Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: ĐĐ Pháp Tín
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 24/4/2020
109. Ðại Kinh Mãn Nguyệt
(Mahāpuṇṇama Sutta)
Mãn Nguyệt - puṇṇama - có nghĩa
là ngày trăng tròn. Tên kinh đặt theo ngáy rằm với lễ bố tát, cũng là trường hợp
hiếm khi lấy thời điểm trong tháng làm tựa đề cho bài kinh. Có hai bài kinh cùng
tên. Bài nầy dài hơn nên gọi là đại kinh. Nhân ngày bố tát, một tỳ kheo hỏi Đức
Phật về sự quán chiếu tự thân. Bậc Đạo Sư đã dạy về năm uẩn và quán chiếu bản
chất vô thường, khổ não, vô ngã đối với năm uẩn.
1035. Hỏi pháp, hỏi về bản chất
tự nhiên, cũng là hỏi về tự thân
Nhân ngày bố tát hằng tháng một
tỳ kheo bạch hỏi Đức Phật về năm thủ uẩn. Những nhóm tác thành sự hiện hữu của
chúng sanh. Những thành tố nầy tạo nên bởi chấp thủ và cũng là đối tượng của chấp
thủ:
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở tại Savatthi (Xá-vệ), Pubbarama
(Ðông Viên), Migaramatupasada (Lộc Mẫu Giảng đường).
Lúc bấy giờ trong ngày Bố-tát, ngày trăng tròn, trong
đêm trăng rằm, Thế Tôn đang ngồi giữa trời, xung quanh có chúng Tỷ-kheo đoanh
vây. Rồi một Tỷ-kheo từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp y vào một bên vai, chấp tay vái
Thế Tôn và bạch Thế Tôn:
-- Con muốn hỏi Thế Tôn một vấn đề đặc biệt, nếu Thế
Tôn cho con được phép nói lên câu hỏi.
-- Vậy này Tỷ-kheo, hãy ngồi trên chỗ của Ông và hỏi
như ý Ông muốn.
Rồi vị Tỷ-kheo ấy, sau khi ngồi xuống trên chỗ ngồi của
mình, bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, có phải có năm thủ uẩn này, tức là sắc
thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn và thức thủ uẩn?
-- Này Tỷ-kheo, có năm thủ uẩn này, tức là sắc thủ uẩn,
thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn.
-- Lành thay, bạch Thế Tôn.
1036. Sự chấp thủ năm uẩn cũng
là một phần thuộc về năm uẩn
Tất cả hiện tượng chấp thủ, đối
tượng của chấp thủ đều nằm trong ngũ uẩn:
Tỷ-kheo ấy sau khi hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn nói, hỏi
Thế Tôn một câu hỏi khác:
-- Bạch Thế Tôn, năm thủ uẩn này, lấy gì làm căn bản?
-- Này Tỷ-kheo, năm thủ uẩn này lấy dục làm căn bản.
-- Bạch Thế Tôn, có phải chính chấp thủ ấy là năm thủ
uẩn, hay là ngoài năm thủ uẩn, có một chấp thủ (khác)?
-- Này Tỷ-kheo, không phải chính chấp thủ ấy là năm thủ
uẩn, cũng không phải ngoài năm thủ uẩn có sự chấp thủ. Này Tỷ-kheo, khi nào có
lòng dục, lòng tham đối với năm thủ uẩn, ở đấy chính là chấp thủ.
-- Bạch Thế Tôn, phải chăng có thể có sự sai khác
trong lòng dục, lòng tham đối với năm thủ uẩn?
Thế Tôn trả lời:
-- Này Tỷ-kheo, có thể có. Ở đây, này Tỷ-kheo có người
nghĩ như sau: "Mong rằng có sắc như thế này trong tương lai! Mong rằng có
thọ như thế này trong tương lai! Mong rằng có tưởng như thế này trong tương
lai! Mong rằng có hành như thế này trong tương lai! Mong rằng có thức như thế
này trong tương lai!" Như vậy, này Tỷ-kheo, có sự sai khác trong lòng dục,
lòng tham đối với năm uẩn.
1037. Chữ “uẩn” được định nghĩa
thế nào?
Thuật ngữ khandha thường được dịch
là uẩn hay ấm có nghĩa là nhóm, khối. Định nghĩa trong bài kinh nầy cho thấy uẩn
bao gồm những gì đang hiện hữu, đã hiện hữu, sẽ sanh khởi ở nhiều dạng thức
khác nhau:
-- Nhưng bạch Thế Tôn, cho đến như thế nào là ý nghĩa
chữ uẩn trong các uẩn?
-- Này Tỷ-kheo, phàm sắc gì, quá khứ, vị lai hay hiện
tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, như vậy là sắc uẩn.
Phàm cảm thọ gì, quá khứ, vị lai hay hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt
hay thắng, xa hay gần, như vậy là thọ uẩn. Phàm tưởng gì, quá khứ, vị lai hay
hiện tại... xa hay gần, như vậy là tưởng uẩn. Phàm những hành gì, quá khứ, vị
lai hay hiện tại... xa hay gần, như vậy là hành uẩn. Phàm thức gì, quá khứ, vị
lai hay hiện tại... xa hay gần, như vậy là thức uẩn. Cho đến như vậy, này Tỷ-kheo,
là ý nghĩa chữ uẩn trong các uẩn.
1038. Nhân và duyên sanh tác
thành năm uẩn
Năm uẩn tạo thành do nhân, do
duyên. Chính ở đây là trả lời thực tiễn cho câu “chúng ta từ đâu đến” qua cái
nhìn của thiền quán:
-- Do nhân gì, bạch Thế Tôn, do duyên gì được chấp nhận
gọi là sắc uẩn? Do nhân gì, duyên gì được chấp nhận gọi là thọ uẩn? Do nhân gì,
duyên gì được chấp nhận gọi là tưởng uẩn? Do nhân gì, duyên gì được chấp nhận gọi
hành uẩn? Do nhân gì, duyên gì được chấp nhận gọi là thức uẩn?
