Sunday, April 19, 2020

TU TẬP THỜI ĐẠI DỊCH. Ngày 19 tháng 4, 2020


TU TẬP THỜI ĐẠI DỊCH


Pháp thoại

PHẬT GIÁO VÀ KHOA HỌC
Trích từ “Phật Giáo, nền tảng của khoa học”
Hòa thượng Prayudh Payutto
Tỳ kheo Thích Tâm Quang dịch

[Tiếp theo]

SUY NGHĨ ĐÚNG CÁCH MÀ CŨNG LÀ ĐÚNG ĐẮN

Nhân tố thứ hai để giành đươc kiến thức là cách suy nghĩ đúng (chánh tư duy). Ðiều này có nghĩa tư duy phải có cách thức, hợp lý, phù hợp với nguyên nhân và điều kiện. Nhiều cách tư duy được ghi nhận trong Kinh Phật. Suy nghĩ thành thực là nhân tố quan trọng trong việc mở mang quan điểm đúng (chánh kiến), hiểu biết hay tầm nhìn xa thấy phù hợp với thực tế. Ðó là cách nhìn mọi sự theo nguyên nhân và điều kiện, hay hiểu thấu

nguyên tắc về nguyên nhân và điều kiện. Một số loại suy nghĩ chín chắn được giải thích trong kinh:

1.    Tìm nguyên nhân và điều kiện: Loại tư duy này là điều quan trọng nhất trong sự giác ngộ của Ðức Phật. Thí dụ để tìm ra sự thật về 'thọ' (cảm giác, cảm xúc), kinh nghiệm về lạc thú và đau đớn, Ngài hỏi: "Những cảm giác về lạc thú hay đau đớn tùy thuộc vào cái gì? Ðiều kiện của chúng là cái gì? "

Suy nghĩ như vậy, Ðức Phật thấy rằng do 'xúc', cảm giác của sự tiếp xúc, là điều kiện của cảm giác. "Bây giờ điều kiện của xúc là gì? Ðức Phật thấy sáu giác quan căn bản là điều kiện của xúc là......và vân vân...Trên đây là thí dụ về tư duy theo nguyên nhân và điều kiện.

2.    Tư duy bằng cách lý giải: Sự sống của cơ thể người có thể phân tách thành hai bộ phận cấu thành chính: thân và tâm. Thân và tâm sẽ được phân tách cặn kẽ hơn. Thí d?, tâm có thể phân tách thành thọ, tưởng, hành, thức (x), và mỗi loại như vậy lại được phân tách thành những bộ phận cấu thành nhỏ hơn. Thí dụ thọ có thể chia thành ba loại, năm loại, sáu loại hay hơn nữa. Ðiều trên được gọi là " tư duy bằng cách lý giải các bộ phân cấu thành', đó là cách phân chia toàn bộ bức tranh hay toàn bộ hệ thống, do đó mà những nguyên nhân và điều kiện liên hệ có thể nhận thấy dễ dàng hơn.

(x) Chúng là bốn uẩn tinh thần hợp với sắc hay dạng thức vật chất, hình thành toàn bộ của một đời sống.

3.    Tư duy về phương diện lợi và hại: Ðó là cách nhìn mọi sự bằng cách cân nhắc đặc tính của chúng, thấy được các chiều hướng trong đó chúng mang lại lợi ích hay gây tai hại cho chúng ta, không chỉ nhìn riêng về một mặt lợi hay môt mặt hại. Ða số có khuynh hướng chỉ nhìn lợi ích của những vần đề mà họ thích, hoặc cái gì sai của những vấn đề mà họ không thích. Phật Giáo nhìn vào mọi sự từ mọi phía, dạy cho chúng ta nhìn cả vào phần mang lợi ích lẫn phần tác hại của chúng.

Những loại tư duy như vậy vào khoảng mười loại được ghi trong các kinh. Chúng là một phần quan trọng trên cho con đuờng dẫn đến chân lý.

Trong nghĩa rộng, tư duy gồm cả cách nhận thức các vấn đề, nhận thức lúc ban đầu, và, giống như các dạng thức nhận thức, có thể chia thành hai nhóm chính - đó là tư duy cốt để để nhìn thấy chân lý, và tư duy trong phương cách đem lợi ích. Tuy nhiên tôi không mở rộng đề tài về điểm này vì điểm này đòi hỏi nhiều thì giờ.

