Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikaya
Giảng sư: TT Giác Đẳng
GIÁO TRÌNH TRUNG BỘ KINH HƯỚNG DẪN BÀI HỌC NGÀY 27/4/2020
111. Kinh Bất Ðoạn (Anupada Sutta)
Chữ anupada
có nghĩa là “từng bước một” đây là từ mà Đức Phật dùng để nói về sự hành trình
giác ngộ giải thoát của tôn giả Sàriputta, vị thượng thủ thinh văn đệ nhất về
trí tuệ. Trong quá trình tu chứng nầy tôn giả đã quán chiếu từng bước một bằng
tuệ giác, một sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chỉ và quán để cuối cùng đạt đến chỗ
viên mãn giác ngộ với chánh trí tuyệt luân.
1044. Lời ngợi khen cao tột của Bậc Đạo Sư
Tôn giả
Sāriputta là bậc thượng thủ thinh văn đệ nhất trí tuệ của Đức Phật. Với những
ngôn từ mỹ diệu, cao tột Đức Phật tán thán trí tuệ của người đệ tử nầy:
Như vầy
tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở
Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà-lâm), tinh xá ông Anathapindika (Cấp
Cô Ðộc). Ở đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo"
--"Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các vị Tỷ- kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn. Thế Tôn nói như sau:
-- Này các Tỷ-kheo, Sariputta
(Xá-lợi-phất) là bậc Hiền trí; này các Tỷ-kheo, Sariputta là bậc Ðại tuệ;
này các Tỷ-kheo, Sariputta là bậc Quảng tuệ; này các Tỷ-kheo, Sariputta là
bậc Hỷ tuệ (Hasupanna); này các Tỷ-kheo, Sariputta là bậc Tiệp tuệ
(javanapanna); này các Tỷ-kheo, Sariputta là bậc Lợi tuệ (tikkhapanna); này
các Tỷ-kheo, Sariputta là bậc Quyết trạch tuệ (nibbedhikapanna).
1045. Tuệ
giác quán chiếu từng bước chân đi tới
Thiền định
từ sắc giới đến vô sắc giới và cuối cùng là diệt thọ tưởng định được Tôn giả Sāriputta
khéo tu tập và chứng đắc. Chẳng những vậy mà ở mỗi thiền chứng Ngài đã dùng thắp
sáng tuệ giác bằng sự quán chiếu để nhận ra bản chất vô thường vô ngã của các hành.
Đây là sự kết hợp tuyệt đỉnh của hai pháp chỉ và quán:
Này các Tỷ-kheo, cho đến nửa
tháng, Sariputta quán bất đoạn pháp quán. Này các Tỷ-kheo, đây là do bất
đoạn pháp quán của Sariputta:
Ở đây, này các Tỷ-kheo,
Sariputta ly dục, ly bất thiện pháp, chứng đạt và an trú sơ Thiền, một
trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ.
Và những pháp thuộc về Thiền
thứ nhất như tầm, tứ, hỷ, lạc, nhứt tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư,
tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ý; các pháp ấy được an
trú bất đoạn. Các pháp ấy được Sariputta biết đến khi chúng khởi lên,
được Sariputta biết đến khi an trú, được Sariputta biết đến khi đoạn
diệt. Sariputta biết rõ như sau: "Như vậy các pháp ấy trước không
có nơi ta, nay có hiện hữu, sau khi hiện hữu, chúng đoạn diệt".
Sariputta đối với những pháp ấy, cảm thấy không luyến ái, không chống
đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm
không có hạn chế. Sariputta biết: "Còn có sự giải thoát hơn thế
nữa. Ðối với Sariputta, còn có nhiều việc phải làm hơn nữa".
Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Sariputta diệt tầm và tứ, chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng
thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhứt tâm. Và
những pháp thuộc về Thiền
thứ hai như nội tĩnh, hỷ, lạc, nhứt tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư,
tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ý, những pháp ấy được
an trú bất đoạn. Các pháp ấy được Sariputta biết đến khi chúng khởi
lên, được Sariputta biết đến khi chúng an trú, được Sariputta biết đến
khi chúng đoạn diệt. Sariputta biết rõ như sau: "Như vậy các pháp
ấy trước không có nơi ta, nay có hiện hữu, sau khi hiện hữu, chúng
đoạn diệt". Sariputta đối với những pháp ấy, không luyến ái, không
chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú
với tâm không có hạn chế. Sariputta biết: "Còn có sự giải thoát hơn
thế nữa. Ðối với Sariputta, còn có nhiều việc phải làm hơn thế
nữa".
Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Sariputta ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà
các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú Thiền thứ ba.
Và những pháp thuộc về Thiền
thứ ba, như xả, lạc, niệm, tỉnh giác, nhứt tâm, và xúc, thọ, tưởng,
tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, xả, tác ý; những pháp ấy được
Sariputta an trú bất đoạn, các pháp ấy được Sariputta biết đến khi chúng
khởi lên, được Sariputta biết đến khi chúng an trú, được Sariputta biết
đến khi chúng đoạn diệt. Sariputta đối với những pháp ấy, không luyến
ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát không hệ lụy,
an trú với tâm không có hạn chế. Sariputta biết: "Còn có sự giải
thoát hơn thế nữa. Ðối với Sariputta, còn có nhiều việc phải làm hơn
thế nữa".
Lại nữa này các Tỷ-kheo,
Sariputta xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú
Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm, thanh tịnh.
Và những pháp thuộc về Thiền
thứ tư, như xả, bất khổ bất lạc thọ, thọ (passivedana), vô quán niệm
tâm (Cetaso anabhogo), thanh tịnh nhờ niệm, nhứt tâm, và xúc, thọ,
tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ý; những
pháp ấy được Sariputta an trú bất đoạn, các pháp ấy được Sariputta
biết đến khi chúng khởi lên, được Sariputta biết đến khi chúng an trú,
được Sariputta biết đến khi chúng đoạn diệt. Sariputta đối với những
pháp ấy, không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc,
giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế. Sariputta
biết: "Còn có sự giải thoát hơn thế nữa. Ðối với Sariputta, còn có
nhiều việc phải làm hơn thế nữa".