-- Bốn đại là nhân, này Tỷ-kheo, bốn đại là duyên được
chấp nhận gọi là sắc uẩn. Xúc là nhân, xúc là duyên được chấp nhận gọi là thọ uẩn.
Xúc là nhân, xúc là duyên được chấp nhận gọi là tưởng uẩn. Xúc là nhân, xúc là
duyên được chấp nhận gọi là hành uẩn. Danh sắc là nhân, này Tỷ-kheo, danh sắc
là duyên được chấp nhận gọi là thức uẩn.
-- Nhưng bạch Thế Tôn, thế nào là thân kiến?
-- Ở đây, này Tỷ-kheo, có kẻ vô văn phàm phu không hiểu
rõ các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc
Thánh, không hiểu rõ các bậc Chơn nhân, không thuần thục pháp các bậc Chơn
nhân, không tu tập pháp các bậc Chơn nhân, xem sắc như là tự ngã, hay xem tự
ngã như là có sắc, hay xem sắc như là trong tự ngã, hay xem tự ngã như là trong
sắc; xem thọ như là tự ngã, hay xem tự ngã như là có thọ, hay xem thọ như là
trong tự ngã, hay xem tự ngã như là trong thọ; xem tưởng như là tự ngã, hay xem
tự ngã như là có tưởng, hay xem tưởng như là trong tự ngã, hay xem tự ngã như
là trong trưởng; xem hành như là tự ngã, hay xem tự ngã như là có hành, hay xem
hành như là trong tự ngã, hay xem tự ngã như là trong hành; xem thức như là tự
ngã, hay xem tự ngã như là có thức, hay xem có thức như là trong tự ngã, hay
xem tự ngã như là trong thức.
-- Nhưng bạch Thế Tôn, thế nào là không thân kiến?
-- Ở đây, này Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử, đi đến
các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, đi đến
các bậc Chơn nhân, thuần thục pháp các bậc Chơn nhân, tu tập pháp các bậc Chơn
nhân, không xem sắc như là tự ngã, hay không xem tự ngã như là có sắc, hay
không xem sắc như là trong tự ngã, hay không xem tự ngã như là trong sắc; không
xem thọ như là tự ngã...., không xem tự ngã như là trong thọ; không xem tưởng
như là tự ngã... , hay không xem tự ngã như là trong tưởng; không xem hành như
là tự ngã... , hay không xem tự ngã như là trong hành; không xem thức như là tự
ngã... , không xem tự ngã như là trong thức. Như vậy, này Tỷ-kheo, là không
thân kiến.
-- Bạch Thế Tôn, cái gì là vị ngọt của sắc, cái gì là
sự nguy hiểm, cái gì là sự xuất ly? Cái gì là vị ngọt của thọ, cái gì là sự
nguy hiểm, cái gì là sự xuất ly? Cái gì là vị ngọt của tưởng, cái gì là sự nguy
hiểm, cái gì là sự xuất ly? Cái gì là vị ngọt của hành, cái gì là sự nguy hiểm,
cái gì là sự xuất ly? Cái gì là vị ngọt của thức, cái gì là sự nguy hiểm, cái
gì là sự xuất ly?
-- Này Tỷ-kheo, lạc hỷ gì duyên sắc khởi lên, như vậy
là vị ngọt của sắc. Cái gì vô thường, khổ, bị biến hoại trong sắc như vậy là sự
nguy hiểm của sắc. Sự nhiếp phục dục tham đối với sắc, sự đoạn diệt dục tham,
như vậy là sự xuất ly của sắc. Này Tỷ-kheo, lạc hỷ gì duyên thọ khởi lên, như vậy
là vị ngọt của thọ... như vậy là sự xuất ly của thọ. Này Tỷ-kheo, lạc hỷ gì
duyên tưởng khởi lên, như vậy là vị ngọt của tưởng.... là sự xuất ly của tưởng.
Này Tỷ-kheo, lạc hỷ gì duyên hành khởi lên như vậy là vị ngọt của hành... là sự
xuất ly của hành. Này Tỷ-kheo, lạc hỷ gì duyên thức khởi lên, như vậy là vị ngọt
của thức. Cái gì vô thường, khổ, bị biến hoại trong thức, như vậy là sự nguy hiểm
của thức. Sự nhiếp phục dục tham đối với thức, sự đoạn diệt dục tham, như vậy
là sự xuất ly của thức.
-- Bạch Thế Tôn, do biết gì, do thấy gì, mà không có mạn
tùy miên rằng: "Ta là người làm, sở thuộc của ta là người làm", đối với
tự thân có ý thức, và đối với cả tưởng ở ngoài?
-- Này Tỷ-kheo, phàm có sắc gì, quá khứ, vị lai hay hiện
tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, đối với tất cả sắc,
thấy được như thật với trí tuệ là: "Cái này không phải của tôi, cái này
không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi". Phàm có thọ gì...
tưởng gì... hành gì... phàm có thức gì, quá khứ vị lai hay hiện tại, nội hay
ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, đối với tất cả thức, thấy được
như thật với trí tuệ là: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải
là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi". Này Tỷ-kheo, do biết như vậy,
thấy như vậy, nên không có mạn tùy miên rằng: "Ta là người làm, sở thuộc của
ta là người làm", đối với tự thân có ý thức, và đối với tất cả tướng ở
ngoài.