Kế theo là phương pháp thứ ba để đạt chân lý trong Phật Giáo là xác minh qua kinh nghiệm bản thân. Một trong những nguyên tắc quan trọng trong Phật Giáo là chân lý có thể được biết và kiểm tra thông qua theo d‚i quan sát bằng kinh nghiệm trực tiếp. Thí dụ nhìn lại Kinh Kalama, người Kalama được Ðức Phật khuyên giảng không nên đơn giản tin vào mọi sự, tóm lại là "khi chính bạn đã nhìn thấy cái hay hay cái dở rồi thì phát triển cái hay và loại bỏ cái dở". Giáo lý này rõ ràng làm sáng tỏ cách thực hành căn cứ theo kinh nghiệm bản thân.

Nhìn vào cuộc đời Ðức Phật, chúng ta có thể thấy thấy pháp quán chiếu kinh nghiệm bản thân này trong suốt quá trình tu tập của chính Ngài. Khi Ngài rời cung điện tìm giác ngộ, Ngài đã thực hành các phuơng pháp tu tập thời bấy giờ: tu khổ hạnh, du già, nhập định và tĩnh tọa. Cả đến khi Ngài sống trong rừng, Ngài thực hành tất cả các phương cách thí nghiệm. Thí dụ, Ngài kể khi Ngài đã sống một mình trong rừng hoang như thế nào, do đó Ngài thể thử nghiệm sự sợ hãi. Trong đêm khuya, một cành cây gẫy có thể làm sợ hãi. Ðức Phật luôn luôn tìm hiểu những nguyên nhân gây sợ hãi.Dù trong bất cứ trạng huống nào, Ngài cũng vẫn giữ nguyên tư thế bình tĩnh cho đến khi vượt qua trạng huống đó. Ða số thường chạy trốn khi sợ hãi! Ðức Phật không chạy, Ngài ở đó cho đến khi Ngài vượt qua khó khăn ấy. Một thí dụ khác, sự thí nghiệm của Ðức Phật với tư tưởng tốt và xấu. Ngài thí nghiệm với tư duy của Ngài cho đến khi có thể làm các tư tưởng không tốt lắng xuống.

Ðức Phật dùng phương pháp chứng nghiệm bản thân suốt trong việc tu tập của Ngài. Khi Ngài dạy các đệ tử, Ngài dạy các đệ tử hãy đánh giá cẩn thận vị đạo sư trước khi tin vị ấy, vì niềm tin bao giờ cũng là phương tiện để phát triển trí tuệ. Ðức Phật dạy các đệ tử phải đánh giá cẩn thận các vị thầy, ngay cả chính Ðức Phật nữa, xem có triển vọng nào dẫn tới chân lý trong sự dạy dỗ của họ hay không, và cho đến động cơ giảng dạy của thầy có trong sáng hay không.

Thử nghiệm kiến thức của vị đạo sư có thể phán xét qua lời giảng của vị thầy có hợp lý hay không. Thử nghiệm chủ tâm của vị thầy có thể phán xét qua ý đồ của vị Thầy lúc giảng dạy. Có phải vị thầy giảng dạy vì ham thích được thưởng công? Phải chăng là muốn có sự biếu xén, hay một lợi lộc cá nhân vì giáo lý của mình, không phải là đem lợi ích cho người nghe. Nếu  sau khi đánh giá vị thầy, thấy tín nhiệm ta có thể tiếp nhận lời giáo huấn. Sự đánh giá và lượng định này tiến hành qua tất cả các mức độ quan hệ thầy-trò.

Chúng ta có thể nhìn vào lời dạy về Bốn Nguyên Tắc Ðịnh Tâm, nhấn mạnh vào thiền quán nội tâm. Khi tập thiền nội tâm, chúng ta lúc nào cũng phải xem xét và suy nghĩ sâu đến những kinh nghiệm đã đi vào nhận thức của ta khi chúng xuất hiện. Dù là cảm nghĩ thích thú hay không thích thú xuất hiện, dù tâm bị phiền muộn hay phấn khởi, Ðức Phật dạy hãy nhìn vào nó và nhận biết nó nẩy sanh, chuyển động và biến đi.

Dù là sự tu tập ở giai đoạn cao nhất, khi lượng định để xem một người đã giác ngộ hay chưa, hãy nhìn ngay vào tâm chúng ta, xem trong tâm còn tham sân si không, hơn là nhìn vào những dấu hiệu đặc biệt hay phép lạ.