Lại nữa này các Tỷ-kheo,
Sariputta vượt lên hoàn toàn sắc tưởng, diệt trừ mọi chướng ngại
tưởng, không tác ý đối với dị tưởng, nghĩ rằng: "Hư không là vô
biên", chứng và trú Không vô biên xứ.
Và những pháp thuộc về Không
vô biên xứ như hư không, vô biên xứ tưởng, nhứt tâm, và xúc, thọ,
tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ý; những
pháp ấy được Sariputta an trú bất đoạn, các pháp ấy được Sariputta
biết đến khi chúng khởi lên, được Sariputta biết đến khi chúng an trú,
được Sariputta biết đến khi chúng đoạn diệt. Sariputta đối với những
pháp ấy, không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc,
giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế. Sariputta
biết: "Còn có sự giải thoát hơn thế nữa. Ðối với Sariputta, còn có
nhiều việc phải làm hơn thế nữa".
Lại nữa này các Tỷ-kheo,
Sariputta vượt lên hoàn toàn Không vô biên xứ, nghĩ rằng: "Thức là
vô biên", chứng và trú Thức vô biên xứ.
Và những pháp thuộc về Thức
vô biên xứ như Thức vô biên xứ tưởng, nhất tâm, và xúc, thọ, tưởng,
tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ý; những pháp ấy
được Sariputta an trú bất đoạn; các pháp ấy được Sariputta biết đến
khi chúng khởi lên, được Sariputta biết đến khi chúng đoạn diệt.
Sariputta đối với những pháp ấy không luyến ái, không chống đối, độc lập,
không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn
chế. Sariputta biết: "Còn có sự giải thoát hơn thế nữa. Ðối với
Sariputta, còn có nhiều việc phải làm hơn thế nữa".
Lại nữa này các Tỷ-kheo,
Sariputta vượt lên hoàn toàn Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: "Không có vật
gì", chứng và trú Vô sở hữu xứ.
Và những pháp thuộc về Vô sở
hữu xứ, như Vô sở hữu xứ tưởng, nhứt tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư,
tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ý; những pháp ấy được
Sariputta an trú bất đoạn; các pháp ấy được Sariputta biết đến khi chúng
khởi lên, được Sariputta biết đến khi chúng an trú, được Sariputta biết
đến khi chúng đoạn diệt. Sariputta đối với những pháp ấy không luyến
ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ
lụy, an trú với tâm không có hạn chế. Sariputta biết: "Còn có sự
giải thoát hơn thế nữa. Ðối với Sariputta, còn có nhiều việc phải làm
hơn thế nữa".
Lại nữa này các Tỷ-kheo,
Sariputta vượt lên hoàn toàn Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi
phi tưởng xứ.
Với chánh niệm, Sariputta xuất
khỏi định ấy. Sau khi với chánh niệm xuất khỏi định ấy, Sariputta
thấy các pháp ấy thuộc về quá khứ, bị đoạn diệt, bị biến hoại:
"Như vậy các pháp ấy trước không có nơi ta, nay có hiện hữu, sau
khi hiện hữu chúng đoạn diệt". Sariputta đối với những pháp ấy
cảm thấy không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc,
giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không hạn chế.
Sariputta biết: "Còn có sự
giải thoát hơn thế nữa. Ðối với Sariputta, còn có nhiều việc phải làm
hơn thế nữa".
Lại nữa này các Tỷ-kheo,
Sariputta vượt khỏi hoàn toàn Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và an
trú Diệt thọ tưởng (định). Sau khi thấy với trí tuệ, các lậu hoặc
được đoạn tận.
1046. Bậc
trưởng tử ưu tú của Đức Điều Ngự
Tôn giả Sāriputta
chẳng những là bậc thượng trí trong hàng đệ tử ưu việt của Đúc Phật mà còn được
xem là người hoàn toàn có tư cách thay mặt Đức Phật quảng diễn chánh pháp:
Với chánh niệm, Sariputta xuất
khỏi định ấy. Sau khi với chánh niệm xuất khỏi định ấy, Sariputta
thấy các pháp ấy thuộc về quá khứ, bị đoạn diệt, bị biến hoại:
"Như vậy các pháp ấy, trước không có nơi ta, sau có hiện hữu, sau
khi hiện hữu, chúng đoạn diệt". Sariputta đối với các pháp ấy cảm
thấy không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải
thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không hạn chế. Sariputta biết:
"Không có sự giải thoát nào vô thượng hơn thế nữa. Ðối với
Sariputta, không có việc phải làm nhiều hơn thế nữa".
Này các Tỷ-kheo, nếu nói một
cách chơn chánh, một người có thể nói về người ấy như sau:
"Người này được tự tại, được cứu cánh trong Thánh giới, được
tự tại, được cứu cánh trong Thánh định, được tự tại, được cứu cánh
trong Thánh tuệ, được tự tại, được cứu cánh trong Thánh giải thoát.
Nói một cách chơn chánh về Sariputta, người ấy có thể nói như sau:
"Sariputta được tự tại, được cứu cánh trong Thánh giới, được tự
tại, được cứu cánh trong Thánh định, được tự tại, được cứu cánh
trong Thánh tuệ, được tự tại, được cứu cánh trong Thánh giải
thoát".
Này các Tỷ-kheo, nếu nói một
cách chơn chánh, một người có thể nói về người ấy như sau:
"Người này là con chánh tông của Thế Tôn, sanh ra từ miệng, sanh ra
từ Pháp, do Pháp hóa thành, thừa tự Chánh pháp, không thừa tự vật
chất". Nói một cách chơn chánh về Sariputta, người ấy có thể nói
như sau: "(Sariputta) là con chánh tông của Thế Tôn, sanh ra từ miệng,
sanh ra từ Pháp, do Pháp hóa thành, thừa tự Chánh pháp, không thừa tự vật
chất".