1039. Chỉ có quả chứ không có
người gặt quả
Sự hiện hữu, trong ý nghĩa tận
cùng, là sự đắpp đổi nối tiếp những nhân và quả, không có người tạo nghiệp cũng
không có người gặt quả:
Rồi một Tỷ-kheo khác khởi lên sự suy tư như sau:
"Nếu được nói rằng, chư Tôn giả, sắc là vô ngã, thọ là vô ngã, tưởng là vô
ngã, hành là vô ngã, thức là vô ngã; như vậy những hành động do vô ngã làm đã
được ngã nào cảm thọ kết quả?"
Thế Tôn biết được tâm tư của Tỷ-kheo ấy với tâm tư của
mình, liền nói với các Tỷ-kheo:
-- Này các Tỷ-kheo, sự kiện này xảy ra, khi ở đây người
thiểu trí, vô tri, vô minh, với tâm bị tham dục chi phối, lại nghĩ cần phải vượt
qua lời dạy của bậc Ðạo sư với câu hỏi: "Nếu được nói rằng, chư Tôn giả, sắc
là vô ngã, thọ là vô ngã, tưởng là vô ngã, hành là vô ngã, thức là vô ngã; như
vậy những hành động do vô ngã làm đã được ngã nào cảm thọ kết quả?" Này
các Tỷ-kheo, các Ông đã được Ta huấn luyện tìm kiếm nhân duyên, chỗ này chỗ
kia, đối với những pháp này, pháp khác.
Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, sắc là thường
hay vô thường?
-- Vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Những gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Những gì vô thường, khổ, bị biến hoại, có hợp lý
chăng khi xem: "Cái này của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của
tôi?"
-- Thưa không vậy, bạch Thế Tôn.
-- Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, thọ...
tưởng... hành... thức là thường hay vô thường?
-- Vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Những gì vô thường, là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Những gì vô thường, khổ, bị biến hoại, có hợp lý
chăng khi xem: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của
tôi?"
-- Thưa không vậy, bạch Thế Tôn.
-- Do vậy, này các Tỷ-kheo, phàm có sắc gì, quá khứ, vị
lai hay hiện tại, nội hay ngoại... tất cả loại sắc, cần phải như thật quán:
"Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải
tự ngã của tôi". Phàm có thọ gì, phàm có tưởng gì, phàm có hành gì, phàm
có thức gì quá khứ, vị lai hay hiện tại, nội hay ngoại.. tất cả loại thức, cần
phải như thật quán: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là
tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
Như vậy, này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử yếm ly
đối với sắc, yếm ly đối với thọ, yếm ly đối với tưởng, yếm ly đối với hành, yếm
ly đối với thức.
Do yếm ly nên ly tham, do ly tham nên được giải thoát.
Trong sự giải thoát, vị ấy biết được vị ấy đã giải thoát. Vị ấy biết:
"Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm. Từ nay không
còn trở lại đời sống thế này nữa".
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ
tín thọ lời Thế Tôn dạy. Trong khi sự giảng giải này được nói lên, tâm của sáu
mươi vị Tỷ-kheo được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
Đại Kinh Mãn Nguyệt [tóm tắt]
(Mahāpuṇṇama Sutta)
(M.iii, 15)
Kinh này đề cập đến một số định nghĩa của Phật
về năm thủ uẩn, thân kiến, vị ngọt, nguy hiểm và xuất ly của năm
uẩn, cách diệt trừ mạn tùy miên.
Vào một đêm trăng rằm, trong Đông Viên, một vị
Tỷ- kheo hỏi đức Phật về căn bản của năm thủ uẩn. Đức Phật trả
lời, dục là gốc của năm thủ uẩn. Vị Tỷ-kheo hỏi tiếp, sự chấp thủ
là năm thủ uẩn, hay ngoài năm thủ uẩn có sự chấp thủ nào khác? Thế
Tôn dạy sự chấp thủ không ở nơi năm uẩn, cũng không ngoài năm uẩn.
Khi có dục và tham đối với năm thủ uẩn, thì đó là chấp thủ.
Uẩn là gì? Tất cả sắc nội, ngoại, thô tế, liệt
thắng, xa gần, quá khứ, hiện tại, vị lai... gọi là sắc uẩn. Thọ,
tưởng, hành, thức cũng vậy.
Nhân gì, duyên gì có năm uẩn? Nhân bốn đại có sắc
uẩn. Nhân duyên xúc sanh ra thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn (vì xúc sanh ra
cảm giác, tưởng, và cố gắng quyết định).
Nhân danh sắc sinh ra thức uẩn gọi là kiết sanh
thức.
Thế nào là thân kiến? là 20 tà kiến đối với năm
thủ uẩn, xem sắc là tự ngã, tự ngã là có sắc, sắc ở trong ngã, ngã ở
trong sắc. Đó là bốn tà kiến về sắc uẩn. Đối với thọ, tưởng, hành,
thức cũng vậy.
Thế nào là không thân kiến? Là không có 20 tà kiến
nói trên.
Thế nào là vị ngọt, sự nguy hiểm, sự xuất ly,
đối với năm uẩn? Sắc uẩn có vị ngọt là hỷ lạc, có sự nguy hiểm là
vô thường, khổ, biến hoại của sắc, và sự xuất ly là nhiếp phục tham
đối với sắc, thọ. Thọ uẩn có vị ngọt là hỷ lạc khởi lên do cảm
giác, sự nguy hiểm, sự xuất ly của thọ, tưởng, hành, thức cũng như
trên.
Do thấy gì mà dứt được mạn tùy miên đối với tự
thân và ngoại cảnh? Do quán tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức, thuộc
quá khứ, vị lai, hay hiện tại, xa hay gần, thô hay tế... đều thấy
rằng: “Cái này không phải của tôi, không phải là tôi, không phải tự ngã
của tôi”.