Vì sự nhấn mạnh vào lãnh vực nghiên cứu trong Phật giáo và Khoa Học khác biệt trên phương diện quan sát, thí nghiệm và kiểm chứng nên kết quả trong hai phạm vi này cũng khác nhau. Khoa học cố gắng quan sát sự việc trong vũ trụ vật chất, dùng năm giác quan, với mục tiêu thao túng vũ trụ vật chất bên ngoài. Trong ngôn từ Phật Giáo chúng ta có thể nói Khoa Học tinh thông trong các lãnh vực vật lý và sinh học.

Mặt khác, Phật giáo nhấn mạnh việc nghiên cứu con người, thừa nhận kinh nghiệm qua tất cả giác quan, gồm cả giác quan thứ sáu, tâm. Mục tiêu tu tập của người Phật Tử là đạt được điều thiện cao nhất, và thấu hiểu chân lý thiên nhiên. Thậm chí trước khi đạt được mục tiêu, cũng có sự uốn nắn các vấn đề và những bước tiến trong sự phát triển con người. Vì lý do đó, lời dạy và phương pháp đề cập đến quan sát, thí nghiệm, kiểm chứng hiện tượng tinh thần cùng cách cư xử của con người. Trong thuật ngữ Phật Giáo chúng tôi có thể nói Phật Giáo có sức mạnh trong lãnh vực luân lý và tâm linh.

Nếu có thể hòa nhập các lãnh vực chuyên môn tương ứng của Khoa Học với Phật Giáo, gom thành quả lao động của cả hai lại, chúng ta có thể tiến đến một đường lối cân đối dẫn nhân loại phát triển tới mức độ cao hơn.

Những khác biệt trong phương pháp

Về vấn đề của ba phương pháp tìm kiến thức, chúng tôi muốn nhắm vào sự khác biệt giữa những phương pháp ấy trong Phật Giáo và Khoa Học.

Trước tiên, Khoa học sử dụng phương pháp thu thập kiến thức để tìm chân lý. Sự thâu thập kiến thức này hoàn toàn tách rời khỏi những quan tâm về cách sống con người, trong khi Phật Giáo, phương pháp đạt kiến thức là một phần của lối sống con người. Khoa Học không quan tâm gì đến cách sống con người, chỉ nhắm vào chân lý riêng cho nó, nhưng Phật Giáo, phương

pháp là một phần của lối sống- thực tế đó là lối sống- có ảnh hưởng tích cực đến đời sống ngay trong hiện tại. Thí dụ, hãy xét ảnh hưỏng của nhận thức thuần túy đến chất lượng đời sống, mà không có sự can thiệp của thích thú hay ghét bỏ. Sự nghiên cứu kiến thức của Phật Giáo tự nó có giá trị rất to lớn, không màng tới mục tiêu đạt được hay không.

Khoa Học lấy dữ kiện do kinh nghiệm phát xuất từ năm giác quan, trong khi Phật Giáo gồm cả kinh nghiệm của giác quan thứ sáu, tâm mà Khoa Học không thừa nhận. Phật Giáo cho rằng giác quan thứ sáu là một sự thật có thể kiểm chứng, Tuy nhiên, sự kiểm chứng chỉ thực sự được thực hiện qua những giác quan tương ứng với những dữ kiện của nó. Chẳng hạn muốn kiểm tra vị, ta phải dùng lưỡi; muốn kiểm tra âm thanh to nhỏ, ta phải dùng tai, chứ không phải mắt. Nếu muốn kiểm chứng mầu sắc, ta không thể dùng mũi được. Giác quan căn bản để xác minh dữ kiện phải tương ứng với loại dữ kiện được kiểm chứng.

Nếu giác quan thứ sáu không được thừa nhận, chúng ta sẽ mất đi một số dữ kiện to lớn vì có nhiều chứng nghiệm, cảm giác chỉ phát xuất từ tâm. Chẳng hạn chúng là những chứng nghiệm trong tâm, mà người ta có thể kinh qua  và xác minh như thuơng, ghét, sân hận và sợ hãi. Những cảm nhận này không thể xác minh hay chứng nghiệm qua những giác quan khác. Nếu ta cảm thấy tình thương trong tâm của chúng ta thì có thể tự mình xác minh được. Khi có sợ hãi hay giận dữ, hay cảm nghĩ thoải mái, an lạc, thỏa mãn, chúng ta biết trực tiếp từ tâm chúng ta.