Sariputta, này các Tỷ-kheo, chơn
chánh chuyển Pháp luân vô thượng đã được Như Lai chuyển vận.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Các vị Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
-ooOoo-
Kinh số 111 [tóm tắt]
Kinh Bất Đoạn
(Anupada Sutta)
(M.Iii, 25)
Đức Thế Tôn tán thán Sāriputta
là bậc hiền trí, bậc Đại tuệ, bậc Quảng tuệ, bậc Hỷ tuệ, bậc Tiệp
tuệ, bậc Lợi tuệ, bậc Quyết trạch tuệ. Ngài kể lại quá trình tu
chứng A-la-hán quả của Tôn giả Sāriputta trong nửa tháng bằng pháp “Bất
đoạn pháp quán”.
Sāriputta ly dục, ly bất thiện
pháp, chứng và trú Sơ thiền. Những pháp thuộc Sơ thiền như: tầm, tứ,
hỷ, lạc, nhất tâm và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh
tấn, niệm, xả, lạc, ý, được Sāriputta biết đến khi khởi, trú và diệt.
Đối với những pháp ấy, Sāriputta không thích thú, không hệ lụy, được
giải thoát và biết rằng còn nhiều việc phải làm. Tuần tự, Sāriputta
chứng và trú Nhị thiền, xả Nhị thiền chứng và trú Tam thiền, Tứ
thiền, Không vô biên, Thức vô biên, Vô sở hữu, Phi tưởng phi phi tưởng
xứ. Vượt khỏi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Tôn giả chứng và trú diệt
thọ tưởng định và với chánh niệm, xuất khỏi định ấy. Sāriputta đối
với các pháp ấy không luyến ái, không chống đối, độc lập, an trú với
tâm không hạn chế, biết rằng: “Không có sự giải thoát nào vô thượng
hơn nữa!” Đối với Sāriputta không còn gì phải làm!
Rồi Thế Tôn kết luận,
Sāriputta là con chánh tông của Thế Tôn, từ miệng Phật sanh, từ Pháp hóa
sanh, thừa tự Chánh pháp. Sāriputta chuyển pháp luân của Như Lai.
-ooOoo-
Kinh Số 111 [dàn ý]
Kinh Bất Đoạn
(Anupada Sutta)
(M.iii, 25)
A. Duyên
khởi:
Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo rồi thuyết
giảng.
B. Chánh
kinh:
Thế
Tôn tán thán trí tuệ Tôn giả Sriputta.
Thế
Tôn tán thán bất đoạn pháp quán của Tôn giả Sriputta về sơ thiền.
Thế
Tôn tán thán bất đoạn pháp của Tôn giả Sriputta về thiền thứ hai.
Thế
Tôn tán thán bất đoạn pháp quán của Tôn giả Sriputta về thiền thứ ba.
Thế
Tôn tán thán bất đoạn pháp quán của Tôn giả Sriputta về thiền thứ tư.
Thế
Tôn tán thán bất đoạn pháp quán của Tôn giả Sriputta về Không vô biên xứ.
Thế
Tôn tán thán bất đoạn pháp quán của Tôn giả Sriputta về Thức vô biên xứ.
Thế
Tôn tán thán bất đoạn pháp quán của Tôn giả Sriputta về Vô sở hữu xứ.
Thế
Tôn tán thán bất đoạn pháp quán của Tôn giả Sriputta về Phi tưởng phi phi tưởng
xứ.
Thế
Tôn tán thán bất đoạn pháp quán của Tôn giả Sriputta về Diệt thọ tưởng định.
Thế
Tôn tán thán Tôn giả Sriputta là cứu cánh trong Thánh giới, Thánh định, Thánh
tuệ, là con chánh tông của Thế Tôn, thừa tự Chánh pháp, không thừa tự vật chất
và chơn chánh chuyển Pháp luân vô thượng đã được Như Lai chuyển vận.
C. Kết luận:
Các Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ lời dạy
Thế Tôn.
-ooOoo-
111.
Anupadasuttaṃ [Mūla]
93. Evaṃ me sutaṃ
: ekaṃ samayaṃ Bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa
ārāme. Tatra kho Bhagavā bhikkhū āmantesi : ''bhikkhavoti. ''Bhadanteti
te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ. Bhagavā etadavoca : ''paṇḍito, bhikkhave,
sāriputto mahāpañño, bhikkhave, sāriputto puthupañño, bhikkhave, sāriputto
hāsapañño [hāsupañño (sī. pī.)], bhikkhave, sāriputto javanapañño, bhikkhave,
sāriputto tikkhapañño, bhikkhave, sāriputto nibbedhikapañño, bhikkhave,
sāriputto sāriputto, bhikkhave, aḍḍhamāsaṃ anupadadhammavipassanaṃ vipassati.
Tatridaṃ, bhikkhave, sāriputtassa anupadadhammavipassanāya hoti.
94. ''Idha, bhikkhave, sāriputto vivicceva kāmehi vivicca
akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ
upasampajja viharati. Ye ca paṭhame jhāne [paṭhamajjhāne (ka. sī. pī. ka.)]
dhammā vitakko ca vicāro ca pīti ca sukhañca cittekaggatā ca, phasso vedanā
saññā cetanā cittaṃ chando adhimokkho vīriyaṃ sati upekkhā manasikāro : tyāssa
dhammā anupadavavatthitā honti. Tyāssa dhammā viditā uppajjanti, viditā upaṭṭhahanti,
viditā abbhatthaṃ gacchanti. So evaṃ pajānāti : 'evaṃ kirame dhammā ahutvā sambhonti, hutvā paṭiventīti.