Khi ấy có vị Tỷ-kheo khởi lên ý nghĩ: “Nếu sắc
vô ngã, thọ vô ngã... như vậy những hành động do vô ngã làm, thì cái ngã
nào chịu quả báo?” Đức Thế Tôn quở trách vị ấy ngu si muốn vượt qua
lời dạy của Thế Tôn, và dạy rằng cái thọ quả báo ấy tức là năm uẩn,
cũng phải được thấy là vô thường, vì vô thường cho nên là khổ, và vì
vô thường khổ, nên không hợp lý để gọi: “Cái này là tôi hay tự ngã của
tôi”. Khi quán sát thuần thục như vậy, vị ấy sẽ yểm ly đối với năm
thủ uẩn, do yểm ly nên ly tham, nhờ ly tham mà được giải thoát, biết
rằng sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm. Sau đời
này không còn đời khác nữa.
Sau khi đức Thế Tôn giảng dạy, 60 vị Tỷ-kheo
được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không còn chấp thủ, chứng quả
A-la-hán.
Kinh Số 109 [dàn ý]
ĐẠI KINH MÃN NGUYỆT
(Mahāpuṇṇama Sutta)
(M.Iii, 15)
A. Duyên khởi:
Trong ngày rằm, Bố-tát, Thế Tôn
đang ngồi với đại chúng đoanh vây. Một Tỷ-kheo đứng lên xin hỏi một số vấn đề
và Đức Phật cho phép.
B. Chánh kinh:
I.
Vị Tỷ-kheo
ấy hỏi tất cả là mười câu hỏi liên hệ đến vấn đề Năm uẩn và Đức Phật lần lượt
trả lời tất cả mười câu hỏi ấy.
II.
Một Tỷ-kheo
khác hỏi, những hành động gì do vô ngã làm thời được ngã nào cảm thọ. Kết quả Đức
Phật dạy không nên vượt qua lời dạy của Ngài. Chỉ nên quán Năm thủ uẩn là vô
ngã, nhờ vậy được nhàm chán ly tham và giải thoát.
C. Kết luận:
Sau khi Đức Phật thuyết giảng, có
sáu mươi vị chứng được quả A-la-hán.
109. Mahāpuṇṇamasuttaṃ
[Mūla]
85. Evaṃ me sutaṃ : ekaṃ samayaṃ Bhagavā
sāvatthiyaṃ viharati pubbārāme migāramātupāsāde. Tena kho pana samayena Bhagavā
tadahuposathe pannarase puṇṇāya puṇṇamāya rattiyā bhikkhusaṅghaparivuto
abbhokāse nisinno hoti. Atha kho aññataro bhikkhu uṭṭhāyāsanā ekaṃsaṃ cīvaraṃ
katvā yena Bhagavā tenañjaliṃ paṇāmetvā bhagavantaṃ etadavoca :
''puccheyyāhaṃ, bhante, bhagavantaṃ kiñcideva desaṃ, sace me Bhagavā
okāsaṃ karoti pañhassa veyyākaraṇāyāti. ''Tena hi tvaṃ, bhikkhu, sake āsane
nisīditvā puccha yadākaṅkhasīti.
86. Atha kho so
bhikkhu sake āsane nisīditvā bhagavantaṃ etadavoca : ''ime nu kho, bhante,
pañcupādānakkhandhā, seyyathidaṃ : rūpupādānakkhandho, vedanupādānakkhandho,
saññupādānakkhandho, saṅkhārupādānakkhandho, viññāṇupādānakkhandhoti? ''ime
kho, bhikkhu, pañcupādānakkhandhā, seyyathidaṃ : rūpupādānakkhandho,
vedanupādānakkhandho, saññupādānakkhandho, saṅkhārupādānakkhandho, viññāṇupādānakkhandhoti.
''Sādhu, bhanteti kho so bhikkhu bhagavato bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā
bhagavantaṃ uttariṃ pañhaṃ pucchi : ''ime pana, bhante, pañcupādānakkhandhā kiṃmūlakāti?
''ime kho, bhikkhu, pañcupādānakkhandhā chandamūlakāti. ''Taṃyeva nu kho,
bhante, upādānaṃ te pañcupādānakkhandhā, udāhu aññatra pañcahupādānakkhandhehi upādānanti?