Cho nên, trong Phật Giáo chúng tôi cho giác quan thứ sáu là tâm và sự tư duy của nó, một vai trò nổi bật đáng chú ý trong việc nghiên cứu kiến thức hay chân lý. Nhưng Khoa Học không thừa nhận giác quan thứ sáu, phải nhờ vào các dụng cụ thiết kế cho năm giác quan, chủ yếu là mắt và tai, cũng như điện não đồ để nghiên cứu tiến trình suy nghĩ.

Khoa học gia cho chúng ta biết trong tương lai họ có thể biết một người đang nghĩ gì đơn giản chỉ cần dùng một cái máy, hay phân tích các chất tiết ra từ bộ não. Những thứ như vậy có cơ sở thực tế, nhưng sự thật của các vấn đề ấy sẽ cho thấy, chắc chắn giống như Sir Arthur Eddington khám phá "Cái bóng của thế giới các ký hiệu". Không phải thực sự là chân lý mà chỉ là cái bóng của chân lý.

Ðiều trên cho thấy chân lý khoa học, giống như phương pháp khoa học, không hoàn hảo, vì nó chỉ chọc thủng một trong những qui tắc về quan sát.

Công cụ không phù hợp với dữ kiện. Chừng nào điều này vẫn còn đúng thì khoa học vẫn tiếp tục quan sát cái bóng của sự thật chân lý trong một thời gian dài sắp tới.

Về giác quan thứ sáu, tâm, cũng rất quan trọng trong khoa học. Khoa học chính nó phát triển do giác quan thứ sáu này, ngay từ lúc ban đầu cho đến nay gồm các mức độ thí nghiệm và tổng kết. Cơ bản có thể tin được là, trước khi bất cứ giác quan nào được sử dụng, khoa học gia phải dùng suy nghĩ. Khoa học gia phải thiết kế, hoạch định một phương pháp kiểm chứng, và một giả thiết. Tất cả những hoạt động đó đều là tiến trình trí tuệ, nó lệ thuộc tâm. Cả đến khi áp dụng thực tế cũng phải có tâm theo d‚i sát các sự kiện bằng nhận thức, ghi chép. Tâm là trọng tài, là vị quan tòa phán xét chấp nhận hay không chấp nhận những dữ kiện xuất hiện trong cuộc thí nghiệm.

Các giai đoạn quyết định của nghiên cứu khoa học, đánh giá và kết luận cuộc thí nghiệm, công thức của một lý thuyết vân vân..., tất cả đều do tiến trình tư tưởng Chúng ta có thể tin tưởng mà nói rằng những lý thuyết của khoa học là tất cả kết quả của tư duy, là thành quả của giác quan thứ sáu, trực tiếp cảm thấy. Phật Giáo thừa nhận sự quan trọng của giác quan thứ sáu như một nguồn mà qua đó những sự việc có thể được lĩnh hội qua giác quan thích hợp.

Ðiểm quan trọng là nhận thức đó phải được nhận đúng do giác quan liên hệ. Ðiều gì nhận thức bằng mắt, mắt phải nhận thức. điều gì nhận thức bằng lưỡi, lưỡi phải nhận thức. Cũng lẽ đó, điều gì phải nhận thức bằng tâm, không thể nhận thức bằng mắt, tai hay bất cứ giác quan nào ngoài tâm ra.

Sự thật của tâm là tiến trình nguyên nhân và kết quả có thể kiểm chứng được. Nó lệ thuộc các qui luật tự nhiên. Dù có vẻ rất phức tạp và khó khăn theo dõi, Phật Giáo dạy tâm cũng tuân theo dòng nguyên nhân và điều kiện, giống như tất cả hiện tượng thiên nhiên khác.

Trong thế giới vật chất, hay vật lý, điều phải công nhận là tất cả sự vật hiện hữu đều do nguyên nhân và các điều kiện, nhưng trong những điều kiện hết sức phức tạp, khó có thể tiên đoán hay theo d‚i sự việc. Một thí dụ đơn giản như dự báo thời tiết được công nhận là việc làm rất khó khăn, vì có quá nhiều thay đổi. Sự nối tiếp của nguyên nhân và điều kiện trong tâm lại càng phức tạp hơn những yếu tố về thời tiết, làm tiên đoán kết quả lại càng khó hơn nữa.