So tesu dhammesu anupāyo anapāyo anissito appaṭibaddho [appaṭibandho (ka.)]
vippamutto visaṃyutto vimariyādīkatena cetasā viharati. So 'atthi uttari
nissaraṇanti pajānāti. Tabbahulīkārā atthitvevassa [atthitevassa (sī. pī.)]
hoti. ''Puna caparaṃ, bhikkhave, sāriputto vitakkavicārānaṃ vūpasamā ajjhattaṃ
sampasādanaṃ cetaso ekodibhāvaṃ avitakkaṃ avicāraṃ samādhijaṃ pītisukhaṃ dutiyaṃ jhānaṃ
upasampajja viharati. Ye ca dutiye jhāne dhammā : ajjhattaṃ sampasādo ca pīti
ca sukhañca cittekaggatā ca, phasso vedanā saññā cetanā cittaṃ chando adhimokkho vīriyaṃ sati upekkhā
manasikāro : tyāssa dhammā anupadavavatthitā honti. Tyāssa dhammā viditā
uppajjanti, viditā upaṭṭhahanti, viditā abbhatthaṃ gacchanti. So evaṃ pajānāti
: 'evaṃ kirame dhammā ahutvā sambhonti, hutvā paṭiventīti. So tesu dhammesu
anupāyo anapāyo anissito appaṭibaddho vippamutto visaṃyutto vimariyādīkatena
cetasā viharati. So 'atthi uttari nissaraṇanti pajānāti. Tabbahulīkārā
atthitvevassa hoti. ''Puna caparaṃ, bhikkhave, sāriputto pītiyā ca virāgā
upekkhako ca viharati sato ca sampajāno, sukhañca kāyena paṭisaṃvedeti. Yaṃ taṃ
ariyā ācikkhanti : 'upekkhako satimā sukhavihārīti tatiyaṃ jhānaṃ upasampajja
viharati. Ye ca tatiye jhāne dhammā : sukhañca
sati ca sampajaññañc cittekaggatā ca, phasso vedanā saññā cetanā cittaṃ
chando adhimokkho vīriyaṃ sati upekkhā manasikāro : tyāssa dhammā
anupadavavatthitā honti, tyāssa dhammā viditā uppajjanti, viditā upaṭṭhahanti,
viditā abbhatthaṃ gacchanti. So evaṃ pajānāti : 'evaṃ kirame dhammā ahutvā
sambhonti, hutvā paṭiventīti. So tesu dhammesu anupāyo anapāyo anissito appaṭibaddho
vippamutto visaṃyutto vimariyādīkatena cetasā viharati. So 'atthi uttari
nissaraṇanti pajānāti. Tabbahulīkārā atthitvevassa hoti.
''Puna caparaṃ, bhikkhave, sāriputto sukhassa ca pahānā
dukkhassa ca pahānā pubbeva somanassadomanassānaṃ atthaṅgamā adukkhamasukhaṃ
upekkhāsatipārisuddhiṃ catutthaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. Ye ca catutthe
jhāne dhammā : upekkhā adukkhamasukhā vedanā passaddhattā cetaso anābhogo
satipārisuddhi cittekaggatā ca, phasso vedanā saññā cetanā cittaṃ chando
adhimokkho vīriyaṃ sati upekkhā manasikāro : tyāssa dhammā anupadavavatthitā
honti. Tyāssa dhammā viditā uppajjanti, viditā upaṭṭhahanti, viditā abbhatthaṃ gacchanti. So evaṃ pajānāti : 'evaṃ
kirame dhammā ahutvā sambhonti, hutvā paṭiventīti. So tesu dhammesu anupāyo
anapāyāe anissito appaṭibaddho vippamutto visaṃyutto vimariyādīkatena cetasā viharati. So 'atthi uttari nissaraṇanti
pajānāti. Tabbahulīkārā atthitvevassa hoti. ''Puna caparaṃ, bhikkhave, sāriputto sabbaso
rūpasaññānaṃ samatikkamā paṭighasaññānaṃ atthaṅgamā nānattasaññānaṃ amanasikārā
'ananto ākāsoti ākāsānañcāyatanaṃ upasampajja viharati. Ye ca ākāsānañcāyatane
dhammā : ākāsānañcāyatanasaññā ca cittekaggatā ca phasso vedanā saññā cetanā
cittaṃ chando adhimokkho vīriyaṃ sati upekkhā manasikāro : tyāssa dhammā
anupadavavatthitā honti. Tyāssa dhammā viditā uppajjanti, viditā upaṭṭhahanti,
viditā abbhatthaṃ gacchanti. So evaṃ pajānāti : 'evaṃ kirame dhammā ahutvā
sambhonti, hutvā paṭiventīti. So tesu dhammesu anupāyo anapāyo anissito appaṭibaddho
vippamutto visaṃyutto vimariyādīkatena cetasā viharati. So 'atthi uttari
nissaraṇanti pajānāti. Tabbahulīkārā atthitvevassa hoti. ''Puna caparaṃ,
bhikkhave, sāriputto sabbaso ākāsānañcāyatanaṃ samatikkamma 'anantaṃ viññāṇanti
viññāṇañcāyatanaṃ upasampajja viharati. Ye ca viññāṇañcāyatane dhammā : viññāṇañcāyatanasaññā
ca cittekaggatā ca, phasso vedanā saññā cetanā cittaṃ chando adhimokkho vīriyaṃ
sati upekkhā manasikāro : tyāssa dhammā anupadavavatthitā honti. Tyāssa dhammā
viditā uppajjanti, viditā upaṭṭhahanti,
viditā abbhatthaṃ gacchanti. So evaṃ pajānāti : 'evaṃ kirame dhammā ahutvā
sambhonti, hutvā paṭiventīti. So tesu dhammesu anupāyo anapāyo anissito appaṭibaddho
vippamutto visaṃyutto vimariyādīkatena cetasā viharati. So 'atthi uttari
nissaraṇanti pajānāti. Tabbahulīkārā atthitvevassa hoti. ''Puna caparaṃ, bhikkhave, sāriputto sabbaso viññāṇañcāyatanaṃ
samatikkamma 'natthi kiñcīti ākiñcaññāyatanaṃ upasampajja viharati. Ye ca
ākiñcaññāyatane dhammā : ākiñcaññāyatanasaññā ca cittekaggatā ca, phasso vedanā
saññā cetanā cittaṃ chando adhimokkho vīriyaṃ sati upekkhā manasikāro : tyāssa
dhammā anupadavavatthitā honti. Tyāssa dhammā viditā uppajjanti, viditā upaṭṭhahanti,
viditā abbhatthaṃ gacchanti. So evaṃ pajānāti : 'evaṃ kirame dhammā ahutvā
sambhonti, hutvā paṭiventīti. So tesu dhammesu anupāyo anapāyo anissito appaṭibaddho
vippamutto visaṃyutto vimariyādīkatena
cetasā viharati. So 'atthi uttari nissaraṇanti pajānāti. Tabbahulīkārā
atthitvevassa hoti.
