dù vô tâm phạm lỗi
Bằng thân lời hay ý
Cũng không hề che dấu
Ðược xứng danh hiền thánh
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
11- Vanappagumbe yathā phussitagge
gimhānamāse paṭhamasmiṃ gimhe
tathūpamaṃ dhammavaraṃ adesayi
nibbānagāmiṃ paramaṃ hitāya
idaṃ pi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Ðức Thế Tôn thuyết giảng
Pháp đưa đến niết bàn
Tịnh lạc và thù thắng
Lợi ích chúng hữu tình
Ví như mưa đầu hạ
Khiến ngàn cây đâm chồi
Do vậy chính đức Phật
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
gimhānamāse paṭhamasmiṃ gimhe
tathūpamaṃ dhammavaraṃ adesayi
nibbānagāmiṃ paramaṃ hitāya
idaṃ pi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Ðức Thế Tôn thuyết giảng
Pháp đưa đến niết bàn
Tịnh lạc và thù thắng
Lợi ích chúng hữu tình
Ví như mưa đầu hạ
Khiến ngàn cây đâm chồi
Do vậy chính đức Phật
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
12- Varo varaññū varado varāharo
anuttaro dhammavaraṃ adesayi
Idaṃ pi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Ðức Phật bậc vô thượng
Liễu thông pháp vô thượng
Ban bố pháp vô thượng
Chuyển đạt pháp vô thượng
Tuyên thuyết pháp vô thượng
Do vậy chính đức Phật
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
anuttaro dhammavaraṃ adesayi
Idaṃ pi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Ðức Phật bậc vô thượng
Liễu thông pháp vô thượng
Ban bố pháp vô thượng
Chuyển đạt pháp vô thượng
Tuyên thuyết pháp vô thượng
Do vậy chính đức Phật
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
13- Khīṇaṃ purāṇaṃ navaṃ natthisambhavaṃ
virattacittāyatike bhavasmiṃ
te khīṇabījā aviruḷhichandā
nibbanti dhīrā yathāyampadīpo
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ panītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Nhân quá khứ đã đoạn
Mầm tương lai không gieo
Với tâm không ái chấp
Trong sanh hữu đời sau
Bởi tham muốn đã đọan
Các chủng tử không còn
Ví như ngọn đèn tắt
Bậc trí chứng niết bàn
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
virattacittāyatike bhavasmiṃ
te khīṇabījā aviruḷhichandā
nibbanti dhīrā yathāyampadīpo
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ panītaṃ
etena saccena suvatthi hotu
Nhân quá khứ đã đoạn
Mầm tương lai không gieo
Với tâm không ái chấp
Trong sanh hữu đời sau
Bởi tham muốn đã đọan
Các chủng tử không còn
Ví như ngọn đèn tắt
Bậc trí chứng niết bàn
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
14- Yānīdha bhūtāni samāgatāni
bhummāni vā yāniva antalikkhe
tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ
buddhaṃ namassāma suvatthi hotu
Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Hãy chí thành đảnh lễ
Ðức Phật bậc như lai
Ðược chư thiên nhân loại
Ðảnh lễ và cúng dường
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
15- Yānīdha bhūtāni samāgatāni
bhummāni vā yāniva antalikhe
tathāgataṃ devamanussapùjitaṃ
dhammaṃ namassāma suvatthi hotu
Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Hãy chí thành đảnh lễ
Chánh Pháp đạo như chân
Ðược chư thiên nhân loại
Ðảnh lễ và cúng dường
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
16- Yanītha bhūtāni samāgatāni
bhummāni vā yāniva antalikkhe
tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ
saṅghaṃ namassāma suvatthi hotu
Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Hãy chí thành đảnh lễ
Tăng Chúng bậc như đức
Ðược chư thiên nhân loại
Ðảnh lễ và cúng dường
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
bhummāni vā yāniva antalikkhe
tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ
buddhaṃ namassāma suvatthi hotu
Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Hãy chí thành đảnh lễ
Ðức Phật bậc như lai
Ðược chư thiên nhân loại
Ðảnh lễ và cúng dường
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
15- Yānīdha bhūtāni samāgatāni
bhummāni vā yāniva antalikhe
tathāgataṃ devamanussapùjitaṃ
dhammaṃ namassāma suvatthi hotu
Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Hãy chí thành đảnh lễ
Chánh Pháp đạo như chân
Ðược chư thiên nhân loại
Ðảnh lễ và cúng dường
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
16- Yanītha bhūtāni samāgatāni
bhummāni vā yāniva antalikkhe
tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ
saṅghaṃ namassāma suvatthi hotu
Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Hãy chí thành đảnh lễ
Tăng Chúng bậc như đức
Ðược chư thiên nhân loại
Ðảnh lễ và cúng dường
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
No comments:
Post a Comment