''na kho, bhikkhu, taṃyeva upādānaṃ te pañcupādānakkhandhā, nāpi aññatra
pañcahupādānakkhandhehi upādānaṃ. Yo kho, bhikkhu, pañcasu upādānakkhandhesu
chandarāgo taṃ tattha upādānanti. ''Siyā pana, bhante, pañcasu
upādānakkhandhesu chandarāgavemattatāti? ''siyā bhikkhūti Bhagavā avoca
''idha, bhikkhu, ekaccassa evaṃ hoti : 'evaṃrūpo siyaṃ anāgatamaddhānaṃ , evaṃvedano siyaṃ
anāgatamaddhānaṃ, evaṃsañño siyaṃ anāgatamaddhānaṃ, evaṃsaṅkhāro siyaṃ
anāgatamaddhānaṃ, evaṃviññāṇo siyaṃ anāgatamaddhānanti. Evaṃ kho, bhikkhu, siyā
pañcasu upādānakkhandhesu chandarāgavemattatāti. ''Kittāvatā pana, bhante,
khandhānaṃ khandhādhivacanaṃ hotīti? ''yaṃ kiñci, bhikkhu, rūpaṃ :
atītānāgatapaccuppannaṃ ajjhattaṃ vā bahiddhā vā, oḷārikaṃ vā sukhumaṃ vā, hīnaṃ
vā paṇītaṃ vā, yaṃ dūre santike vā : ayaṃ rūpakkhandho. Yā kāci vedanā : atītānāgatapaccuppannā ajjhattaṃ
vā bahiddhā vā, oḷārikā vā sukhumā vā, hīnā vā paṇītā vā, yā dūre santike vā :
ayaṃ vedanākkhandho. Yā kāci saññā : atītānāgatapaccuppannā - pe - yā dūre
santike vā : ayaṃ saññākkhandho. Ye keci saṅkhārā : atītānāgatapaccuppannā
ajjhattaṃ vā bahiddhā vā, oḷārikā vā sukhumā vā, hīnā vā paṇītā vā, ye dūre
santike vā : ayaṃ saṅkhārakkhandho. Yaṃ kiñci viññāṇaṃ : atītānāgatapaccuppannaṃ
ajjhattaṃ vā bahiddhā vā, oḷārikaṃ vā sukhumaṃ vā, hīnaṃ vā paṇītaṃ vā, yaṃ
dūre santike vā : ayaṃ viññāṇakkhandho. Ettāvatā kho, bhikkhu, khandhānaṃ
khandhādhivacanaṃ hotīti. ''Ko nu kho, bhante, hetu ko paccayo rūpakkhandhassa
paññāpanāya? ko hetu ko paccayo vedanākkhandhassa paññāpanāya? ko hetu ko
paccayo saññākkhandhassa paññāpanāya? ko hetu ko paccayo saṅkhārakkhandhassa
paññāpanāya? ko hetu ko paccayo viññāṇakkhandhassa paññāpanāyāti? ''cattāro
kho, bhikkhu, mahābhūtā hetu, cattāro mahābhūtā paccayo rūpakkhandhassa
paññāpanāya. Phasso hetu, phasso paccayo vedanākkhandhassa paññāpanāya. Phasso
hetu, phasso paccayo saññākkhandhassa paññāpanāya. Phasso hetu, phasso paccayo
saṅkhārakkhandhassa paññāpanāya. Nāmarūpaṃ kho, bhikkhu, hetu nāmarūpaṃ paccayo
viññāṇakkhandhassa paññāpanāyāti.
87. ''Kathaṃ pana,
bhante, sakkāyadiṭṭhi hotīti? ''idha, bhikkhu, assutavā puthujjano ariyānaṃ
adassāvī ariyadhammassa akovido ariyadhamme avinīto sappurisānaṃ adassāvī sappurisadhammassa akovido sappurisadhamme
avinīto rūpaṃ attato samanupassati rūpavantaṃ vā attānaṃ attani vā rūpaṃ
rūpasmiṃ vā attānaṃ vedanaṃ attato samanupassati vedanāvantaṃ vā attānaṃ attani
vā vedanaṃ vedanāya vā attānaṃ saññaṃ attato samanupassati saññāvantaṃ vā
attānaṃ attani vā saññaṃ saññāya vā attānaṃ saṅkhāre attato samanupassati saṅkhāravantaṃ
vā attānaṃ attani vā saṅkhāre saṅkhāresu vā attānaṃ viññāṇaṃ attato samanupassati
viññāṇavantaṃ vā attānaṃ attani vā viññāṇaṃ viññāṇasmiṃ vā attānaṃ. Evaṃ kho , bhikkhu, sakkāyadiṭṭhi
hotīti. ''Kathaṃ pana, bhante, sakkāyadiṭṭhi na hotīti? ''idha, bhikkhu, sutavā
ariyasāvako ariyānaṃ dassāvī ariyadhammassa kovido ariyadhamme suvinīto
sappurisānaṃ dassāvī sappurisadhammassa kovido sappurisadhamme suvinīto na rūpaṃ
attato samanupassati na rūpavantaṃ vā attānaṃ na attani vā rūpaṃ na rūpasmiṃ vā
attānaṃ na vedanaṃ attato samanupassati na vedanāvantaṃ vā attānaṃ na attani vā
vedanaṃ na vedanāya vā attānaṃ na saññaṃ attato samanupassati na saññāvantaṃ vā
attānaṃ na attani vā saññaṃ na saññāya vā attānaṃ na saṅkhāre attato
samanupassati na saṅkhāravantaṃ vā attānaṃ na attani vā saṅkhāre na saṅkhāresu
vā attānaṃ na viññāṇaṃ attato samanupassati na viññāṇavantaṃ vā attānaṃ na
attani vā viññāṇaṃ na viññāṇasmiṃ vā attānaṃ. Evaṃ kho, bhikkhu, sakkāyadiṭṭhi
na hotīti.
88. ''Ko nu kho,
bhante, rūpe assādo, ko ādīnavo, kiṃ nissaraṇaṃ? ko vedanāya assādo, ko
ādīnavo, kiṃ nissaraṇaṃ? ko saññāya assādo, ko ādīnavo, kiṃ nissaraṇaṃ? ko saṅkhāresu
assādo, ko ādīnavo, kiṃ nissaraṇaṃ? ko viññāṇe assādo, ko ādīnavo, kiṃ nissaraṇanti?
''yaṃ kho, bhikkhu, rūpaṃ paṭicca uppajjati sukhaṃ somanassaṃ, ayaṃ rūpe
assādo. Yaṃ rūpaṃ aniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, ayaṃ rūpe ādīnavo. Yo rūpe
chandarāgavinayo chandarāgappahānaṃ, idaṃ rūpe nissaraṇaṃ. Yaṃ kho [yañca (syā.
kaṃ.)], bhikkhu, vedanaṃ paṭicca... saññaṃ paṭicca... saṅkhāre paṭicca... viññāṇaṃ paṭicca
uppajjati sukhaṃ somanassaṃ, ayaṃ viññāṇe assādo. Yaṃ viññāṇaṃ aniccaṃ dukkhaṃ
vipariṇāmadhammaṃ, ayaṃ viññāṇe ādīnavo. Yo viññāṇe chandarāgavinayo
chandarāgappahānaṃ, idaṃ viññāṇe nissaraṇanti.