95. ''Puna caparaṃ,
bhikkhave, sāriputto sabbaso ākiñcaññāyatanaṃ samatikkamma
nevasaññānāsaññāyatanaṃ upasampajja viharati. So tāya samāpattiyā sato vuṭṭhahati.
So tāya samāpattiyā sato vuṭṭhahitvā ye dhammā [ye te dhammā (sī.)] atītā
niruddhā vipariṇatā te dhamme samanupassati
: 'evaṃ kirame dhammā ahutvā sambhonti, hutvā paṭiventīti. So tesu
dhammesu anupāyo anapāyo anissito appaṭibaddho vippamutto visaṃyutto
vimariyādīkatena cetasā viharati. So 'atthi uttari nissaraṇanti pajānāti.
Tabbahulīkārā atthitvevassa hoti.
96. ''Puna caparaṃ, bhikkhave, sāriputto sabbaso
nevasaññānāsaññāyatanaṃ samatikkamma saññāvedayitanirodhaṃ upasampajja
viharati. Paññāya cassa disvā āsavā parikkhīṇā honti. So tāya samāpattiyā sato
vuṭṭhahati. So tāya samāpattiyā sato vuṭṭhahitvā ye dhammā atītā niruddhā
vipariṇatā te dhamme samanupassati : 'evaṃ kirame dhammā ahutvā sambhonti,
hutvā paṭiventīti. So tesu dhammesu anupāyo anapāyo anissito appaṭibaddho
vippamutto visaṃyutto vimariyādīkatena cetasā viharati. So 'natthi uttari
nissaraṇanti pajānāti. Tabbahulīkārā natthitvevassa hoti.
97. ''Yaṃ kho taṃ, bhikkhave, sammā vadamāno vadeyya :
'vasippatto pāramippatto ariyasmiṃ sīlasmiṃ, vasippatto pāramippatto ariyasmiṃ samādhismiṃ, vasippatto
pāramippatto ariyāya paññāya , vasippatto pāramippatto ariyāya vimuttiyāti,
sāriputtameva taṃ sammā vadamāno vadeyya : 'vasippatto pāramippatto ariyasmiṃ
sīlasmiṃ, vasippatto pāramippatto ariyasmiṃ samādhismiṃ, vasippatto
pāramippatto ariyāya paññāya, vasippatto pāramippatto ariyāya vimuttiyāti. Yaṃ
kho taṃ, bhikkhave , sammā vadamāno vadeyya : 'bhagavato putto oraso mukhato
jāto dhammajo dhammanimmito dhammadāyādo no āmisadāyādoti, sāriputtameva taṃ
sammā vadamāno vadeyya : 'bhagavato putto oraso mukhato jāto dhammajo
dhammanimmito dhammadāyādo no āmisadāyādoti. Sāriputto, bhikkhave, tathāgatena
anuttaraṃ dhammacakkaṃ pavattitaṃ sammadeva anuppavattetīti. Idamavoca Bhagavā.
Attamanā te bhikkhū bhagavato bhāsitaṃ abhinandunti.
Anupadasuttaṃ niṭṭhitaṃ paṭhamaṃ.
-ooOoo-
111. Anupadasuttavaṇṇanā [Atthakathā]
93. Evaṃ me
sutanti anupadasuttaṃ. Tattha etadavocāti etaṃ (paṭi. ma. 3.4) ‘‘paṇḍito’’tiādinā
nayena dhammasenāpatisāriputtattherassa guṇakathaṃ avoca. Kasmā?
Avasesattheresu hi mahāmoggallānattherassa iddhimāti guṇo pākaṭo,
mahākassapassa dhutavādoti, anuruddhattherassa dibbacakkhukoti, upālittherassa
vinayadharoti, revatattherassa jhāyī jhānābhiratoti, ānandattherassa
bahussutoti. Evaṃ tesaṃ tesaṃ therānaṃ te te guṇā pākaṭā, sāriputtattherassa
pana apākaṭā. Kasmā? Paññavato hi guṇā na sakkā akathitā jānituṃ. Iti bhagavā
‘‘sāriputtassa guṇe kathessāmī’’ti sabhāgaparisāya sannipātaṃ āgamesi.
Visabhāgapuggalānañhi santike vaṇṇaṃ kathetuṃ na vaṭṭati, te vaṇṇe kathiyamāne
avaṇṇameva kathenti. Imasmiṃ pana divase therassa sabhāgaparisā sannipati,
tassā sannipatitabhāvaṃ disvā satthā vaṇṇaṃ kathento imaṃ desanaṃ ārabhi.
Tattha paṇḍitoti dhātukusalatā āyatanakusalatā paṭiccasamuppādakusalatā
ṭhānāṭṭhānakusalatāti imehi catūhi kāraṇehi paṇḍito. Mahāpaññotiādīsu
mahāpaññādīhi samannāgatoti attho.
Tatridaṃ mahāpaññādīnaṃ nānattaṃ – tattha katamā mahāpaññā?
Mahante sīlakkhandhe pariggaṇhātīti mahāpaññā, mahante samādhikkhandhe,
paññākkhandhe, vimuttikkhandhe, vimuttiñāṇadassanakkhandhe pariggaṇhātīti
mahāpaññā, mahantāni ṭhānāṭṭhānāni, mahantā vihārasamāpattiyo, mahantāni ariyasaccāni,
mahante satipaṭṭhāne, sammappadhāne, iddhipāde, mahantāni indriyāni, balāni,
bojjhaṅgāni, mahante ariyamagge, mahantāni sāmaññaphalāni, mahantā abhiññāyo,
mahantaṃ paramatthaṃ nibbānaṃ pariggaṇhātīti mahāpaññā.