Con người là một phần của thiên nhiên chứa đựng tất cả thiên nhiên trong con người. Nếu có thể mở mắt và nhìn, người ta có thể đạt được chân lý tự nhiên như một chứng nghiệm trực tiếp. Dùng máy móc khoa học, một hình thức mở rộng năm giác quan, là cách làm vòng. Nó chỉ có thể xác minh sự thật ở một mức độ nào đó, chỉ đủ để chinh phục thiên nhiên và thế giới bên ngoài (tới một mức độ nào đó), nhưng không thể dẫn con người đến chân lý toàn vẹn của sự thật.

Cho đến nay chúng tôi đã đề cập đến những khác biệt và tương đồng trong tầm hoạt động và đối tượng của Phật Giáo và Khoa Học, loại kiến thức đang tìm kiếm, những phương pháp sử dụng để tìm kiến thức, việc sử dụng kiến thức đạt được và toàn bộ mục tiêu của kiến thức. Mặc dù phương pháp để tìm hoạt động và việc đặt tầm quan trọng, nhưng những phương pháp ấy đưa đến sự dị biệt về tầm xa và trong việc mở rộng, vì chân lý được nghiên cứu lại khác hẳn nhau.


[còn tiếp]


Kinh tụng

Kinh Châu Báu
Ratanasutta
Yānīdha bhūtāni samāgatāni
Bhummāni vā yāniva antalikkhe
Sabbe va bhūtā sumanā bhavantu
Athopi sakkacca suṇantu bhāsitaṃ
Tasmā hi bhūtāni sāmetha sabbe
Mettaṃ karotha mānusiyā pajāya
Divā ca ratto ca haranti ye baliṃ
Tasmā hi ne rakkhatha appamattā

Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Mong khởi lòng hoan hỷ
Thành kính nghe lời nầy
Rồi với tâm bi mẫn
Năng hộ trì nhơn loại
Vốn đêm ngày hồi hướng
Phước lành đến chư thiên

Yaṅkiñci vittaṃ idha vā huraṃ vā
Saggesu vā yaṃ ratanaṃ paṇītaṃ
Na no samaṃ atthi tathāgatena
Idampi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
Etena saccena suvatthi hotu.
Những vật quí trong đời
Chốn nầy hay nơi khác
Cả châu báu cõi trời
Không gì sánh bằng được
Với Như Lai Thiện Thệ
Do vậy chính đức Phật
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Khayaṃ virāgaṃ amataṃ paṇītaṃ
yadajjhagā sakyamunī samāhito
Na tena dhammena samatthi kiñci
idaṃ pi dhamme ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu

Pháp bất tử tối thượng
Ly dục diệt phiền não
Phật Thích Ca Mâu Ni
Chứng pháp ấy trong thiền
Không gì sánh bằng được
Pháp thiền vi diệu ấy
Do vậy chính Chánh Pháp
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Yaṃ buddhaseṭṭho parivaṇṇayī suciṃ
samādhimānantarikaññamāhu
samādhinā tena samo na vijjati
idaṃ pi dhamme ratanaṃ paṇītam
etena saccena suvatthi hotu

Con đường thanh lọc tâm
Là tu tập thiền định
Chứng hiện tại lạc trú
Ðức Phật hằng ngợi khen
Không gì so sánh được
Do vậy chính Chánh Pháp
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc


Ye puggalā aṭṭhasataṃ pasaṭṭhā
cattāri etāni yugāni honti
te dakkhiṇeyyā sugatassa sāvakā
etesu dinnāni mahapphalāni
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu

Thánh tám vị bốn đôi
Là những bậc ứng cúng
Ðệ tử đấng Thiện Thệ
Ðược trí giả tán thán
Cúng dường đến các ngài
Hưởng vô lượng công đức
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc


Ye suppayuttā manasā daḷhena
nikkāmino gotamasāsanamhi
te pattipattā amataṃ vigayha
laddhā mudhā nibbutiṃ bhuñjamānā
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu

Bậc tu hành thiểu dục
Với ý chí kiên trì
Khéo chơn chánh phụng hành
Lời dạy đức Ðiều Ngự
Chứng đạt quả giải thoát
Thể nhập đạo bất tử
Lạc trú quả tịch tịnh
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Yathindakhīlo paṭhaviṃ sito siyā
catubbhi vātebhi asampakampiyo
tathūpamaṃ suppurisaṃ vadāmi
yo ariyasaccāni aveccapassati
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu

Ví như cột trụ đá
Khéo chôn chặt xuống đất
Dầu bốn hướng cuồng phong
Cũng không thể lay động
Ta nói bậc chân nhân
Liễu ngộ tứ thánh đế
Cũng tự tại bất động
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc


Ye ariyasaccāni vibhāvayanti
gambhīrapaññena sudesitāni
kiñcāpi te honti bhusappamattā
na te bhavaṃ aṭṭhamamādiyanti
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu

Bậc thánh tu đà huờn
Chứng tri lý thánh đế
Ðược đức Gô Ta Ma
Khéo thuyết giảng tường tận
Các ngài dù phóng dật
Thì cũng không bao giờ
Tái sanh kiếp thứ tám
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Sahāvassa dassanasampadāya
tayassu dhammā jahitā bhavanti
sakkāyadiṭṭhi vicikicchitañca
sīlabbataṃ vāpi yadatthi kiñci
catūhapāyehi ca vippamutto
cha cābhiṭṭhānāni abhabbo kātuṃ
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu

Nhờ chứng đạt chánh trí
Ðọan trừ ba kiết sử
Thân kiến và hoài nghi
Luôn cả giới cấm thủ
Thoát khỏi bốn đọa xứ
Bậc nhập lưu không tạo
Sáu bất thiện trọng nghiệp
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc


Kiñcāpi so kammaṃ karoti
pāpakaṃ kāyena vācāyuda cetasā vā
abhabbo so tassa paṭicchadāya
abhabbatā diṭṭhapadassa vuttā
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇtītaṃ
etena saccena suvatthi hotu

Bậc thánh tu đà huờn
Dù vô tâm phạm lỗi
Bằng thân lời hay ý
Cũng không hề che dấu
Ðược xứng danh hiền thánh
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc
Vanappagumbe yathā phussitagge
gimhānamāse paṭhamasmiṃ gimhe
tathūpamaṃ dhammavaraṃ adesayi
nibbānagāmiṃ paramaṃ hitāya
idaṃ pi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu

Ðức Thế Tôn thuyết giảng
Pháp đưa đến niết bàn
Tịnh lạc và thù thắng
Lợi ích chúng hữu tình
Ví như mưa đầu hạ
Khiến ngàn cây đâm chồi
Do vậy chính đức Phật
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Varo varaññū varado varāharo
anuttaro dhammavaraṃ adesayi
Idaṃ pi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu

Ðức Phật bậc vô thượng
Liễu thông pháp vô thượng
Ban bố pháp vô thượng
Chuyển đạt pháp vô thượng
Tuyên thuyết pháp vô thượng
Do vậy chính đức Phật
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Khīṇaṃ purāṇaṃ navaṃ natthisambhavaṃ
virattacittāyatike bhavasmiṃ
te khīṇabījā aviruḷhichandā
nibbanti dhīrā yathāyampadīpo
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ panītaṃ
etena saccena suvatthi hotu

Nhân quá khứ đã đoạn
Mầm tương lai không gieo
Với tâm không ái chấp
Trong sanh hữu đời sau
Bởi tham muốn đã đọan
Các chủng tử không còn
Ví như ngọn đèn tắt
Bậc trí chứng niết bàn
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

[phân đoạn 14, 15, 16]
Yānīdha bhūtāni samāgatāni
bhummāni vā yāniva antalikkhe
tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ
buddhaṃ namassāma suvatthi hotu

Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Hãy chí thành đảnh lễ
Ðức Phật bậc như lai
Ðược chư thiên nhân loại
Ðảnh lễ và cúng dường
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Yānīdha bhūtāni samāgatāni
bhummāni vā yāniva antalikhe
tathāgataṃ devamanussapùjitaṃ
dhammaṃ namassāma suvatthi hotu

Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Hãy chí thành đảnh lễ
Chánh Pháp đạo như chân
Ðược chư thiên nhân loại
Ðảnh lễ và cúng dường
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Yanītha bhūtāni samāgatāni
bhummāni vā yāniva antalikkhe
tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ
saṅghaṃ namassāma suvatthi hotu

Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Hãy chí thành đảnh lễ
Tăng Chúng bậc như đức
Ðược chư thiên nhân loại
Ðảnh lễ và cúng dường
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc


No comments:

Post a Comment