89. ''Kathaṃ pana, bhante, jānato kathaṃ passato imasmiñca
saviññāṇake kāye bahiddhā ca sabbanimittesu ahaṃkāramamaṃkāramānānusayā na
hontīti? ''yaṃ kiñci, bhikkhu, rūpaṃ : atītānāgatapaccuppannaṃ ajjhattaṃ vā
bahiddhā vā oḷārikaṃ vā sukhumaṃ vā hīnaṃ vā paṇītaṃ vā yaṃ dūre santike vā : sabbaṃ rūpaṃ 'netaṃ
mama, nesohamasmi, na meso attāti : evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya passati.
Yā kāci vedanā... yā kāci saññā... ye keci saṅkhārā... yaṃ kiñci viññāṇaṃ :
atītānāgatapaccuppannaṃ ajjhattaṃ vā bahiddhā vā oḷārikaṃ vā sukhumaṃ vā hīnaṃ
vā paṇītaṃ vā yaṃ dūre santike vā : sabbaṃ viññāṇaṃ 'netaṃ mama, nesohamasmi, na
meso attāti : evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya passati. Evaṃ kho, bhikkhu,
jānato evaṃ passato imasmiñca saviññāṇake kāye bahiddhā ca sabbanimittesu ahaṃkāramamaṃkāramānānusayā
na hontīti.
90. Atha kho
aññatarassa bhikkhuno evaṃ cetaso parivitakko udapādi : ''iti kira, bho, rūpaṃ
anattā, vedanā anattā, saññā anattā, saṅkhārā anattā, viññāṇaṃ anattā
anattakatāni kammāni kamattānaṃ [kathamattānaṃ (Saṃyutta Nikāye 3.82)]
phusissantīti? atha kho Bhagavā tassa bhikkhuno cetasā
cetoparivitakkamaññāya bhikkhū āmantesi : ''ṭhānaṃ kho panetaṃ, bhikkhave,
vijjati yaṃ idhekacco moghapuriso avidvā avijjāgato taṇhādhipateyyena cetasā
satthu sāsanaṃ atidhāvitabbaṃ maññeyya : 'iti kira, bho, rūpaṃ anattā, vedanā
anattā, saññā anattā, saṅkhārā anattā, viññāṇaṃ anattā anattakatāni kammāni
kamattānaṃ phusissantīti. Paṭivinītā [paṭicca vinītā (sī. pī.), paṭipucchāmi
vinītā (syā. kaṃ.)] kho me tumhe, bhikkhave , tatra tatra dhammesu. ''Taṃ
kiṃ maññatha, bhikkhave, rūpaṃ niccaṃ vā aniccaṃ vāti? ''aniccaṃ, bhante. ''Yaṃ
panāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vāti?
''dukkhaṃ, bhante. ''Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu taṃ
samanupassituṃ : 'etaṃ mama, esohamasmi, eso me attāti? ''no hetaṃ , bhante. ''Taṃ kiṃ
maññatha, bhikkhave, vedanā... saññā... saṅkhārā... viññāṇaṃ niccaṃ vā aniccaṃ
vāti? ''aniccaṃ, bhante. ''Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vāti? ''dukkhaṃ,
bhante. ''Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ
: 'etaṃ mama, esohamasmi, eso me attāti? ''no hetaṃ, bhante. ''Tasmātiha,
bhikkhave, yaṃ kiñci rūpaṃ atītānāgatapaccuppannaṃ ajjhattaṃ vā bahiddhā vā oḷārikaṃ
vā sukhumaṃ vā hīnaṃ vā paṇītaṃ vā yaṃ dūre santike vā sabbaṃ rūpaṃ : 'netaṃ
mama, nesohamasmi, na meso attāti evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya daṭṭhabbaṃ.
Yā kāci vedanā... yā kāci saññā... ye keci saṅkhārā... yaṃ kiñci viññāṇaṃ
atītānāgatapaccuppannaṃ ajjhattaṃ vā bahiddhā vā oḷārikaṃ vā sukhumaṃ vā hīnaṃ vā paṇītaṃ vā yaṃ
dūre santike vā sabbaṃ viññāṇaṃ : 'netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attāti
evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya daṭṭhabbaṃ. Evaṃ passaṃ, bhikkhave, sutavā
ariyasāvako rūpasmimpi nibbindati, vedanāyapi nibbindati, saññāyapi nibbindati,
saṅkhāresupi nibbindati, viññāṇasmimpi nibbindati nibbindaṃ virajjati , virāgā vimuccati.
Vimuttasmiṃ vimuttamiti ñāṇaṃ hoti. 'Khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ
karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyāti pajānātīti. Idamavoca Bhagavā. Attamanā
te bhikkhū bhagavato bhāsitaṃ abhinandunti. Imasmiñca pana veyyākaraṇasmiṃ
bhaññamāne saṭṭhimattānaṃ bhikkhūnaṃ anupādāya āsavehi cittāni vimucciṃsūti.
Mahāpuṇṇamasuttaṃ niṭṭhitaṃ
navamaṃ.
109. Mahāpuṇṇamasuttavaṇṇanā
[Atthakathā]
85. Evaṃ me sutanti mahāpuṇṇamasuttaṃ.
Tattha tadahūti tasmiṃ ahu, tasmiṃ divaseti attho. Upavasanti etthāti uposatho.