Katamā puthupaññā, puthu nānākhandhesu ñāṇaṃ
pavattatīti puthupaññā. Puthu nānādhātūsu, puthu nānāāyatanesu, puthu
nānāatthesu, puthu nānāpaṭiccasamuppādesu, puthu nānāsuññatamanupalabbhesu,
puthu nānāatthesu, dhammesu, niruttīsu, paṭibhānesu, puthu nānāsīlakkhandhesu,
puthu nānāsamādhi-paññā-vimutti-vimuttiñāṇadassanakkhandhesu, puthu nānāṭhānāṭṭhānesu,
puthu nānāvihārasamāpattīsu, puthu nānāariyasaccesu, puthu nānāsatipaṭṭhānesu,
sammappadhānesu, iddhipādesu, indriyesu, balesu, bojjhaṅgesu, puthu
nānāariyamaggesu, sāmaññaphalesu, abhiññāsu, puthu nānājanasādhāraṇe dhamme
samatikkamma paramatthe nibbāne ñāṇaṃ pavattatīti puthupaññā.
Katamā hāsapaññā, idhekacco hāsabahulo vedabahulo
tuṭṭhibahulo pāmojjabahulo sīlaṃ paripūreti, indriyasaṃvaraṃ paripūreti,
bhojane mattaññutaṃ, jāgariyānuyogaṃ, sīlakkhandhaṃ, samādhikkhandhaṃ,
paññākkhandhaṃ, vimuttikkhandhaṃ, vimuttiñāṇadassanakkhandhaṃ paripūretīti
hāsapaññā. Hāsabahulo pāmojjabahulo ṭhānāṭṭhānaṃ paṭivijjhati, hāsabahulo
vihārasamāpattiyo paripūretīti hāsapaññā, hāsabahulo ariyasaccāni paṭivijjhati.
Satipaṭṭhāne, sammappadhāne, iddhipāde, indriyāni, balāni, bojjhaṅgāni,
ariyamaggaṃ bhāvetīti hāsapaññā, hāsabahulo sāmaññaphalāni sacchikaroti,
abhiññāyo paṭivijjhatīti hāsapaññā, hāsabahulo vedatuṭṭhipāmojjabahulo
paramatthaṃ nibbānaṃ sacchikarotīti hāsapaññā.
Katamā javanapaññā, yaṃkiñci rūpaṃ
atītānāgatapaccuppannaṃ…pe… yaṃ dūre santike vā, sabbaṃ rūpaṃ aniccato khippaṃ
javatīti javanapaññā. Dukkhato khippaṃ… anattato khippaṃ javatīti javanapaññā.
Yā kāci vedanā…pe… yaṃkiñci viññāṇaṃ atītānāgatapaccuppannaṃ…pe… sabbaṃ viññāṇaṃ
aniccato dukkhato anattato khippaṃ javatīti javanapaññā. Cakkhu…pe… jarāmaraṇaṃ
atītānāgatapaccuppannaṃ aniccato dukkhato anattato khippaṃ javatīti
javanapaññā. Rūpaṃ atītānāgatapaccuppannaṃ aniccaṃ khayaṭṭhena, dukkhaṃ bhayaṭṭhena,
anattā asārakaṭṭhenāti tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā
rūpanirodhe nibbāne khippaṃ javatīti javanapaññā. Vedanā, saññā, saṅkhārā,
viññāṇaṃ, cakkhu…pe… jarāmaraṇaṃ atītānāgatapaccuppannaṃ aniccaṃ khayaṭṭhena…pe…
vibhūtaṃ katvā jarāmaraṇanirodhe nibbāne khippaṃ javatīti javanapaññā. Rūpaṃ
atītānāgatapaccuppannaṃ…pe… viññāṇaṃ. Cakkhu…pe… jarāmaraṇaṃ
atītānāgatapaccuppannaṃ aniccaṃ saṅkhataṃ paṭiccasamuppannaṃ khayadhammaṃ
vayadhammaṃ virāgadhammaṃ nirodhadhammanti tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā
vibhūtaṃ katvā jarāmaraṇanirodhe nibbāne khippaṃ javatīti javanapaññā.
Katamā tikkhapaññā, khippaṃ kilese chindatīti
tikkhapaññā. Uppannaṃ kāmavitakkaṃ nādhivāseti, uppannaṃ byāpādavitakkaṃ,
uppannaṃ vihiṃsāvitakkaṃ, uppannuppanne pāpake akusale dhamme, uppannaṃ rāgaṃ,
dosaṃ, mohaṃ, kodhaṃ, upanāhaṃ, makkhaṃ, paḷāsaṃ, issaṃ, macchariyaṃ, māyaṃ, sāṭheyyaṃ,
thambhaṃ, sārambhaṃ, mānaṃ, atimānaṃ, madaṃ, pamādaṃ, sabbe kilese, sabbe
duccarite, sabbe abhisaṅkhāre, sabbe bhavagāmikamme nādhivāseti pajahati
vinodeti byantīkaroti anabhāvaṃ gametīti tikkhapaññā. Ekasmiṃ āsane cattāro
ariyamaggā, cattāri sāmaññaphalāni, catasso paṭisambhidāyo, cha ca abhiññāyo
adhigatā honti sacchikatā passitā paññāyāti tikkhapaññā.
Katamā nibbedhikapaññā, idhekacco sabbasaṅkhāresu
ubbegabahulo hoti uttāsabahulo ukkaṇṭhanabahulo aratibahulo anabhiratibahulo
bahimukho na ramati sabbasaṅkhāresu, anibbiddhapubbaṃ appadālitapubbaṃ
lobhakkhandhaṃ nibbijjhati padāletīti nibbedhikapaññā. Anibbiddhapubbaṃ appadālitapubbaṃ
dosakkhandhaṃ, mohakkhandhaṃ, kodhaṃ, upanāhaṃ…pe… sabbe bhavagāmikamme
nibbijjhati padāletīti nibbedhikapaññā.
Anupadadhammavipassananti samāpattivasena vā
jhānaṅgavasena vā anupaṭipāṭiyā dhammavipassanaṃ vipassati, evaṃ vipassanto
addhamāsena arahattaṃ patto. Mahāmoggallānatthero pana sattahi divasehi. Evaṃ
santepi sāriputtatthero mahāpaññavantataro. Mahāmoggallānatthero hi sāvakānaṃ
sammasanacāraṃ yaṭṭhikoṭiyā uppīḷento viya ekadesameva sammasanto satta divase
vāyamitvā arahattaṃ patto. Sāriputtatthero ṭhapetvā buddhānaṃ
paccekabuddhānañca sammasanacāraṃ sāvakānaṃ sammasanacāraṃ nippadesaṃ sammasi.