Upavasantīti sīlena vā anasanena vā upetā hutvā vasantīti attho. Ayaṃ panettha
atthuddhāro – ‘‘āyāma, āvuso, kappina, uposathaṃ gamissāmā’’tiādīsu hi
pātimokkhuddeso uposatho. ‘‘Aṭṭhaṅgasamannāgato kho visākhe uposatho
upavuttho’’tiādīsu (a. ni. 8.53) sīlaṃ. ‘‘Suddhassa ve sadā phaggu,
suddhassuposatho sadā’’tiādīsu (ma. ni. 1.79) upavāso. ‘‘Uposatho nāma
nāgarājā’’tiādīsu (dī. ni. 2.246) paññatti. ‘‘Na, bhikkhave, tadahuposathe
sabhikkhukā āvāsā’’tiādīsu (mahāva. 181) upavasitabbadivaso. Idhāpi soyeva adhippeto. So panesa aṭṭhamīcātuddasīpannarasībhedena tividho. Tasmā
sesadvayanivāraṇatthaṃ pannaraseti vuttaṃ. Tena vuttaṃ ‘‘upavasanti
etthāti uposatho’’ti. Māsapuṇṇatāya puṇṇā saṃpuṇṇāti puṇṇā. Mā-iti cando
vuccati, so ettha puṇṇoti puṇṇamā. Evaṃ puṇṇāya puṇṇamāyāti imasmiṃ
padadvaye attho veditabbo.
Desanti
kāraṇaṃ. Tena hi tvaṃ bhikkhu sake āsane nisīditvā pucchāti kasmā
bhagavā ṭhitassa akathetvā nisīdāpesīti. Ayaṃ kira bhikkhu saṭṭhimattānaṃ
padhāniyabhikkhūnaṃ saṅghatthero saṭṭhi bhikkhū gahetvā araññe vasati, te tassa
santike kammaṭṭhānaṃ gahetvā ghaṭenti vāyamanti. Mahābhūtāni pariggaṇhanti
upādārūpāni, nāmarūpapaccayalakkhaṇārammaṇikavipassanaṃ pariggaṇhanti. Atha ne
ācariyupaṭṭhānaṃ āgantvā vanditvā nisinne thero mahābhūtapariggahādīni
pucchati. Te sabbaṃ kathenti, maggaphalapañhaṃ pucchitā pana kathetuṃ na
sakkonti. Atha thero cintesi – ‘‘mama santike etesaṃ ovādassa parihāni natthi,
ime ca āraddhavīriyā viharanti. Kukkuṭassa pānīyapivanakālamattampi nesaṃ
pamādakiriyā natthi. Evaṃ santepi maggaphalāni nibbattetuṃ na sakkonti. Ahaṃ
imesaṃ ajjhāsayaṃ na jānāmi, buddhaveneyyā ete bhavissanti,
gahetvā ne satthu santikaṃ gacchāmi, atha nesaṃ satthā cariyavasena dhammaṃ
desessatī’’ti, te bhikkhū gahetvā satthu santikaṃ āgato.
Satthāpi sāyanhasamaye ānandattherena upanītaṃ udakaṃ ādāya sarīraṃ
utuṃ gaṇhāpetvā migāramātupāsādapariveṇe paññattavarabuddhāsane nisīdi,
bhikkhusaṅghopi naṃ parivāretvā nisīdi.
Tasmiṃ samaye
sūriyo atthaṅgameti, cando uggacchati, majjhaṭṭhāne ca bhagavā nisinno.
Candassa pabhā natthi, sūriyassa pabhā natthi, candimasūriyānaṃ pabhaṃ
makkhetvā chabbaṇṇā yamakabuddharasmiyo vijjotamānā puñjā puñjā hutvā
disāvidisāsu dhāvantīti sabbaṃ heṭṭhā vuttanayena vitthāretabbaṃ. Vaṇṇabhūmi
nāmesā, dhammakathikassevettha thāmo pamāṇaṃ, yattakaṃ sakkoti, tattakaṃ
kathetabbaṃ. Dukkathitanti na vattabbaṃ. Evaṃ sannisinnāya parisāya thero
uṭṭhahitvā satthāraṃ pañhassa okāsaṃ kāresi. Tato bhagavā – ‘‘sace imasmiṃ
ṭhitake pucchante ‘ācariyo no uṭṭhito’ti sesabhikkhū uṭṭhahissanti, evaṃ
tathāgate agāravo kato bhavissati. Atha nisinnāva pucchissanti, ācariye agāravo
kato bhavissati, ekaggā hutvā dhammadesanaṃ paṭicchituṃ na sakkuṇissanti.
Ācariye pana nisinne tepi nisīdissanti. Tato ekaggā dhammadesanaṃ paṭicchituṃ
sakkuṇissantī’’ti iminā kāraṇena bhagavā ṭhitassa akathetvā nisīdāpetīti.
Ime nu
kho, bhanteti vimatipucchā viya kathitā. Thero pana pañcakkhandhānaṃ
udayabbayaṃ pariggaṇhitvā arahattaṃ patto mahākhīṇāsavo,
natthi etassa vimati. Jānantenapi pana ajānantena viya hutvā pucchituṃ vaṭṭati.
Sace hi jānanto viya pucchati, ‘‘jānāti aya’’nti tassa tassa vissajjento
ekadesameva katheti. Ajānantena viya pucchite pana kathento ito ca etto ca
kāraṇaṃ āharitvā pākaṭaṃ katvā katheti. Koci pana ajānantopi jānanto viya
pucchati. Thero evarūpaṃ vacanaṃ kiṃ karissati, jānantoyeva pana ajānanto viya
pucchatīti veditabbo.
Chandamūlakāti
taṇhāmūlakā. Evaṃrūpo siyanti sace odāto hotukāmo,
haritālavaṇṇo vā manosilāvaṇṇo vā siyanti pattheti. Sace
kāḷo hotukāmo, nīluppalavaṇṇo vā añjanavaṇṇo vā atasīpupphavaṇṇo vā siyanti
pattheti. Evaṃvedanoti kusalavedano vā sukhavedano vā siyanti pattheti.