Evaṃ sammasanto addhamāsaṃ vāyami. Arahattañca kira patvā aññāsi – ‘‘ṭhapetvā
buddhe ca paccekabuddhe ca añño sāvako nāma paññāya mayā pattabbaṃ pattuṃ
samattho nāma na bhavissatī’’ti. Yathā hi puriso veḷuyaṭṭhiṃ gaṇhissāmīti
mahājaṭaṃ veḷuṃ disvā jaṭaṃ chindantassa papañco bhavissatīti antarena hatthaṃ
pavesetvā sampattameva yaṭṭhiṃ mūle ca agge ca chinditvā ādāya pakkameyya, so
kiñcāpi paṭhamataraṃ gacchati, yaṭṭhiṃ pana sāraṃ vā ujuṃ vā na labhati. Aparo
ca tathārūpameva veṇuṃ disvā ‘‘sace sampattaṃ yaṭṭhiṃ gaṇhissāmi, sāraṃ vā ujuṃ
vā na labhissāmī’’ti kacchaṃ bandhitvā mahantena satthena veṇujaṭaṃ chinditvā
sārā ceva ujū ca yaṭṭhiyo uccinitvā ādāya pakkameyya. Ayaṃ kiñcāpi pacchā
gacchati, yaṭṭhiyo pana sārā ceva ujū ca labhati. Evaṃsampadamidaṃ veditabbaṃ
imesaṃ dvinnaṃ therānaṃ padhānaṃ.
Evaṃ pana addhamāsaṃ vāyamitvā dhammasenāpati
sāriputtatthero sūkarakhataleṇadvāre bhāgineyyassa dīghanakhaparibbājakassa
vedanāpariggahasuttante desiyamāne dasabalaṃ bījayamāno ṭhito desanānusārena ñāṇaṃ
pesetvā pabbajitadivasato pannarasame divase sāvakapāramiñāṇassa matthakaṃ
patvā sattasaṭṭhi ñāṇāni paṭivijjhitvā soḷasavidhaṃ paññaṃ anuppatto.
Tatridaṃ, bhikkhave,
sāriputtassa anupadadhammavipassanāyāti yā anupadadhammavipassanaṃ vipassatīti
anupadadhammavipassanā vuttā, tatra anupadadhammavipassanāya sāriputtassa idaṃ
hoti. Idāni vattabbaṃ taṃ taṃ vipassanākoṭṭhāsaṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ.
94. Paṭhame jhāneti
ye paṭhame jhāne antosamāpattiyaṃ dhammā. Tyāssāti te assa. Anupadavavatthitā
hontīti anupaṭipāṭiyā vavatthitā paricchinnā ñātā viditā honti. Kathaṃ?
Thero hi te dhamme olokento abhiniropanalakkhaṇo vitakko vattatīti jānāti.
Tathā anumajjanalakkhaṇo vicāro, pharaṇalakkhaṇā pīti, sātalakkhaṇaṃ sukhaṃ,
avikkhepalakkhaṇā cittekaggatā, phusanalakkhaṇo phasso vedayitalakkhaṇā vedanā,
sañjānanalakkhaṇā saññā, cetayitalakkhaṇā cetanā, vijānanalakkhaṇaṃ viññāṇaṃ,
kattukamyatālakkhaṇo chando, adhimokkhalakkhaṇo adhimokkho, paggāhalakkhaṇaṃ
vīriyaṃ upaṭṭhānalakkhaṇā sati, majjhattalakkhaṇā upekkhā,
anunayamanasikāralakkhaṇo manasikāro vattatīti jānāti. Evaṃ jānaṃ abhiniropanaṭṭhena
vitakkaṃ sabhāvato vavatthapeti…pe… anunayamanasikāraṇaṭṭhena manasikāraṃ
sabhāvabhāvato vavatthapeti. Tena vuttaṃ ‘‘tyāssa dhammā anupadavavatthitā
hontī’’ti.
Viditā uppajjantīti uppajjamānā viditā
pākaṭāva hutvā uppajjanti. Viditā upaṭṭhahantīti tiṭṭhamānāpi viditā
pākaṭāva hutvā tiṭṭhanti. Viditā abbhatthaṃ gacchantīti nirujjhamānāpi
viditā pākaṭāva hutvā nirujjhanti. Ettha pana taṃñāṇatā ceva ñāṇabahutā ca
mocetabbā. Yathā hi teneva aṅgulaggena taṃ aṅgulaggaṃ na sakkā phusituṃ,
evameva teneva cittena tassa cittassa uppādo vā ṭhiti vā bhaṅgo vā na sakkā
jānitunti. Evaṃ tāva taṃñāṇatā mocetabbā. Yadi pana dve cittāni ekato
uppajjeyyuṃ, ekena cittena ekassa uppādo vā ṭhiti vā bhaṅgo vā sakkā bhaveyya
jānituṃ. Dve pana phassā vā vedanā vā saññā vā cetanā vā cittāni vā ekato
uppajjanakāni nāma natthi, ekekameva uppajjati. Evaṃ ñāṇabahutā mocetabbā. Evaṃ
sante kathaṃ? Mahātherassa antosamāpattiyaṃ soḷasa dhammā viditā pākaṭā
hontīti. Vatthārammaṇānaṃ pariggahitatāya. Therena hi vatthu ceva ārammaṇañca
pariggahitaṃ, tenassa tesaṃ dhammānaṃ uppādaṃ āvajjantassa uppādo pākaṭo hoti, ṭhānaṃ
āvajjantassa ṭhānaṃ pākaṭaṃ hoti, bhedaṃ āvajjantassa bhedo pākaṭo hoti. Tena
vuttaṃ ‘‘viditā uppajjanti viditā upaṭṭhahanti viditā abbhatthaṃ gacchantī’’ti.
Ahutvā sambhontīti iminā udayaṃ passati. Hutvā paṭiventīti iminā
vayaṃ passati.
Anupāyoti rāgavasena anupagamano
hutvā. Anapāyoti paṭighavasena anapagato. Anissitoti taṇhādiṭṭhinissayehi
anissito. Appaṭibaddhoti chandarāgena abaddho. Vippamuttoti
kāmarāgato vippamutto. Visaṃyuttoti catūhi yogehi sabbakilesehi vā visaṃyutto.
Vimariyādīkatenāti nimmariyādīkatena. Cetasāti evaṃvidhena
cittena viharati.
Tattha dve mariyādā kilesamariyādā ca ārammaṇamariyādā
ca. Sace hissa antosamāpattiyaṃ pavatte soḷasa dhamme ārabbha rāgādayo
uppajjeyyuṃ, kilesamariyādā tena katā bhaveyya, tesu panassa ekopi na uppannoti
kilesamariyādā natthi. Sace panassa antosamāpattiyaṃ pavatte soḷasa dhamme
āvajjantassa ekacce āpāthaṃ nāgaccheyyuṃ. Evamassa ārammaṇamariyādā bhaveyyuṃ.
Te panassa soḷasa dhamme āvajjantassa āpāthaṃ anāgatadhammo nāma natthīti
ārammaṇamariyādāpi natthi.
Aparāpi dve mariyādā vikkhambhanamariyādā ca
samucchedamariyādā ca. Tāsu samucchedamariyādā upari āgamissati, imasmiṃ pana ṭhāne
vikkhambhanamariyādā adhippetā. Tassa vikkhambhitapaccanīkattā natthīti
vimariyādikatena cetasā viharati.
Uttari nissaraṇanti
ito uttari nissaraṇaṃ. Aññesu ca suttesu ‘‘uttari nissaraṇa’’nti nibbānaṃ vuttaṃ,
idha pana anantaro viseso adhippetoti veditabbo. Tabbahulīkārāti tassa
pajānanassa bahulīkaraṇena. Atthitvevassa hotīti tassa therassa
atthītiyeva daḷhataraṃ hoti. Iminā nayena sesavāresupi attho veditabbo.
Dutiyavāre pana sampasādanaṭṭhena sampasādo.
Sabhāvato vavatthapeti.
Catutthavāre upekkhāti sukhaṭṭhāne
vedanupekkhāva. Passaddhattā cetaso anābhogoti yo so ‘‘yadeva tattha
sukha’’nti cetaso ābhogo, etenetaṃ oḷārikamakkhāyatīti evaṃ passaddhattā cetaso
anābhogo vutto, tassa abhāvāti attho. Satipārisuddhīti
parisuddhāsatiyeva. Upekkhāpi pārisuddhiupekkhā.
95. Sato vuṭṭhahatīti
satiyā samannāgato ñāṇena sampajāno hutvā vuṭṭhāti. Te dhamme samanupassatīti
yasmā nevasaññānāsaññāyatane buddhānaṃyeva anupadadhammavipassanā hoti, na
sāvakānaṃ, tasmā ettha kalāpavipassanaṃ dassento evamāha.
Paññāya cassa disvā āsavā
parikkhīṇā hontīti maggapaññāya cattāri saccāni disvā cattāro āsavā khīṇā
honti. Sāriputtattherassa samathavipassanaṃ yuganaddhaṃ āharitvā arahattaṃ
pattavāropi atthi, nirodhasamāpattisamāpannavāropi. Arahattaṃ pattavāro idha
gahito, nirodhaṃ pana ciṇṇavasitāya aparāparaṃ samāpajjissatīti vadanti.
Tatthassa yasmiṃ kāle nirodhasamāpatti sīsaṃ hoti,
nirodhassa vāro āgacchati, phalasamāpatti gūḷhā hoti. Yasmiṃ kāle
phalasamāpatti sīsaṃ hoti, phalasamāpattiyā vāro āgacchati, nirodhasamāpatti gūḷhā
hoti. Jambudīpavāsino therā pana vadanti ‘‘sāriputtatthero samathavipassanaṃ
yuganaddhaṃ āharitvā anāgāmiphalaṃ sacchikatvā nirodhaṃ samāpajji, nirodhā vuṭṭhāya
arahattaṃ patto’’ti. Te dhammeti antosamāpattiyaṃ pavatte tisamuṭṭhānikarūpadhamme,
heṭṭhā nevasaññānāsaññāyatanasamāpattiyaṃ pavattadhamme vā. Tepi hi imasmiṃ
vāre vipassitabbadhammāva, tasmā te vā vipassatīti dassetuṃ idaṃ vuttanti
veditabbaṃ.
97. Vasippatoti ciṇṇavasitaṃ
patto. Pāramippattoti nipphattiṃ patto. Orasotiādīsu thero
bhagavato ure nibbattasaddaṃ sutvā jātoti oraso, mukhena pabhāvitaṃ saddaṃ
sutvā jātoti mukhato jāto, dhammena pana jātattā nimmitattā dhammajo
dhammanimmito, dhammadāyassa ādiyanato dhammadāyādo, āmisadāyassa
anādiyanato no āmisadāyādoti veditabbo. Sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
Papañcasūdaniyā majjhimanikāyaṭṭhakathāya
Anupadasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
-ooOoo-
II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành
Thảo luận 1. Chúng ta làm thế nào để nhìn lại chính mình về trình độ, trạng thái tâm, và những thành tựu có được về mặt tinh thân? - TT Tuệ Quyền
Thảo luận 2. Quán sát sự sanh diệt ở thân tâm có lợi lạc gì? - ĐĐ Pháp Tín
Thảo luận 3. TT Giác Đẳng chia sẻ tin tức về đại dịch Covid-19
Thảo luận 1. Chúng ta làm thế nào để nhìn lại chính mình về trình độ, trạng thái tâm, và những thành tựu có được về mặt tinh thân? - TT Tuệ Quyền
Thảo luận 2. Quán sát sự sanh diệt ở thân tâm có lợi lạc gì? - ĐĐ Pháp Tín
Thảo luận 3. TT Giác Đẳng chia sẻ tin tức về đại dịch Covid-19
III Trắc Nghiệm
No comments:
Post a Comment