Saññādīsupi eseva nayo. Yasmā pana atīte patthanā nāma natthi, patthentenāpi ca
na sakkā taṃ laddhuṃ, paccuppannepi na hoti, na hi odāto kāḷabhāvaṃ patthetvā
paccuppanne kāḷo hoti, na kāḷo vā odāto, dīgho vā rasso, rasso vā dīgho, dānaṃ
pana datvā sīlaṃ vā samādiyitvā ‘‘anāgate khattiyo vā homi brāhmaṇo vā’’ti
patthentassa patthanā samijjhati. Tasmā anāgatameva gahitaṃ.
Khandhādhivacananti
khandhānaṃ khandhapaṇṇatti kittakena hotīti pucchati.
Mahābhūtā
hetūti ‘‘tayo kusalahetū’’tiādīsu (dha. sa. 1441) hi hetuhetu vutto. Avijjā
puññābhisaṅkhārādīnaṃ sādhāraṇattā sādhāraṇahetu. Kusalākusalaṃ attano attano
vipākadāne uttamahetu. Idha paccayahetu adhippeto. Tattha pathavīdhātu mahābhūtaṃ
itaresaṃ tiṇṇaṃ bhūtānaṃ upādārūpassa ca paññāpanāya
dassanatthāya hetu ceva paccayo ca. Evaṃ sesesupi yojanā veditabbā.
Phassoti
‘‘phuṭṭho, bhikkhave, vedeti, phuṭṭho sañjānāti, phuṭṭho cetetī’’ti (saṃ. ni.
4.93) vacanato phasso tiṇṇaṃ khandhānaṃ paññāpanāya hetu ceva paccayo ca. Viññāṇakkhandhassāti
ettha paṭisandhiviññāṇena tāva saddhiṃ gabbhaseyyakānaṃ uparimaparicchedena
samatiṃsa rūpāni sampayuttā ca tayo khandhā uppajjanti, taṃ nāmarūpaṃ
paṭisandhiviññāṇassa paññāpanāya hetu ceva paccayo ca. Cakkhudvāre cakkhupasādo
ceva rūpārammaṇañca rūpaṃ, sampayuttā tayo khandhā nāmaṃ. Taṃ nāmarūpaṃ
cakkhuviññāṇassa paññāpanāya hetu ceva paccayo ca. Eseva nayo sesaviññāṇesu.
87. Kathaṃ
pana, bhanteti idaṃ kittakena nu khoti vaṭṭaṃ pucchanto evamāha. Sakkāyadiṭṭhi
na hotīti idaṃ vivaṭṭaṃ pucchanto evamāha.
88. Ayaṃ
rūpe assādoti iminā
pariññāpaṭivedho ceva dukkhasaccañca kathitaṃ. Ayaṃ rūpe ādīnavoti iminā
pahānapaṭivedho ceva samudayasaccañca. Idaṃ rūpe nissaraṇanti iminā
sacchikiriyāpaṭivedho ceva nirodhasaccañca. Ye imesu tīsu ṭhānesu
sammādiṭṭhiādayo dhammā, ayaṃ bhāvanāpaṭivedho maggasaccaṃ. Sesapadesupi eseva
nayo.
89. Bahiddhāti
parassa saviññāṇake kāye. Sabbanimittesūti iminā pana anindriyabaddhampi
saṅgaṇhāti. ‘‘Saviññāṇake kāye’’ti vacanena vā attano ca parassa ca kāyo
gahitova, bahiddhā ca sabbanimittaggahaṇena anindriyabaddhaṃ gaṇhāti.
90. Anattakatānīti
anattani ṭhatvā katāni. Kamattānaṃ phusissantīti
katarasmiṃ attani ṭhatvā vipākaṃ dassentīti sassatadassanaṃ okkamanto evamāha. Taṇhādhipateyyenāti
taṇhājeṭṭhakena. Tatra tatrāti tesu tesu dhammesu. Saṭṭhimattānanti
ime bhikkhū pakatikammaṭṭhānaṃ jahitvā aññaṃ navakammaṭṭhānaṃ sammasantā
pallaṅkaṃ abhinditvā tasmiṃyeva āsane arahattaṃ pāpuṇiṃsu. Sesaṃ sabbattha
uttānamevāti.
Papañcasūdaniyā
majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Mahāpuṇṇamasuttavaṇṇanā
niṭṭhitā.
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
III Trắc Nghiệm
Trắc nghiệm 1. Chữ “uẩn” được hiểu với ý nghĩa nào sau đây?
. A. tất cả sắc hay thọ hay tưởng hay hành hay thức gì, quá khứ, vị lai hay hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần. /
B. Bao gồm những gì giống nhau /
C. Gồm những gì kết hợp nhau trong một sát na /
D. Những gì cùng hiện hữu
T Tuệ Siêu cho đáp án trắc nghiệm 1: B
Trắc nghiệm 2. Điều nào sau đây cho thấy sự chấp thủ bản ngã không có cơ sở khi nói về năm uẩn?
A. Bản ngã thì phải hằng hữu trong lúc năm uẩn luôn biến dịch /
B. Bản ngã chỉ có một trong lúc sự hiện hữu của mỗi chúng sanh, mỗi uẩn là kết cấu của nhiều thành tố /
C. Mỗi uẩn trong năm uẩn có tự tánh riêng. Không một quyền năng độc nhất nào có chủ quyền với tất cả hiện tượng /
D. Cả ba câu trên đều đúngTT Tuệ Siêu cho đáp án trắc nghiệm 2:D
No comments:
Post a Comment